Chương 1

Chapter 1
Introductory—Ancestry—The Northup Family—Birth And Parentage—Mintus Northup—Marriage With Anne Hampton—Good Resolutions—Champlain Canal—Rafting Excursion To Canada—Farming—The Violin—Cooking—Removal To Saratoga—Parker And Perry—Slaves—And Slavery—The Children—The Beginning Of Sorrow
Chương 1
Lời Mở đầu – Tổ tiên – Gia đình Northup – Thân sinh và Chào đời – Mintus Northup – Kết hôn cùng Anne Hampton – Những dự định thiện lành – Kênh Champlain – Chuyến đi kết bè đến Canada – Việc đồng áng – Cây vĩ cầm – Tài nấu nướng – Chuyển đến Saratoga – Parker và Perry – Những người nô lệ và Kiếp nô lệ – Những đứa con – Khởi đầu của bi kịch
Having been born a freeman, and for more than thirty years enjoyed the blessings of liberty in a free State–and having at the end of that time been kidnapped and sold into Slavery, where I remained, until happily rescued in the month of January, 1853, after a bondage of twelve years—it has been suggested that an account of my life and fortunes would not be uninteresting to the public. Vốn sinh ra là một người tự do, hơn ba mươi năm được hưởng ân huệ của nền độc lập tại một tiểu bang tự do – thế rồi, chuỗi ngày tươi đẹp ấy chấm dứt khi tôi bị bắt cóc và bán vào kiếp nô lệ. Tôi đã phải sống trong xiềng xích suốt mười hai năm đằng đẵng, cho đến ngày may mắn được giải cứu vào tháng Giêng năm 1853. Sau tất cả, có người đã ngỏ ý rằng câu chuyện về cuộc đời và những thăng trầm tôi đã nếm trải sẽ được công chúng đón nhận.
Since my return to liberty, I have not failed to perceive the increasing interest throughout the Northern States, in regard to the subject of Slavery. Kể từ ngày trở về với tự do, tôi không thể không nhận ra mối quan tâm dành cho vấn đề Nô lệ đang ngày một dâng cao khắp các tiểu bang miền Bắc.
Works of fiction, professing to portray its features in their more pleasing as well as more repugnant aspects, have been circulated to an extent unprecedented, and, as I understand, have created a fruitful topic of comment and discussion. Những tác phẩm hư cấu, với tham vọng phác họa bộ mặt của nó từ những góc nhìn thi vị hóa cho đến những khía cạnh tàn độc nhất, đã được lưu hành rộng khắp với quy mô chưa từng có, và, theo tôi biết, đã khơi mào cho vô vàn những cuộc bàn luận và tranh cãi sôi nổi.
I can speak of Slavery only so far as it came under my own observation—only so far as I have known and experienced it in my own person. Về kiếp nô lệ, tôi chỉ có thể thuật lại những gì bản thân đã mắt thấy tai nghe—chỉ những gì chính tôi đã nếm trải và kinh qua.
My object is, to give a candid and truthful statement of facts, to repeat the story of my life, without exaggeration, leaving it for others to determine, whether even the pages of fiction present a picture of more cruel wrong or a severer bondage. Mục đích của tôi, là kể lại câu chuyện đời mình một cách chân thật và thẳng thắn nhất, thuật lại các sự kiện mà không hề thêm thắt hay cường điệu. Phần còn lại, tôi xin nhường cho người đời phán xét, rằng liệu có trang sách hư cấu nào tả được nỗi oan trái tàn khốc hơn, hay một kiếp xiềng xích nào đọa đày hơn thế.
As far back as I have been able to ascertain, my ancestors on the paternal side were slaves in Rhode Island. Theo những gì tôi có thể truy dấu, tổ tiên bên nội của tôi là những người nô lệ ở Rhode Island.
They belonged to a family by the name of Northup, one of whom, removing to the State of New York, settled at Hoosic, in Rensselaer county. Họ thuộc về một gia tộc mang họ Northup. Một người trong số họ, khi chuyển đến tiểu bang New York, đã định cư tại Hoosic, thuộc hạt Rensselaer.
He brought with him Mintus Northup, my father. Ông mang theo Mintus Northup, cha tôi.
