20 – Chuyện kể chàng Whittington

THE HISTORY OF WHITTINGTON CHUYỆN KỂ CHÀNG WHITTINGTON
Dick Whittington was a very little boy when his father and mother died; so little, indeed, that he never knew them, nor the place where he was born. Ngày xưa, khi Dick Whittington còn là một cậu bé thì cha mẹ cậu đã qua đời; cậu bé nhỏ đến nỗi thậm chí không biết mặt cha mẹ, cũng chẳng hay quê cha đất tổ ở đâu.
He strolled about the country as ragged as a colt, till he met with a wagoner who was going to London, and who gave him leave to walk all the way by the side of his wagon without paying anything for his passage. Cậu cứ thế lang thang khắp miền quê, rách rưới như một chú ngựa non hoang, cho tới khi gặp một người phu xe đang trên đường tới Luân Đôn, người này cho phép cậu đi bộ theo bên cạnh cỗ xe của ông suốt chặng đường mà không phải trả một đồng nào.
This pleased little Whittington very much, as he wanted to see London sadly, for he had heard that the streets were paved with gold, and he was willing to get a bushel of it; but how great was his disappointment, poor boy! Điều này khiến cậu bé Whittington vui sướng vô cùng, bởi cậu tha thiết ao ước được thấy kinh thành Luân Đôn, vì cậu nghe đồn rằng đường phố nơi ấy được lát toàn bằng vàng, và cậu chỉ mong nhặt được đầy một giạ mang về; nhưng than ôi, cậu đã thất vọng biết chừng nào!
when he saw the streets covered with dirt instead of gold, and found himself in a strange place, without a friend, without food, and without money. khi đến nơi, cậu chỉ thấy đường phố toàn là bùn đất chứ chẳng có vàng đâu cả, và thấy mình bơ vơ ở một nơi xa lạ, không bạn bè, không thức ăn, không một đồng xu dính túi.
Though the wagoner was so charitable as to let him walk up by the side of the wagon for nothing, he took care not to know him when he came to town, and the poor boy was, in a little time, so cold and hungry that he wished himself in a good kitchen and by a warm fire in the country. Dù người phu xe đã hảo tâm cho cậu đi nhờ suốt quãng đường, nhưng khi vào đến thành phố, ông ta vội lờ đi như không hề quen biết, và chẳng bao lâu sau, cậu bé tội nghiệp vừa đói vừa rét, chỉ ao ước mình đang ở trong một căn bếp ấm cúng, bên cạnh ngọn lửa hồng nơi miền quê.
In his distress he asked charity of several people, and one of them bid him “Go to work for an idle rogue.” Trong cơn cùng quẫn, cậu ngửa tay xin lòng thương của vài người qua lại, và một trong số họ nạt nộ: “Đồ lười biếng, đi mà làm việc đi!”.
“That I will,” said Whittington, “with all my heart; I will work for you if you will let me.” “Cháu sẽ làm ạ,” Whittington đáp lời, “cháu xin làm hết lòng! Cháu sẽ làm việc cho ông nếu ông cho phép.”
The man, who thought this savored of wit and impertinence (though the poor lad intended only to show his readiness to work), gave him a blow with a stick which broke his head so that the blood ran down. Người đàn ông kia cho rằng cậu bé đang giảo hoạt và xấc láo (dù cậu bé tội nghiệp chỉ muốn thể hiện sự sẵn lòng làm việc của mình), liền vung gậy đánh một cú vỡ đầu cậu, máu chảy ròng ròng.
In this situation, and fainting for want of food, he laid himself down at the door of one Mr. Fitzwarren, a merchant, where the cook saw him, and, being an ill-natured hussy, ordered him to go about his business or she would scald him. Trong tình cảnh ấy, lại thêm lả đi vì đói, cậu nằm gục xuống trước cửa nhà một thương gia tên là Fitzwarren, nơi mụ đầu bếp trong nhà trông thấy, vốn là một người đàn bà đanh đá, liền đuổi cậu đi nếu không sẽ bị mụ dội nước sôi vào người.
At this time Mr. Fitzwarren came from the Exchange, and began also to scold at the poor boy, bidding him to go to work. Đúng lúc đó, ông Fitzwarren từ sở giao dịch trở về, cũng bắt đầu mắng mỏ cậu bé, bảo cậu hãy đi tìm việc mà làm.
