To Peter and Peggy McLeod
Tặng Peter và Peggy McLeod
Come away, come away, death,
And in sad cypress let me be laid;
Fly away, fly away, breath!
I am slain by a fair cruel maid.
My shroud of white, stuck all with yew
O prepare it;
My part of death no one so true;
Did share it.
Shakespeare
Hãy đi đi, đi đi hỡi Thần chết,
Xin hãy để ta yên nghỉ bên cây bách buồn
Hãy bay đi, bay đi hơi thở!
Ta bị giết dưới tay nàng hầu nhẫn tâm
Chao ôi, hãy chuẩn bị cho ta tấm vải liệm trắng tinh ghim đầy lá thủy tùng…
Cái chết của ta thực lòng Không ai chia sẻ được.
_ Shakespeare
Agatha Christie | Trần Hữu Khánh dịch |
---|---|
“Elinor Katharine Carlisle. | “Elinor Katharine Carlisle. |
You stand charged upon this indictment with the murder of Mary Gerrard upon the 27th of July last. | Chiếu theo bản cáo trạng, cô bị truy tố vì tội mưu sát Mary Gerrard vào ngày 27 tháng Bảy vừa qua. |
Are you guilty or not guilty?” | Cô có phạm tội hay không phạm tội?” |
Elinor Carlisle stood very straight, her head raised. | Elinor Carlisle đứng thẳng, đầu ngẩng cao. |
It was a graceful head, the modelling of the bones sharp and well-defined. | Một mái đầu duyên dáng, đường nét sắc sảo gọn gàng. |
The eyes were a deep vivid blue, the hair black. | Đôi mắt sinh động xanh thẳm, tóc đen mượt. |
The brows had been plucked to a faint thin line. | Hàng chân mày tỉa thành vệt mảnh mờ nhạt. |
There was a silence—quite a noticeable silence. | Im lặng—một sự im lặng hoàn toàn dễ nhận thấy. |
Sir Edwin Bulmer, Counsel for the Defence, felt a thrill of dismay. | Ngài Edwin Bulmer, trạng sư bào chữa, rùng mình nao núng. |
He thought: “My God, she’s going to plead guilty… | Ông nghĩ: ‘Chúa ơi, cô ấy sắp nhận tội… |
She’s lost her nerve….” | Cô ấy mất tinh thần rồi…’ |
Elinor Carlisle’s lips parted. | Đôi môi Elinor Carlisle hé mở. |
She said: “Not guilty.” | Nàng nói: “Tôi không phạm tội.” |
Counsel for the Defence sank back. | Trạng sư bào chữa rụt người lại. |
He passed a handkerchief over his brow, realizing that it had been a near shave. | Ông đưa khăn tay lên khẽ chậm chân mày, nhận ra vừa rồi suýt nữa thì nguy to. |
Sir Samuel Attenbury was on his feet, outlining the case for the Crown. “May it please your lordship, gentlemen of the jury, on the 27th of July, at half past three in the afternoon, Mary Gerrard died at Hunterbury, Maidensford….” | Ngài Samuel Attenbury đứng dậy, phác những nét chính của vụ án trước Tòa: “Kính thưa ngài chủ tọa, thưa các quý ngài trong bồi thẩm đoàn, vào lúc ba giờ rưỡi chiều ngày 27 tháng Bảy, nạn nhân Mary Gerrard chết ở Hunterbury, Maidensford…” |
His voice ran on, sonorous and pleasing to the ear. It lulled Elinor almost into unconsciousness. | Ông nói tiếp, giọng vang rền nghe êm tai, như ru Elinor vào cõi mông lung. |
From the simple and concise narrative, only an occasional phrase seeped through to her conscious mind. “…case a peculiarly simple and straightforward one… | Từ lời tường thuật đơn giản mà súc tích ấy, thỉnh thoảng mới có một cụm từ thấm vào đầu óc còn tỉnh táo của nàng: “… vụ án cực kỳ đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu…” |
“…It is the duty of the Crown…prove motive and opportunity… | Đây là nghĩa vụ của Tòa án… chứng minh động cơ và cơ hội…” |
“…No one, as far as can be seen, had any motive to kill this unfortunate girl, Mary Gerrard, except the accused. | Cho đến nay, có thể thấy không ai khác có động cơ giết cô gái bất hạnh Mary Gerrard ngoại trừ bị cáo. |
A young girl of a charming disposition—liked by everybody—without, one would have said, an enemy in the world….” | Một thiếu nữ tính tình đáng yêu—được mọi người quý mến—có thể nói không hề có kẻ thù trên đời này…” |
Mary, Mary Gerrard! | Mary, Mary Gerrard! |
How far away it all seemed now. | Mọi thứ giờ như đã xa xăm! |
Not real any longer…. | Như chẳng còn là thực nữa… |
“…Your attention will be particularly directed to the following considerations: 1. What opportunities and means had the accused for administering poison? | “Xin các quý ngài đặc biệt lưu ý cân nhắc những điểm sau: Thời cơ và cách thức bị cáo tiến hành việc đầu độc? |
2. What motive had she for so doing? | Động cơ nào khiến bị cáo làm điều đó? |
“It will be my duty to call before you witnesses who can help you to form a true conclusion on these matters…. | Tôi có bổn phận mời các nhân chứng đến đây để giúp quý Tòa tìm ra kết luận đúng đắn về những vấn đề nêu trên…” |