On the death of this gentleman, which must have occurred some fifty years ago, my father became free, having been emancipated by a direction in his will. Khi vị quý ông này qua đời, hẳn đã cách đây chừng năm mươi năm, cha tôi đã trở thành người tự do, bởi ông được trả tự do theo một chỉ dẫn trong di chúc.
Henry B. Northup, Esq., of Sandy Hill, a distinguished counselor at law, and the man to whom, under Providence, I am indebted for my present liberty, and my return to the society of my wife and children, is a relative of the family in which my forefathers were thus held to service, and from which they took the name I bear. Henry B. Northup, Esquire, ở Sandy Hill, một vị luật sư cố vấn lỗi lạc, người mà, nhờ ơn Chúa Quan phòng, tôi mang ơn cho sự tự do hiện tại của mình cùng sự đoàn tụ với vợ con, chính là họ hàng của gia tộc từng bắt giữ tổ tiên tôi làm nô dịch, và cũng là gia tộc mà chúng tôi đã lấy họ để mang.
To this fact may be attributed the persevering interest he has taken in my behalf. Có lẽ chính sự thật này đã thôi thúc sự quan tâm bền bỉ mà ông đã dành cho tôi.
Sometime after my father’s liberation, he removed to the town of Minerva, Essex county, N. Y., where I was born, in the month of July, 1808. Một thời gian sau khi được giải phóng, cha tôi chuyển đến thị trấn Minerva, hạt Essex, New York, nơi tôi chào đời vào tháng Bảy năm 1808.
How long he remained in the latter place I have not the means of definitely ascertaining. Ông ở đó bao lâu, tôi không có cách nào xác định được chính xác.
From thence he removed to Granville, Washington county, near a place known as Slyborough, where, for some years, he labored on the farm of Clark Northup, also a relative of his old master; from thence he removed to the Alden farm, at Moss Street, a short distance north of the village of Sandy Hill; and from thence to the farm now owned by Russel Pratt, situated on the road leading from Fort Edward to Argyle, where he continued to reside until his death, which took place on the 22d day of November, 1829. Từ đó, ông chuyển đến Granville, hạt Washington, gần một nơi gọi là Slyborough. Ở đây, trong vài năm, ông làm lụng trên trang trại của Clark Northup, cũng là một người họ hàng của chủ cũ. Từ đó, ông chuyển đến trang trại Alden ở Phố Moss, cách làng Sandy Hill một quãng ngắn về phía bắc; và từ đó đến trang trại mà nay thuộc sở hữu của Russel Pratt, nằm trên con đường dẫn từ Pháo đài Edward đến Argyle. Ông tiếp tục cư ngụ ở đó cho đến ngày qua đời, vào ngày 22 tháng Mười một năm 1829.
He left a widow and two children – myself, and Joseph, an elder brother. The latter is still living in the county of Oswego, near the city of that name; my mother died during the period of my captivity. Ông để lại một người vợ góa và hai con – tôi, và Joseph, anh trai tôi. Anh tôi hiện vẫn còn sống ở hạt Oswego, gần thành phố cùng tên; còn mẹ tôi đã qua đời trong những năm tháng tôi bị giam cầm.
Though born a slave, and laboring under the disadvantages to which my unfortunate race is subjected, my father was a man respected for his industry and integrity, as many now living, who well remember him, are ready to testify. Dù sinh ra trong kiếp nô lệ và phải gánh chịu những bất lợi mà chủng tộc bất hạnh của tôi phải hứng chịu, cha tôi vẫn là một người được kính trọng vì sự cần cù và chính trực của mình, điều mà nhiều người còn sống và nhớ rõ về ông sẵn lòng làm chứng.
His whole life was passed in the peaceful pursuits of agriculture, never seeking employment in those more menial positions, which seem to be especially allotted to the children of Africa. Cả cuộc đời ông trôi qua trong những công việc đồng áng yên bình, không bao giờ tìm kiếm việc làm ở những vị trí hèn mọn, vốn dường như được đặc biệt dành riêng cho con cháu của châu Phi.