Whittington answered that he should be glad to work if anybody would employ him, and that he should be able if he could get some victuals to eat, for he had had nothing for three days, and he was a poor country boy, and knew nobody, and nobody would employ him. Whittington trả lời rằng cậu rất sẵn lòng làm việc nếu có ai đó thuê mướn, và cậu sẽ làm được nếu có gì đó để ăn, vì ba ngày nay cậu chưa có gì vào bụng, cậu chỉ là một đứa trẻ quê mùa tội nghiệp, không quen biết ai, và cũng chẳng ai thuê cậu cả.
He then endeavored to get up, but he was so very weak that he fell down again, which excited so much compassion in the merchant that he ordered the servants to take him in and give him some meat and drink, and let him help the cook to do any dirty work that she had to set him about. Nói rồi cậu cố gượng dậy, nhưng vì quá yếu sức, cậu lại ngã quỵ xuống, cảnh tượng đó khiến nhà thương gia động lòng trắc ẩn, ông ra lệnh cho người hầu đưa cậu vào nhà, cho cậu một ít thịt và nước uống, rồi bảo cậu phụ giúp mụ bếp làm những công việc vặt vãnh.
People are too apt to reproach those who beg with being idle, but give themselves no concern to put them in the way of getting business to do, or considering whether they are able to do it, which is not charity. Người đời thường vội trách cứ kẻ ăn xin là lười biếng, mà chẳng buồn nghĩ cách cho họ một công việc hay xem xét liệu họ có đủ sức để làm hay không, đó không phải là lòng nhân từ.
But we return to Whittington, who could have lived happy in this worthy family had he not been bumped about by the cross cook, who must be always roasting and basting, or when the spit was idle employed her hands upon poor Whittington! Trở lại với Whittington, cậu bé đáng lẽ đã có thể sống hạnh phúc trong gia đình tử tế này nếu không bị mụ đầu bếp hay cáu kỉnh hành hạ, mụ ta luôn tay quay rô-ti và rưới mỡ, còn khi xiên quay thịt được nghỉ thì đôi tay của mụ lại bận rộn trút giận lên đầu Whittington tội nghiệp!
At last Miss Alice, his master’s daughter, was informed of it, and then she took compassion on the poor boy, and made the servants treat him kindly. Cuối cùng, cô Alice, con gái ông chủ, biết được chuyện, và cô thương cảm cho cậu bé và ra lệnh cho những người hầu phải đối xử tử tế với cậu.
Besides the crossness of the cook, Whittington had another difficulty to get over before he could be happy. Ngoài sự khắc nghiệt của mụ đầu bếp, Whittington còn một nỗi khổ khác phải vượt qua.
He had, by order of his master, a flock-bed placed for him in a garret, where there was a number of rats and mice that often ran over the poor boy’s nose and disturbed him in his sleep. Theo lệnh ông chủ, cậu được cấp một chiếc giường rơm trên gác xép, nơi có vô số chuột lớn chuột bé thường xuyên chạy qua mặt cậu, phá rối giấc ngủ.
After some time, however, a gentleman who came to his master’s house gave Whittington a penny for brushing his shoes. Tuy nhiên, ít lâu sau, một vị khách đến nhà ông chủ đã cho Whittington một đồng xu vì cậu đã đánh giày cho ông.
This he put into his pocket, being determined to lay it out to the best advantage; and the next day, seeing a woman in the street with a cat under her arm, he ran up to know the price of it. Cậu cất đồng xu vào túi, quyết tâm dùng nó vào việc có ích nhất; và ngày hôm sau, thấy một người phụ nữ với con mèo cắp dưới cánh tay, cậu chạy tới hỏi giá.
The woman (as the cat was a good mouser) asked a deal of money for it, but on Whittington’s telling her he had but a penny in the world, and that he wanted a cat sadly, she let him have it. Người phụ nữ (vì con mèo là một con mèo bắt chuột rất giỏi) đòi giá khá cao, nhưng khi Whittington kể rằng cậu chỉ có độc một đồng xu trên đời và đang rất cần một con mèo, bà cũng xiêu lòng bán cho cậu.
