Vietnamese | English |
---|---|
Chú Đỉa Vô Tội | The Innocent Leech |
Một cô gái phố thị về thôn quê chơi, rong bờ ruổi bụi thế nào mà chiều đến, cô mang cổ chân ra hỏi người em trai: | A city girl was visiting the countryside and was wandering around the fields and bushes. When evening came, she looked at her ankle and asked her younger brother: |
– Nơi chân chị có gì đen đen trong thật lạ? | “What is this black thing on my leg?” |
Cậu em cười to bảo: | Her brother laughed and said: |
– Đỉa đó! Chị chưa thấy nó bao giờ sao? | “It’s a leech! Haven’t you ever seen one before?” |
Nghe chưa dứt câu, cô gái đã té xỉu vì kinh hãi. | Before he had even finished his sentence, the girl had fainted from fear. |
Em thân mến! | My dear brother and sister |
Công bình mà nói chú đĩa hoàn toàn vô tội trong việc gây kinh hãi cho cô gái, vì nếu chú là tác nhân duy nhất thì ngay khi bị chú đeo, lúc vừa nom thấy chú, chưa biết tên và lai lịch của chú đỉa, thì cô đã phải ngất xỉu liền. Đằng này, cô ung dung mang chú về nhà, đem giới thiệu với cậu em một cách rất bình tĩnh thoải mái. Cho đến lúc nghe tên con vật là đỉa, cô gái mới chịu ngất xỉu thì quả… đúng là – tác nhân chính làm cô sợ hãi chính là sự tưởng tượng phong phú, vốn liếng kinh nghiệm của cô về chú đỉa, hơn là chính bản thân “hiền lành” của chú. Có phải thế không nào? | In all fairness, the leech is completely innocent of causing the girl’s fear. If it were the only factor involved, then she would have fainted as soon as it attached to her, when she first saw it, before she knew its name or origin. But instead, she calmly took it home and introduced it to her brother in a very calm and relaxed manner. It was only when she heard the name of the creature, leech, that she fainted. So it is quite true that the main cause of her fear was her rich imagination and her limited experience with leeches, rather than the leech’s own “gentleness.” Isn’t that right? |
Cũng thế khi chúng ta nghe những danh từ, tự thân của chúng – không có danh từ tốt hay xấu mà chính chúng ta, người sử dụng gán cho nó những ý nghĩa tốt hay xấu mà thôi. Do đó, với những âm thanh đồng một tính chất hư huyền mà có danh từ làm chúng ta vui tươi phấn khởi, có danh từ làm chúng ta mệt mỏi chán nản. Như danh từ “vô học” có nghĩa chê trách đối với thế gian nhưng lại có nghĩa tán thán đối với Phật học. | Similarly, when we hear nouns, they are not inherently good or bad. It is we, the users, who assign them positive or negative meanings. Therefore, with sounds of the same nature, some nouns make us happy and excited, while others make us tired and discouraged. For example, the noun “vo hoc” (ignorant) has a negative connotation in everyday life, but a positive connotation in Buddhism. |
Thấu đáo rõ được điều này để có thể tùy thuận chúng duyên mà vẫn “vô quái ngại,” bình thản gỡ chú đỉa đang đeo trên chân mình mà không bị… ngất xỉu, tức là hành đạo đó, em ạ! | To understand this thoroughly so that we can adapt to all circumstances without being “afraid,” calmly removing the leech that is attached to our leg without fainting, that is the way to practice the Way, my dear brother! |
Thế thì, tôi có thể đặt tên cho bài này là “Chú đỉa vô tội” rồi chứ? | So, can I call this essay “The Innocent Leech”? |
Trích Hư Hư Lục – Thích Nữ Như Thủy
Sachsongngu.top dịch sang tiếng Anh