Besides giving us an education surpassing that ordinarily bestowed upon children in our condition, he acquired, by his diligence and economy, a sufficient property qualification to entitle him to the right of suffrage. Ngoài việc cho chúng tôi một nền giáo dục vượt trội hơn hẳn nền giáo dục thường được ban cho những đứa trẻ trong hoàn cảnh như chúng tôi, bằng sự siêng năng và tiết kiệm của mình, ông đã có đủ tư cách tài sản để có quyền bỏ phiếu.
He was accustomed to speak to us of his early life; and although at all times cherishing the warmest emotions of kindness, and even of affection towards the family, in whose house he had been a bondsman, he nevertheless comprehended the system of Slavery, and dwelt with sorrow on the degradation of his race. Ông thường kể cho chúng tôi nghe về những ngày đầu đời của mình; và dù lúc nào cũng trân trọng những tình cảm nồng ấm và trìu mến nhất dành cho gia đình từng cầm giữ ông, ông vẫn thấu hiểu tường tận hệ thống Nô lệ, và luôn đau đáu nỗi buồn về sự xuống cấp của chủng tộc mình.
He endeavored to imbue our minds with sentiments of morality, and to teach us to place our, trust and confidence in Him who regards the humblest as well as the highest of his creatures. Ông đã cố gắng thấm nhuần vào tâm trí chúng tôi những tình cảm đạo đức, và dạy chúng tôi đặt niềm tin vào Đấng tối cao, Đấng luôn dõi theo những tạo vật hèn mọn nhất cũng như cao quý nhất của Ngài.
How often since that time has the recollection of his paternal counsels occurred to me, while lying in a slave hut in the distant and sickly regions of Louisiana, smarting with the undeserved wounds which an inhuman master had inflicted, and longing only for the grave which had covered him, to shield me also from the lash of the oppressor. Đã biết bao lần kể từ đó, ký ức về những lời răn dạy của cha lại hiện về, khi tôi nằm trong túp lều nô lệ ở những vùng đất Louisiana xa xôi và bệnh tật, đau rát vì những vết thương oan nghiệt mà một gã chủ tàn bạo đã gây ra, chỉ khao khát rằng nấm mồ đã bao bọc cha cũng sẽ che chở cho tôi khỏi ngọn roi của kẻ áp bức.
In the church yard at Sandy Hill, an humble stone marks the spot where he reposes, after having worthily performed the duties appertaining to the lowly sphere wherein God had appointed him to walk. Trong nghĩa trang tại Sandy Hill, một phiến đá khiêm nhường đánh dấu nơi ông yên nghỉ, sau khi đã hoàn thành trọn vẹn những bổn phận thuộc về địa vị thấp hèn mà Chúa đã giao phó cho ông.
Up to this period I had been principally engaged with my father in the labors of the farm. The leisure hours allowed me were generally either employed over my books, or playing on the violin—an amusement which was the ruling passion of my youth. Cho đến thời điểm đó, tôi chủ yếu cùng cha làm những công việc đồng áng. Những giờ phút rảnh rỗi cho phép, tôi thường dành cho sách vở, hoặc chơi vĩ cầm – một thú vui là niềm đam mê thống trị tuổi trẻ của tôi.
It has also been the source of consolation since, affording, pleasure to the simple beings with whom my lot was cast, and beguiling my own thoughts, for many hours, from the painful contemplation of my fate. Về sau, nó cũng trở thành một nguồn an ủi, mang lại niềm vui cho những con người giản dị mà số phận đã buộc tôi vào, và giúp tôi xua đi những suy nghĩ của chính mình trong nhiều giờ, thoát khỏi việc chiêm nghiệm đau đớn về định mệnh của mình.
On Christmas day, 1829, I was married to Anne Hampton, a colored girl then living in the vicinity of our residence. Vào ngày Giáng sinh năm 1829, tôi kết hôn với Anne Hampton, một thiếu nữ da màu sống gần nơi chúng tôi ở.
The ceremony was performed at Fort Edward, by Timothy Eddy, Esq., a magistrate of that town, and still a prominent citizen of the place. Nghi lễ được cử hành tại Pháo đài Edward bởi Timothy Eddy, Esq., một vị thẩm phán của thị trấn, và vẫn là một công dân nổi bật ở nơi đây.