This cat Whittington concealed in the garret, for fear she should be beat about by his mortal enemy the cook, and here she soon killed or frightened away the rats and mice, so that the poor boy could now sleep as sound as a top. Con mèo này được Whittington giấu trên gác xép, sợ rằng kẻ thù không đội trời chung của cậu là mụ bếp sẽ đánh đập nó, và ở đó, chẳng bao lâu nó đã giết sạch hoặc dọa cho lũ chuột chạy mất dép, thế là cậu bé có thể ngủ say như chết.
Soon after this the merchant, who had a ship ready to sail, called for his servants, as his custom was, in order that each of them might venture something to try their luck; and whatever they sent was to pay neither freight nor custom, for he thought justly that God Almighty would bless him the more for his readiness to let the poor partake of his fortune. Một thời gian ngắn sau, nhà thương gia có một con tàu sắp ra khơi. Theo thông lệ, ông gọi tất cả người hầu của mình đến để mỗi người có thể đem một thứ gì đó đi buôn thử vận may; và bất kể họ gửi thứ gì cũng không bị tính cước phí vận chuyển hay thuế quan, vì ông tin rằng Thượng Đế sẽ ban thêm phước lành cho ông vì sự rộng lượng cho người nghèo cùng chia sẻ cơ hội làm ăn của mình.
All the servants appeared but poor Whittington, who, having neither money nor goods, could not think of sending anything to try his luck; but his good friend Miss Alice, thinking his poverty kept him away, ordered him to be called. Tất cả người hầu đều có mặt, trừ Whittington tội nghiệp, cậu không có tiền bạc hay hàng hóa gì, nên không dám nghĩ đến việc gửi đi thứ gì để thử vận; nhưng người bạn tốt của cậu, cô Alice, nghĩ rằng sự nghèo khó đã cản cậu lại nên đã cho gọi cậu đến.
She then offered to lay down something for him, but the merchant told his daughter that would not do, it must be something of his own. Cô ngỏ ý muốn đưa thứ gì đó cho cậu, nhưng nhà thương gia bảo con gái rằng như vậy không được, đó phải là thứ của riêng cậu bé.
Upon which poor Whittington said he had nothing but a cat which he bought for a penny that was given him. Nghe vậy, Whittington tội nghiệp thưa rằng cậu chỉ có một con mèo, mua bằng một đồng xu người ta cho.
“Fetch thy cat, boy,” said the merchant, “and send her.” “Vậy thì mang con mèo của con lại đây,” nhà thương gia nói, “và gửi nó đi.”
Whittington brought poor puss and delivered her to the captain, with tears in his eyes, for he said he should now be disturbed by the rats and mice as much as ever. Whittington nước mắt lưng tròng, bế con mèo yêu quý của mình ra trao cho vị thuyền trưởng, bởi cậu nghĩ rằng từ nay cậu sẽ lại bị lũ chuột quấy rầy như trước.
All the company laughed at the adventure but Miss Alice, who pitied the poor boy, and gave him something to buy another cat. Cả nhà đều phá lên cười trước câu chuyện lạ lùng này, trừ cô Alice, cô thương cậu bé và cho cậu ít tiền để mua một con mèo khác.
While puss was beating the billows at sea, poor Whittington was severely beaten at home by his tyrannical mistress the cook, who used him so cruelly, and made such game of him for sending his cat to sea, that at last the poor boy determined to run away from his place, and having packed up the few things he had, he set out very early in the morning on All-Hallows day. Trong khi cô mèo đang vật lộn với sóng dữ ngoài khơi thì Whittington tội nghiệp ở nhà cũng bị hành hạ tàn tệ bởi mụ đầu bếp độc ác, mụ đối xử với cậu quá sức tàn nhẫn và luôn lấy chuyện cậu gửi mèo ra khơi để chế giễu, đến nỗi cuối cùng, cậu bé quyết định bỏ trốn. Gói ghém vài món đồ ít ỏi của mình, cậu lên đường vào một buổi sáng sớm ngày lễ Chư Thánh.