“…As regards the poisoning of Mary Gerrard, I shall endeavour to show you that no one had any opportunity to commit this crime except the accused….” | Về việc đầu độc Mary Gerrard, tôi sẽ nỗ lực trình bày để quý Tòa thấy rõ không một ai có cơ hội gây tội ác này ngoại trừ bị cáo…” |
Elinor felt as though imprisoned in a thick mist. | Elinor cảm thấy bị vây hãm giữa màn sương mù dày đặc. |
Detached words came drifting through the fog. | Từng chữ rời rạc trôi qua màn sương ấy.” |
“…Sandwiches… | Bánh xăng-uých…” |
“…Fish paste… | Pa-tê cá…” |
“…Empty house…” | Tòa nhà bỏ không…” |
The words stabbed through the thick enveloping blanket of Elinor’s thoughts—pin-pricks through a heavy muffling veil…. | Những câu chữ xuyên qua bức màn nặng trĩu đang trùm lên dòng suy tưởng của Elinor như những vết kim chọc thủng tấm khăn choàng dày cộp. |
The court. | Tòa án. |
Faces. | Những gương mặt. |
Rows and rows of faces! | Hàng hàng lớp lớp những gương mặt! |
One particular face with a big black moustache and shrewd eyes. | Một gương mặt đặc biệt với hàng ria mép dày đen nhánh và cặp mắt tinh anh sắc sảo. |
Hercule Poirot, his head a little on one side, his eyes thoughtful, was watching her. | Là Hercule Poirot, đầu nghiêng nghiêng, hướng cái nhìn đăm chiêu về phía nàng. |
She thought: He’s trying to see just exactly why I did it… | Ông ta đang cố hiểu thật chính xác vì sao mình lại làm thế, nàng nghĩ… |
He’s trying to get inside my head to see what I thought—what I felt…. | Ông ta cố gắng để biết thực sự trong đầu mình nghĩ gì—mình cảm thấy gì… |
Felt…? | Cảm thấy ư…? |
A little blur—a slight sense of shock… | Một thoáng mơ hồ cùng một chút chông chênh nhè nhẹ… |
Roddy’s face—his dear, dear face with its long nose, its sensitive mouth… | Là Roddy—gương mặt thân yêu với sống mũi dài và đôi môi gợi cảm… |
Roddy! | Roddy! |
Always Roddy—always, ever since she could remember…since those days at Hunterbury amongst the raspberries and up in the warren and down by the brook. | Bao giờ cũng là Roddy, kể từ khi nàng bắt đầu biết ghi nhớ, từ những ngày xa xưa ấy ở Hunterbury, tòa nhà vây quanh bởi những bụi mâm xôi, đi ngược lên là vùng đất nhiều hang thỏ và trở xuống là dòng suối con con. |
Roddy—Roddy—Roddy… | Roddy—Roddy—Roddy… |
Other faces! | Rồi những gương mặt khác! |
Nurse O’Brien, her mouth slightly open, her freckled fresh face thrust forward. | Là y tá O’Brien, miệng hé mở, gương mặt lấm tấm tàn nhang tươi hơn hớn chìa ra phía trước. |
Nurse Hopkins looking smug—smug and implacable. | Là y tá Hopkins đầy tự mãn—tự mãn và kiên trì. |
Peter Lord’s face—Peter Lord—so kind, so sensible, so—so comforting! | Là Peter Lord—một gương mặt tử tế, hiểu đời và biết an ủi! |
But looking now—what was it—lost? | Nhưng nhìn xem—gương mặt ấy giờ ra sao? |
Yes—lost! | Thua cuộc rồi ư? |
Minding—minding all this frightfully! | Phải, thua rồi! |
While she herself, the star performer, didn’t mind at all! | Người ấy đang dồn hết tâm sức vào việc này trong khi bản thân nàng là nhân vật chính lại chẳng hề chú ý gì cả! |
Here she was, quite calm and cold, standing in the dock, accused of murder. | Nàng đang ở đây, hoàn toàn bình thản lạnh lùng trước vành móng ngựa, bị kết tội giết người. |
She was in court. | Nàng đang hầu Tòa. |
Something stirred; the folds of blanket round her brain lightened—became mere wraiths. | Có chút huyên náo. Tấm màn phủ chụp trí não nàng được vén lên, để lộ những bóng hình mờ mờ ảo ảo… |
In court!…People… | Đây là Tòa án!… |
People leaning forward, their lips parted a little, their eyes agog, staring at her, Elinor, with a horrible ghoulish enjoyment—listening with a kind of slow, cruel relish to what that tall man with the Jewish nose was saying about her. | Và thiên hạ… Thiên hạ đang chồm mình về phía trước, mồm há ra, những cặp mắt đầy nôn nóng nhìn chòng chọc vào Elinor. Họ say sưa lắng nghe với vẻ khoái trá cực kỳ độc địa những gì người đàn ông cao lớn có cái mũi khoằm Do Thái kia đang nói về nàng. |
“The facts in this case are extremely easy to follow and are not in dispute. | “Trong vụ án này, các tình tiết đều rất dễ nắm bắt và không có gì phải tranh luận. |
I shall put them before you quite simply. From the very beginning…” | Tôi sẽ trình bày với quý vị một cách hoàn toàn đơn giản. |
Elinor thought: | Ngay từ đầu…” |
“The beginning… | ‘Ngay từ đầu… |
The beginning? | Từ đầu ư?’ Elinor nghĩ. |
The day that horrible anonymous letter came! | ‘Là cái ngày mà lá thư nặc danh kinh tởm kia xuất hiện! |
That was the beginning of it….” | Đó là nguồn cơn của mọi việc…’ |