She had resided a long time at Sandy Hill, with Mr. Baird, proprietor of the Eagle Tavern, and also in the family of Rev. Alexander Proudfit, of Salem. Nàng đã sống một thời gian dài ở Sandy Hill, với ông Baird, chủ quán rượu Eagle, và cũng từng ở trong gia đình của Mục sư Alexander Proudfit ở Salem.
This gentleman for many years had presided over the Presbyterian society at the latter place, and was widely distinguished for his learning and piety. Vị mục sư này trong nhiều năm đã trông coi hội thánh Trưởng Lão tại Salem và nổi danh khắp nơi vì sự uyên bác và lòng mộ đạo của mình.
Anne still holds in grateful remembrance the exceeding kindness and the excellent counsels of that good man. Anne vẫn ghi nhớ trong lòng với lòng biết ơn sâu sắc sự tử tế phi thường và những lời khuyên tuyệt vời của con người nhân hậu ấy.
She is not able to determine the exact line of her descent, but the blood of three races mingles in her veins. Nàng không thể xác định được chính xác dòng dõi của mình, nhưng dòng máu của ba chủng tộc hòa quyện trong huyết quản nàng.
It is difficult to tell whether the red, white, or black predominates. The union of them all, however, in her origin, has given her a singular but pleasing expression, such as is rarely to be seen. Khó mà nói được sắc đỏ, sắc trắng, hay sắc đen chiếm ưu thế. Tuy nhiên, sự kết hợp của tất cả chúng đã mang lại cho nàng một vẻ đẹp khác lạ nhưng dễ mến, hiếm khi được trông thấy.
Though somewhat resembling, yet she cannot properly be styled a quadroon, a class to which, I have omitted to mention, my mother belonged. Dù có phần giống, nhưng nàng không thể được gọi đúng là một quadroon (người lai một phần tư máu Phi), một dòng dõi mà tôi đã quên chưa nhắc đến, mẹ tôi cũng thuộc về.
I had just now passed the period of my minority, having reached the age of twenty–one years in the month of July previous. Tôi vừa mới qua tuổi vị thành niên, tròn hai mươi mốt tuổi vào tháng Bảy năm trước.
Deprived of the advice and assistance of my father, with a wife dependent upon me for support, I resolved to enter upon a life of industry, and notwithstanding the obstacle of color, and the consciousness of my lowly state, indulged in pleasant dreams of a good time coming, when the possession of some humble habitation, with a few surrounding acres, should reward my labors, and bring me the means of happiness and comfort. Thiếu đi lời khuyên và sự giúp đỡ của cha, lại có một người vợ phụ thuộc vào mình, tôi quyết tâm bước vào một cuộc sống lao động cần cù, và bất chấp rào cản màu da cùng ý thức về thân phận thấp kém của mình, tôi đã nuôi dưỡng những giấc mơ ngọt ngào về một thời tươi đẹp sắp đến, khi một ngôi nhà khiêm tốn với vài mẫu đất xung quanh sẽ là phần thưởng cho công sức của tôi, và mang lại cho tôi niềm hạnh phúc và sự thoải mái.
From the time of my marriage to this day the love I have borne my wife has been sincere and unabated, and only those who have felt the glowing tenderness a father cherishes for his offspring, can appreciate my affection for the beloved children which have since been born to us. Từ ngày cưới cho đến tận hôm nay, tình yêu tôi dành cho vợ vẫn luôn chân thành và không hề suy giảm, và chỉ những ai đã cảm nhận được sự dịu dàng nồng cháy mà một người cha dành cho con cái mới có thể thấu hiểu tình thương của tôi dành cho những đứa con yêu quý đã chào đời sau đó.
This much I deem appropriate and necessary to day, in order that those who read these pages, may comprehend the poignancy of those sufferings I have been doomed to bear. Tôi thấy những điều này là thích hợp và cần thiết để nói ra hôm nay, để những ai đọc những trang này có thể lĩnh hội được nỗi thống khổ cắt da cắt thịt mà số phận đã buộc tôi phải chịu đựng.