He traveled as far as Holloway, and there sat down on a stone to consider what course he should take; but while he was thus ruminating, Bow bells, of which there were only six, began to ring; and he thought their sounds addressed him in this manner: Cậu đi mãi tới tận Holloway, rồi ngồi nghỉ trên một tảng đá để suy tính xem nên đi đâu; đúng lúc cậu đang trầm ngâm suy nghĩ thì chuông nhà thờ Bow (khi ấy chỉ có sáu quả) bắt đầu ngân vang; và cậu có cảm giác tiếng chuông đang nói với mình rằng:
“Turn again, Whittington, Thrice Lord Mayor of London.” “Quay lại đi, Whittington, Ba lần làm Thị trưởng Luân Đôn
Lord Mayor of London!” said he to himself, “what would not one endure to be Lord Mayor of London, and ride in such a fine coach? Thị trưởng Luân Đôn ư!” cậu tự nhủ, “Trời ơi! Để được làm Thị trưởng Luân Đôn và ngồi trên cỗ xe ngựa lộng lẫy kia, thì có gian khổ nào mà không chịu đựng được chứ?
Well, I’ll go back again, and bear all the pummelling and ill-usage of Cicely rather than miss the opportunity of being Lord Mayor!” Thôi, mình sẽ quay về, chịu đựng mọi trận đòn roi và sự đối xử tệ bạc của mụ Cicely, còn hơn là bỏ lỡ cơ hội trở thành Thị trưởng!”
So home he went, and happily got into the house and about his business before Mrs. Cicely made her appearance. Thế là cậu quay về nhà, may mắn lẻn vào được và bắt tay vào việc trước khi mụ bếp Cicely xuất hiện.
We must now follow Miss Puss to the coast of Africa. How perilous are voyages at sea, how uncertain the winds and the waves, and how many accidents attend a naval life! Bây giờ, chúng ta hãy theo chân cô mèo đến bờ biển châu Phi. Những chuyến hải hành thật hiểm nguy, gió và sóng biển thật khó lường, và biết bao tai ương rình rập cuộc đời của những người đi biển!
The ship that had the cat on board was long beaten at sea, and at last, by contrary winds, driven on a part of the coast of Barbary which was inhabited by Moors unknown to the English. Con tàu chở theo con mèo đã bị bão tố vùi dập trên biển suốt một thời gian dài, và cuối cùng, do gió ngược, bị đẩy dạt vào một vùng thuộc bờ biển Barbary, nơi sinh sống của người Moors mà người Anh chưa từng biết tới.
These people received our countrymen with civility, and therefore the captain, in order to trade with them, showed them the patterns of the goods he had on board, and sent some of them to the King of the country, who was so well pleased that he sent for the captain and the factor to come to his palace, which was about a mile from the sea. Những người này đón tiếp họ rất lịch sự, vì vậy, để buôn bán với họ, vị thuyền trưởng đã cho họ xem các mẫu hàng hóa ông mang theo và gửi một ít đến nhà Vua của xứ sở này, nhà Vua rất hài lòng và cho mời thuyền trưởng cùng người quản lý hàng hóa đến cung điện, cách bờ biển khoảng một dặm.
Here they were placed, according to the custom of the country, on rich carpets, flowered with gold and silver; and the King and Queen being seated at the upper end of the room, dinner was brought in, which consisted of many dishes; but no sooner were the dishes put down but an amazing number of rats and mice came from all quarters and devoured all the meat in an instant. Tại đây, họ được mời ngồi trên những tấm thảm lộng lẫy dệt hoa văn bằng vàng bạc theo phong tục của xứ sở; VuaHoàng hậu ngự ở đầu phòng, rồi bữa tối được dọn lên với vô số món ăn; nhưng các món ăn vừa được đặt xuống, một đàn chuột đông không thể tưởng tượng nổi từ khắp nơi túa ra, ngốn sạch mọi thứ trong nháy mắt.
The factor, in surprise, turned round to the nobles and asked if these vermin were not offensive. Người quản lý kinh ngạc quay sang hỏi các vị quý tộc rằng liệu lũ chuột này có phiền phức không.
“Oh! yes,” said they, “very offensive; and the King would give half his treasure to be freed of them, for they not only destroy his dinner, as you see, but they assault him in his chamber, and even in bed, so that he is obliged to be watched while he is sleeping, for fear of them.” “Ồ! Có chứ,” họ đáp, “rất phiền phức là đằng khác; và nhà Vua sẵn lòng đổi một nửa kho báu của mình để thoát khỏi chúng, vì chúng không chỉ phá bữa tối của ngài như ông thấy đó, mà còn tấn công ngài trong phòng ngủ, ngay cả trên giường, khiến ngài phải có người canh gác khi ngủ vì sợ chúng.”
The factor jumped for joy; he remembered poor Whittington and his cat, and told the King he had a creature on board the ship that would despatch all these vermin immediately. Người quản lý mừng nhảy cẫng lên; ông nhớ đến Whittington tội nghiệp và con mèo của cậu, và nói với nhà Vua rằng trên tàu có một sinh vật có thể diệt sạch lũ sâu bọ này ngay lập tức.
The King’s heart heaved so high at the joy which this news gave him that his turban dropped off his head. Nghe tin mừng, trái tim nhà Vua đập rộn lên vì vui sướng đến nỗi chiếc khăn xếp trên đầu ngài rơi cả xuống đất.
“Bring this creature to me,” said he; “vermin are dreadful in a court, and if she will perform what you say I will load your ship with gold and jewels in exchange for her.” “Hãy mang sinh vật đó đến cho ta!” nhà Vua phán; “Lũ sâu bọ này thật kinh khủng trong một triều đình, và nếu nó làm được như lời ngươi nói, ta sẽ chất đầy vàng bạc châu báu lên tàu của ngươi để đổi lấy nó.”
The factor, who knew his business, took this opportunity to set forth the merits of Miss Puss. He told his Majesty that it would be inconvenient to part with her, as, when she was gone, the rats and mice might destroy the goods in the ship—but to oblige his Majesty he would fetch her. Người quản lý, vốn nhanh trí, liền nắm lấy cơ hội để tán dương công trạng của cô mèo. Ông tâu với Đức Vua rằng sẽ rất bất tiện nếu phải xa nó, vì khi nó đi rồi, lũ chuột có thể phá hỏng hàng hóa trên tàu—nhưng để làm đẹp lòng Đức Vua, ông sẽ mang nó đến.
“Run, run,” said the Queen; “I am impatient to see the dear creature.” “Chạy đi, chạy đi!” Hoàng hậu nói, “Ta nóng lòng muốn thấy sinh vật đáng yêu đó quá.”
Away flew the factor, while another dinner was providing, and returned with the cat just as the rats and mice were devouring that also. He immediately put down Miss Puss, who killed a great number of them. Người quản lý vội vã chạy đi trong khi bữa tối khác đang được chuẩn bị, và quay lại cùng con mèo đúng lúc lũ chuột đang xâu xé bữa ăn. Ông lập tức đặt cô mèo xuống, và nó đã giết chết một số lượng lớn lũ chuột.
The King rejoiced greatly to see his old enemies destroyed by so small a creature, and the Queen was highly pleased, and desired the cat might be brought near that she might look at her. Nhà Vua vô cùng vui mừng khi thấy những kẻ thù cũ bị tiêu diệt bởi một sinh vật bé nhỏ như vậy, và Hoàng hậu cũng rất hài lòng, và muốn con mèo được đưa lại gần để bà ngắm.
Upon which the factor called “Pussy, pussy, pussy!” and she came to him. Nghe vậy, người quản lý gọi: “Mi mi, mi mi!” và nó chạy đến bên ông.
He then presented her to the Queen, who started back, and was afraid to touch a creature who had made such havoc among the rats and mice; however, when the factor stroked the cat and called “Pussy, pussy!” the Queen also touched her and cried “Putty, putty!” for she had not learned English. Ông dâng nó cho Hoàng hậu, nhưng bà giật lùi, không dám chạm vào một sinh vật vừa tàn sát lũ chuột; tuy nhiên, khi người quản lý vuốt ve con mèo và gọi “Mi mi!”, Hoàng hậu cũng sờ vào nó và kêu lên: “Pú-tì, pú-tì!” vì bà chưa biết tiếng Anh.