Immediately upon our marriage we commenced house–keeping, in the old yellow building then standing at the southern extremity of Fort Edward village, and which has since been transformed into a modern mansion, and lately occupied by Captain Lathrop. Ngay sau khi kết hôn, chúng tôi bắt đầu cuộc sống gia đình trong tòa nhà cũ màu vàng ở cực nam làng Pháo đài Edward, tòa nhà mà sau này đã được cải tạo thành một biệt thự hiện đại và gần đây do Thuyền trưởng Lathrop ở.
It is known as the Fort House. In this building the courts were sometime held after the organization of the county. It was also occupied by Burgoyne in 1777, being situated near the old Fort on the left bank of the Hudson. Nó được gọi là Nhà Pháo đài. Trong tòa nhà này, các phiên tòa đôi khi được tổ chức sau khi hạt được thành lập. Nó cũng từng bị Burgoyne chiếm đóng vào năm 1777, vì nằm gần Pháo đài cũ trên bờ trái sông Hudson.
During the winter I was employed with others repairing the Champlain Canal, on that section over which William Van Nortwick was superintendent. David McEachron had the immediate charge of the men in whose company I labored. Trong suốt mùa đông, tôi cùng những người khác được thuê để sửa chữa Kênh Champlain, trên đoạn do William Van Nortwick giám sát. David McEachron trực tiếp phụ trách nhóm người mà tôi lao động cùng.
By the time the canal opened in the spring, I was enabled, from the savings of my wages, to purchase a pair of horses, and other things necessarily required in the business of navigation. Đến khi con kênh mở cửa vào mùa xuân, nhờ tiền công tiết kiệm được, tôi đã có thể mua một đôi ngựa và những thứ cần thiết khác cho công việc vận tải đường thủy.
Having hired several efficient hands to assist me, I entered into contracts for the transportation of large rafts of timber from Lake Champlain to Troy. Dyer Beckwith and a Mr. Bartemy, of Whitehall, accompanied me on several trips. Sau khi thuê thêm vài người thợ giỏi để phụ giúp, tôi đã ký hợp đồng vận chuyển những bè gỗ lớn từ Hồ Champlain đến Troy. Dyer Beckwith và một ông Bartemy ở Whitehall đã đi cùng tôi trong vài chuyến.
During the season I became perfectly familiar with the art and mysteries of rafting—a knowledge which afterwards enabled me to render profitable service to a worthy master, and to astonish the simple–witted lumbermen on the banks of the Bayou Boeuf. Suốt mùa đó, tôi đã hoàn toàn thông thạo nghệ thuật và những bí quyết của nghề kết bè – một kiến thức mà sau này đã giúp tôi phục vụ một cách hữu ích cho một người chủ tử tế, và làm kinh ngạc những gã thợ rừng ngờ nghệch trên bờ Bayou Boeuf.
In one of my voyages down Lake Champlain, I was induced to make a visit to Canada. Repairing to Montreal, I visited the cathedral and other places of interest in that city, from whence I continued my excursion to Kingston and other towns, obtaining a knowledge of localities, which was also of service to me afterwards, as will appear towards the close of this narrative. Trong một chuyến đi xuôi Hồ Champlain, tôi nảy ý định đến thăm Canada. Đến Montreal, tôi đã ghé thăm nhà thờ lớn và các địa danh khác trong thành phố, từ đó tôi tiếp tục chuyến du ngoạn đến Kingston và các thị trấn khác, thu thập kiến thức về các địa danh mà về sau cũng hữu ích cho tôi, như sẽ thấy ở phần cuối của câu chuyện này.
Having completed my contracts on the canal satisfactorily to myself and to my employer, and not wishing to remain idle, now that the navigation of the canal was again suspended, I entered into another contract with Medad Gunn, to cut a large quantity of wood. In this business I was engaged during the winter of 1831–32. Sau khi hoàn thành các hợp đồng trên kênh một cách hài lòng cho bản thân và cho người chủ, và không muốn ngồi không khi mùa vận tải trên kênh lại tạm ngưng, tôi đã ký một hợp đồng khác với Medad Gunn để chặt một lượng lớn gỗ. Tôi đã làm công việc này suốt mùa đông năm 1831–32.