He then put her down on the Queen’s lap, where she, purring, played with her Majesty’s hand, and then sang herself to sleep. Sau đó, ông đặt con mèo vào lòng Hoàng hậu, nó rên gừ gừ, đùa nghịch với tay bà rồi ngủ thiếp đi.
The King, having seen the exploits of Miss Puss, and being informed that her kittens would stock the whole country, bargained with the captain and factor for the whole ship’s cargo, and then gave them ten times as much for the cat as all the rest amounted to. Nhà Vua, sau khi chứng kiến tài nghệ của cô mèo và được biết rằng con cháu của nó sẽ có thể nhân giống ra khắp xứ, đã thương lượng với thuyền trưởng và người quản lý để mua toàn bộ hàng hóa trên tàu, và sau đó, ngài trả giá cho con mèo cao gấp mười lần tổng giá trị của số hàng hóa còn lại.
On which, taking leave of their Majesties and other great personages at court, they sailed with a fair wind for England, whither we must now attend them. Nói lời từ biệt Đức Vua, Hoàng hậu và các vị quan lớn trong triều, họ dong buồm trở về Anh quốc trong làn gió thuận.
The morn had scarcely dawned when Mr. Fitzwarren arose to count over the cash and settle the business for that day. Sáng sớm hôm sau, ông Fitzwarren thức dậy để kiểm kê tiền bạc và sắp xếp công việc cho ngày mới.
He had just entered the counting-house, and seated himself at the desk, when somebody came, tap, tap, at the door. “Who’s there?” said Mr. Fitzwarren. “A friend,” answered the other. “What friend can come at this unseasonable time?” “A real friend is never unseasonable,” answered the other. “I come to bring you good news of your ship Unicorn.” Ông vừa vào phòng kế toán và ngồi xuống bàn giấy thì có tiếng gõ cửa: “cốc, cốc”. “Ai đó?” ông Fitzwarren hỏi. “Một người bạn,” tiếng đáp lại. “Người bạn nào lại đến vào giờ này?” “Một người bạn thực sự thì không bao giờ đến sai giờ cả,” người kia đáp. “Tôi đến để báo tin tốt về con tàu Kỳ Lân của ngài.”
The merchant bustled up in such a hurry that he forgot his gout; instantly opened the door, and who should be seen waiting but the captain and factor, with a cabinet of jewels, and a bill of lading, for which the merchant lifted up his eyes and thanked heaven for sending him such a prosperous voyage. Nhà thương gia vội vàng đứng bật dậy, quên cả bệnh gút của mình; tức thì mở cửa, và chờ sẵn ở đó không ai khác chính là vị thuyền trưởng và người quản lý, với một tráp đầy châu báu và một bản kê khai hàng hóa, nhìn thấy chúng, nhà thương gia ngước mắt lên trời, tạ ơn Thượng Đế đã ban cho ông một chuyến đi thịnh vượng như vậy.
Then they told him the adventures of the cat, and showed him the cabinet of jewels which they had brought for Mr. Whittington. Sau đó, họ kể cho ông nghe về cuộc phiêu lưu của con mèo và cho ông xem tráp châu báu họ mang về cho ngài Whittington.
Upon which he cried out with great earnestness, but not in the most poetical manner: “Go, send him in, and tell him of his fame, And call him Mr. Whittington by name.” Nghe xong, ông kêu lên một cách trang trọng, dù không theo cách thơ văn nhất: “Hãy đi gọi cậu ấy vào đây, Báo cho cậu hay tin mừng này, Và từ nay hãy gọi là Ngài Whittington.”
It is not our business to animadvert upon these lines; we are not critics, but historians. Chúng ta không có phận sự bình phẩm những vần thơ này; chúng ta là người kể sử chứ không phải nhà phê bình.
It is sufficient for us that they are the words of Mr. Fitzwarren; and though it is beside our purpose, and perhaps not in our power to prove him a good poet, we shall soon convince the reader that he was a good man, which was a much better character; for when some who were present told him that this treasure was too much for such a poor boy as Whittington, he said: “God forbid that I should deprive him of a penny; it is his own, and he shall have it to a farthing.” Chỉ cần biết đó là lời của ông Fitzwarren là đủ; và dù không nhằm mục đích, cũng như không đủ khả năng chứng minh ông là một nhà thơ giỏi, chúng tôi sẽ sớm thuyết phục độc giả rằng ông là một người tốt, một phẩm chất đáng quý hơn nhiều; bởi khi có người nói rằng kho báu này là quá nhiều cho một cậu bé nghèo như Whittington, ông đáp: “Chúa sẽ không tha thứ cho ta nếu ta lấy của nó dù chỉ một xu; đó là của nó, và nó sẽ nhận được không thiếu một hào.”