With the return of spring, Anne and myself conceived the project of taking a farm in the neighborhood. I had been accustomed from earliest youth to agricultural labors, and it was an occupation congenial to my tastes. Khi mùa xuân trở lại, Anne và tôi nảy ra ý định thuê một trang trại trong vùng lân cận. Tôi đã quen với việc đồng áng từ khi còn nhỏ, và đó là một công việc hợp với sở thích của tôi.
I accordingly entered into arrangements for a part of the old Alden farm, on which my father formerly resided. With one cow, one swine, a yoke of fine oxen I had lately purchased of Lewis Brown, in Hartford, and other personal property and effects, we proceeded to our new home in Kingsbury. Do đó, tôi đã thu xếp để thuê một phần của trang trại Alden cũ, nơi cha tôi từng ở. Với một con bò sữa, một con lợn, một cặp bò đực khỏe mạnh mà tôi vừa mua của Lewis Brown ở Hartford, cùng với các tài sản cá nhân khác, chúng tôi dọn đến ngôi nhà mới ở Kingsbury.
That year I planted twenty–five acres of corn, sowed large fields of oats, and commenced farming upon as large a scale as my utmost means would permit. Anne was diligent about the house affairs, while I toiled laboriously in the field. Năm đó, tôi trồng hai mươi lăm mẫu ngô, gieo những cánh đồng yến mạch lớn, và bắt đầu việc nông trên quy mô lớn nhất mà phương tiện của tôi cho phép. Anne thì cần mẫn lo việc nhà, trong khi tôi thì vất vả cày cuốc ngoài đồng.
On this place we continued to reside until 1834. In the winter season I had numerous calls to play on the violin. Wherever the young people assembled to dance, I was almost invariably there. Throughout the surrounding villages my fiddle was notorious. Chúng tôi tiếp tục sống ở nơi này cho đến năm 1834. Vào mùa đông, tôi nhận được vô số lời mời đi chơi vĩ cầm. Bất cứ nơi nào giới trẻ tụ tập khiêu vũ, tôi gần như không bao giờ vắng mặt. Cây đàn của tôi đã trở nên nổi tiếng khắp các làng mạc xung quanh.
Anne, also, during her long residence at the Eagle Tavern, had become somewhat famous as a cook. During court weeks, and on public occasions, she was employed at high wages in the kitchen at Sherrill’s Coffee House. Anne, cũng trong thời gian dài sống ở quán rượu Eagle, đã trở nên khá nổi tiếng với tài nấu nướng. Trong các tuần diễn ra phiên tòa và những dịp công cộng, nàng được thuê với mức lương cao để làm bếp tại Quán cà phê Sherrill.
We always returned home from the performance of these services with money in our pockets, so that, with fiddling, cooking, and farming, we soon found ourselves in the possession of abundance, and, in fact, leading a happy and prosperous life. Chúng tôi luôn trở về nhà sau những công việc này với túi tiền rủng rỉnh, đến nỗi, nhờ cây đàn, tài bếp núc và việc đồng áng, chúng tôi sớm thấy mình sống trong sung túc, và thực sự, là một cuộc sống hạnh phúc và thịnh vượng.
Well, indeed, would it have been for us had we remained on the farm at Kingsbury, but the time came when the next step was to be taken towards the cruel destiny that awaited me. Sẽ tốt đẹp biết bao cho chúng tôi nếu cứ ở lại trang trại ở Kingsbury, nhưng rồi thời điểm đã đến, khi bước chân tiếp theo phải được đặt xuống con đường dẫn đến số phận nghiệt ngã đang chờ đợi tôi.
In March, 1834, we removed to Saratoga Springs. We occupied a house belonging to Daniel O’Brien, on the north side of Washington street. At that time Isaac Taylor kept a large boarding house, known as Washington Hall, at the north end of Broadway. He employed me to drive a hack, in which capacity I worked for him two years. Tháng Ba năm 1834, chúng tôi chuyển đến Saratoga Springs. Chúng tôi thuê một ngôi nhà của Daniel O’Brien, ở phía bắc Phố Washington. Lúc đó, Isaac Taylor điều hành một nhà trọ lớn, được gọi là Washington Hall, ở đầu phía bắc của Broadway. Ông thuê tôi lái xe ngựa, một công việc tôi đã làm cho ông trong hai năm.