He then ordered Mr. Whittington in, who was at this time cleaning the kitchen and would have excused himself from going into the counting-house, saying the room was swept and his shoes were dirty and full of hob-nails. Ông liền cho gọi Ngài Whittington vào, lúc đó, cậu đang lau dọn nhà bếp và muốn xin phép không vào phòng kế toán, nói rằng phòng đã được quét dọn sạch sẽ còn giày của cậu thì bẩn và đóng đầy đinh.
The merchant, however, made him come in, and ordered a chair to be set for him. Tuy nhiên, nhà thương gia vẫn bắt cậu vào và ra lệnh kê ghế cho cậu ngồi.
Upon which, thinking they intended to make sport of him, as had been too often the case in the kitchen, he besought his master not to mock a poor simple fellow, who intended them no harm, but let him go about his business. Whittington nghĩ rằng họ định trêu chọc mình, như chuyện vẫn thường xảy ra dưới bếp, liền van nài ông chủ đừng chế giễu một kẻ khờ khạo tội nghiệp không hề có ý xấu, mà hãy để cậu đi làm việc của mình.
The merchant, taking him by the hand, said: “Indeed, Mr. Whittington, I am in earnest with you, and sent for you to congratulate you on your great success. Your cat has procured you more money than I am worth in the world, and may you long enjoy it and be happy!” Nhà thương gia nắm lấy tay cậu và nói: “Thưa Ngài Whittington, tôi hoàn toàn nghiêm túc. Tôi cho gọi ngài đến để chúc mừng thành công lớn lao của ngài. Con mèo của ngài đã mang về cho ngài nhiều tiền hơn cả gia sản của tôi, và mong ngài sẽ mãi mãi tận hưởng và hạnh phúc với nó!”
At length, being shown the treasure, and convinced by them that all of it belonged to him, he fell upon his knees and thanked the Almighty for his providential care of such a poor and miserable creature. Cuối cùng, khi được cho xem kho báu và được mọi người thuyết phục rằng tất cả là của mình, cậu quỳ xuống tạ ơn Đấng Toàn Năng đã quan phòng, chăm lo cho một sinh linh khốn khổ, đáng thương như cậu.
He then laid all the treasure at his master’s feet, who refused to take any part of it, but told him he heartily rejoiced at his prosperity, and hoped the wealth he had acquired would be a comfort to him, and would make him happy. Sau đó, cậu đặt toàn bộ kho báu dưới chân ông chủ, nhưng ông chủ từ chối nhận bất cứ phần nào, nói rằng ông hết lòng vui mừng cho sự thịnh vượng của cậu và hy vọng khối tài sản này sẽ mang lại cho cậu sự an nhàn và hạnh phúc.
He then applied to his mistress, and to his good friend Miss Alice, who refused to take any part of the money, but told him she heartily rejoiced at his good success, and wished him all imaginable felicity. Cậu lại dâng tặng cho bà chủ và người bạn tốt của mình là cô Alice, nhưng họ cũng từ chối và nói rằng họ rất vui cho thành công của cậu và chúc cậu mọi điều may mắn.
He then gratified the captain, factor, and the ship’s crew for the care they had taken of his cargo. Sau đó, cậu hậu tạ thuyền trưởng, người quản lý và thủy thủ đoàn vì đã chăm sóc cho “hàng hóa” của cậu.
He likewise distributed presents to all the servants in the house, not forgetting even his old enemy the cook, though she little deserved it. Cậu cũng chia quà cho tất cả người hầu trong nhà, không quên cả kẻ thù cũ là mụ bếp, dù mụ chẳng hề xứng đáng.
After this Mr. Fitzwarren advised Mr. Whittington to send for the necessary people and dress himself like a gentleman, and made him the offer of his house to live in till he could provide himself with a better. Sau đó, ông Fitzwarren khuyên Ngài Whittington nên cho mời những người cần thiết đến và ăn vận như một quý ông, rồi ngỏ ý mời cậu ở lại nhà mình cho đến khi tìm được nơi ở tốt hơn.
Now it came to pass when Mr. Whittington’s face was washed, his hair curled, and he dressed in a rich suit of clothes, that he turned out a genteel young fellow; and, as wealth contributes much to give a man confidence, he in a little time dropped that sheepish behavior which was principally occasioned by a depression of spirits, and soon grew a sprightly and good companion, insomuch that Miss Alice, who had formerly pitied him, now fell in love with him. Và rồi chuyện xảy ra là khi Ngài Whittington được tắm rửa sạch sẽ, uốn tóc và mặc một bộ trang phục sang trọng, chàng bỗng hóa thành một thanh niên lịch lãm; sự giàu có giúp con người thêm tự tin, chẳng bao lâu chàng đã rũ bỏ vẻ rụt rè, vốn chủ yếu là do tinh thần bị dồn nén trước đây, và nhanh chóng trở thành một người bạn đồng hành hoạt bát và thú vị, đến nỗi cô Alice, người trước kia chỉ thương hại chàng, nay lại đem lòng yêu mến.
When her father perceived they had this good liking for each other he proposed a match between them, to which both parties cheerfully consented, and the Lord Mayor, Court of Aldermen, Sheriffs, the Company of Stationers, the Royal Academy of Arts, and a number of eminent merchants attended the ceremony, and were elegantly treated at an entertainment made for that purpose. Khi cha cô nhận thấy hai người có tình ý với nhau, ông đã đề nghị tác hợp cho họ, cả hai vui vẻ chấp thuận, và ngài Thị trưởng, Hội đồng Thành phố, các Cảnh sát trưởng, Học viện Nghệ thuật Hoàng gia, cùng vô số thương gia và nhân vật quan trọng đã đến dự hôn lễ và được thiết đãi một bữa tiệc linh đình.
History further relates that they lived very happy, had several children, and died at a good old age. Lịch sử kể lại rằng họ sống rất hạnh phúc, có nhiều con cái và qua đời ở tuổi thọ rất cao.
Mr. Whittington served as Sheriff of London and was three times Lord Mayor. Ngài Whittington đã giữ chức Cảnh sát trưởng Luân Đôn và ba lần được bầu làm Thị trưởng.
In the last year of his mayoralty he entertained King Henry V and his Queen, after his conquest of France, upon which occasion the King, in consideration of Whittington’s merit, said: “Never had prince such a subject”; which being told to Whittington at the table, he replied: “Never had subject such a king.” Trong năm cuối cùng của nhiệm kỳ, ông đã chiêu đãi Vua Henry VHoàng hậu sau khi nhà Vua chinh phục nước Pháp trở về, nhân dịp đó, nhà Vua, cảm kích trước công đức của Whittington, đã phán rằng: “Chưa từng có vị quân vương nào lại có được một thần dân như thế.”; khi câu nói này được kể lại cho Whittington tại bàn tiệc, ông đáp: “Muôn tâu Bệ hạ, cũng chưa từng có thần dân nào lại có được một vị vua như thế.”
His Majesty, out of respect to his good character, conferred the honor of knighthood on him soon after. Để tôn vinh phẩm cách cao đẹp của ông, ít lâu sau, nhà Vua đã phong tước hiệp sĩ cho ông.
Sir Richard many years before his death constantly fed a great number of poor citizens, built a church and a college to it, with a yearly allowance for poor scholars, and near it erected a hospital. Nhiều năm trước khi qua đời, Ngài Richard Whittington đã không ngừng cứu tế cho rất nhiều dân nghèo, xây dựng một nhà thờ và một trường học bên cạnh, với khoản trợ cấp hàng năm cho các học giả nghèo, và gần đó ông còn cho xây một bệnh viện.
He also built Newgate for criminals, and gave liberally to St. Bartholomew’s Hospital and other public charities. Ông cũng cho xây lại nhà tù Newgate cho phạm nhân, và quyên góp hào phóng cho bệnh viện St. Bartholomew cùng các tổ chức từ thiện công cộng khác.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.