After this time I was generally employed through the visiting season, as also was Anne, in the United States Hotel, and other public houses of the place. In winter seasons I relied upon my violin, though during the construction of the Troy and Saratoga railroad, I performed many hard days’ labor upon it. Sau thời gian này, suốt mùa du lịch, tôi thường được thuê làm việc, Anne cũng vậy, tại Khách sạn United States và các nhà nghỉ công cộng khác trong vùng. Vào mùa đông, tôi trông cậy vào cây vĩ cầm của mình, mặc dù trong quá trình xây dựng tuyến đường sắt Troy và Saratoga, tôi đã phải lao động cật lực nhiều ngày trên đó.
I was in the habit, at Saratoga, of purchasing articles necessary for my family at the stores of Mr. Cephas Parker and Mr. William Perry, gentlemen towards whom, for many acts of kindness, I entertained feelings of strong regard. It was for this reason that twelve years afterwards, I caused to be directed to them the letter, which is hereinafter inserted, and which was the means, in the hands of Mr. Northup, of my fortunate deliverance. Ở Saratoga, tôi có thói quen mua sắm những vật dụng cần thiết cho gia đình tại cửa hàng của ông Cephas Parker và ông William Perry, những quý ông mà vì nhiều hành động tử tế, tôi luôn dành cho họ tình cảm kính trọng sâu sắc. Chính vì lý do này mà mười hai năm sau, tôi đã cho người gửi đến họ lá thư được chép lại dưới đây, và lá thư đó, qua bàn tay của ông Northup, đã trở thành phương tiện cho sự giải cứu may mắn của tôi.
While living at the United States Hotel, I frequently met with slaves, who had accompanied their masters from the South. They were always well dressed and well provided for, leading apparently an easy life, with but few of its ordinary troubles to perplex them. Khi sống tại Khách sạn United States, tôi thường xuyên gặp gỡ những người nô lệ đi theo chủ của họ từ miền Nam. Họ luôn ăn mặc đẹp và được chu cấp đầy đủ, dường như sống một cuộc đời dễ dàng, ít phải phiền muộn vì những rắc rối thông thường.
Many times they entered into conversation with me on the subject of Slavery. Almost uniformly I found they cherished a secret desire for liberty. Some of them expressed the most ardent anxiety to escape, and consulted me on the best method of effecting it. Nhiều lần họ đã trò chuyện với tôi về chủ đề Nô lệ. Gần như lúc nào tôi cũng thấy họ ấp ủ một khao khát tự do thầm kín. Một số người bày tỏ sự nôn nao cháy bỏng muốn trốn thoát, và hỏi ý kiến tôi về cách tốt nhất để thực hiện điều đó.
The fear of punishment, however, which they knew was certain to attend their re–capture and return, in all cases proved sufficient to deter them from the experiment. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi bị trừng phạt, mà họ biết chắc chắn sẽ xảy ra khi bị bắt lại và đưa về, luôn đủ sức ngăn cản họ thử nghiệm.
Having all my life breathed the free air of the North, and conscious that I possessed the same feelings and affections that find a place in the white man’s breast; conscious, moreover, of an intelligence equal to that of some men, at least, with a fairer skin. I was too ignorant, perhaps too independent, to conceive how any one could be content to live in the abject condition of a slave. Vì cả đời đã được hít thở không khí tự do của miền Bắc, và ý thức rằng tôi cũng có những cảm xúc và tình cảm giống như trong lồng ngực người da trắng; hơn nữa, còn ý thức được trí tuệ của mình cũng ngang bằng với một số người, ít nhất là những người có làn da sáng hơn, tôi đã quá ngây thơ, có lẽ quá độc lập, để có thể hình dung được làm sao có ai đó có thể hài lòng sống trong thân phận hèn mọn của một người nô lệ.
I could not comprehend the justice of that law, or that religion, which upholds or recognizes the principle of Slavery; and never once, I am proud to say, did I fail to counsel any one who came to me, to watch his opportunity, and strike for freedom. Tôi không thể thấu hiểu được sự công bằng của thứ luật pháp hay thứ tôn giáo nào lại tán thành hay công nhận nguyên tắc của chế độ Nô lệ; và tôi tự hào mà nói rằng, chưa một lần nào tôi không khuyên nhủ bất cứ ai tìm đến mình, hãy canh chừng cơ hội, và vùng lên vì tự do.
I continued to reside at Saratoga until the spring of 1841. The flattering anticipations which, seven years before, had seduced us from the quiet farm house, on the east side of the Hudson, had not been realized. Tôi tiếp tục sống ở Saratoga cho đến mùa xuân năm 1841. Những dự cảm tâng bốc mà bảy năm trước đã quyến rũ chúng tôi rời khỏi trang trại yên tĩnh bên bờ đông sông Hudson đã không thành hiện thực.
Though always in comfortable circumstances, we had not prospered. The society and associations at that world–renowned watering place, were not calculated to preserve the simple habits of industry and economy to which I had been accustomed, but, on the contrary, to substitute others in their stead, tending to shiftlessness and extravagance. Dù luôn sống trong hoàn cảnh thoải mái, chúng tôi đã không phát đạt. Xã hội và các mối quan hệ tại khu nghỉ dưỡng trứ danh khắp thế giới đó không hề giúp duy trì những thói quen giản dị là cần cù và tiết kiệm mà tôi đã quen, mà ngược lại, còn thay thế chúng bằng những thói quen khác, dẫn đến lười biếng và xa hoa.
At this time we were the parents of three children—Elizabeth, Margaret, and Alonzo. Elizabeth, the eldest, was in her tenth year; Margaret was two years younger, and little Alonzo had just passed his fifth birth–day. They filled our house with gladness. Their young voices were music in our ears. Lúc này, chúng tôi là cha mẹ của ba đứa trẻ – Elizabeth, Margaret, và Alonzo. Elizabeth, đứa lớn nhất, đang ở tuổi lên mười; Margaret nhỏ hơn hai tuổi, và Alonzo bé bỏng vừa mới qua sinh nhật lần thứ năm. Sự hiện diện của chúng rót đầy căn nhà chúng tôi bằng niềm vui. Giọng nói non nớt của chúng tựa như âm nhạc rót vào tai vợ chồng tôi.
Many an airy castle did their mother and myself build for the little innocents. When not at labor I was always walking with them, clad in their best attire, through the streets and groves of Saratoga. Their presence was my delight, and I clasped them to my bosom with as warm and tender love as if their clouded skins had been as white as snow. Biết bao tòa lâu đài trên không mà vợ tôi và tôi đã xây đắp cho những sinh linh bé bỏng ấy. Khi không làm việc, tôi luôn dắt chúng, trong bộ quần áo đẹp nhất, đi dạo qua những con phố và lùm cây ở Saratoga. Sự hiện diện của chúng là niềm hoan hỷ của tôi, và tôi ôm chúng vào lòng với một tình yêu nồng nàn và dịu dàng như thể làn da sậm màu của chúng trắng trong như tuyết vậy.
Thus far the history of my life presents nothing whatever unusual—nothing but the common hopes, and loves, and labors of an obscure colored man, making his humble progress in the world. Cho đến đây, lịch sử cuộc đời tôi không có gì bất thường cả—chẳng có gì ngoài những hy vọng, tình yêu và lao động bình thường của một người đàn ông da màu vô danh, đang từng bước tiến bước khiêm tốn trên đường đời.
But now I had reached a turning point in my existence—reached the threshold of unutterable wrong, and sorrow, and despair. Now had I approached within the shadow of the cloud, into the thick darkness whereof I was soon to disappear, thenceforward to be hidden from the eyes of all my kindred, and shut out from the sweet light of liberty, for many a weary year. Nhưng giờ đây, tôi đã đến một bước ngoặt của đời mình – đã đứng trước ngưỡng cửa của những oan trái, sầu khổ và tuyệt vọng không lời nào tả xiết. Giờ đây, tôi đã bước vào bóng đen của đám mây, vào trong màn đêm đặc quánh mà chẳng bao lâu nữa tôi sẽ tan biến vào đó, để rồi từ đây bị che khuất khỏi mắt của tất cả người thân, và bị giam hãm khỏi ánh sáng ngọt ngào của tự do, trong suốt bao năm tháng mỏi mòn.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.