Chương 1

Tên sách: Giết con chim nhại
Tác giả: Harper Lee
Người dịch: Huỳnh Kim Oanh & Phạm Viêm Hương
Thể loại: Văn học nước ngoài
Nhà xuất bản: NXB Văn học
Năm sản xuất: 7/2008
Đánh máy & sửa chính tả: nutuongcuop
Chuyển sang ebook: nutuongcuop
Ngày hoàn thành: 02/12/2008
http://www.thuvien-ebook.com

Tặng ông Lee và Alice vì Tình yêu và sự trìu mến

1Chương 1
When he was nearly thirteen, my brother Jem got his arm badly broken at the elbow.Khi sắp mười ba tuổi, anh trai Jem của tôi bị gãy ngay khuỷu tay.
When it healed, and Jem’s fears of never being able to play football were assuaged, he was seldom self-conscious about his injury.Khi lành lại, nỗi sợ không bao giờ có thể chơi bóng được nữa của Jem đã dịu bớt, anh ít nghĩ ngợi về thương tật của mình.
His left arm was somewhat shorter than his right; when he stood or walked, the back of his hand was at right angles to his body, his thumb parallel to his thigh.Cánh tay trái của anh hơi ngắn hơn cánh tay phải; khi đứng hoặc đi, mu bàn tay anh cứ thẳng góc với thân mình, ngón cái song song với đùi.
He couldn’t have cared less, so long as he could pass and punt.Anh hoàn toàn không quan tâm, miễn là anh còn chuyền và lốp bóng được.
When enough years had gone by to enable us to look back on them, we sometimes discussed the events leading to his accident.Sau nhiều năm tháng trôi qua đủ để giúp chúng tôi nhìn lại, đôi khi chúng tôi bàn bạc về những sự kiện đưa đẩy đến tai nạn này.
I maintain that the Ewells started it all, but Jem, who was four years my senior, said it started long before that.Tôi vẫn cho rằng tất cả là do nhà Ewell, nhưng Jem, lớn tôi bốn tuổi, lại bảo chuyện này đã bắt đầu từ trước đó rất lâu.
He said it began the summer Dill came to us, when Dill first gave us the idea of making Boo Radley come out.Anh nói chuyện đó bắt đầu vào mùa hè khi Dill đến chơi với chúng tôi, lúc Dill lần đầu mớm cho chúng tôi ý tưởng kéo được Bob Radley ra khỏi nhà.
I said if he wanted to take a broad view of the thing, it really began with Andrew Jackson.Tôi nói nếu anh muốn có một cái nhìn bao quát về sự việc này, thì thực sự nó bắt đầu với Andrew Jackson.
If General Jackson hadn’t run the Creeks up the creek, Simon Finch would never have paddled up the Alabama, and where would we be if he hadn’t?Nếu tướng Jackson không đẩy người Da đỏ Creek[1] lên thượng nguồn thì Simon Finch sẽ không bao giờ chèo thuyền đến Alabama, và liệu chúng tôi sẽ ở đâu nếu ông không làm việc đó?
We were far too old to settle an argument with a fist-fight, so we consulted Atticus.Chúng tôi đã quá lớn không thể dàn xếp một cuộc tranh cãi bằng nắm đấm, vì vậy chúng tôi hỏi ý kiến bố Atticus.
Our father said we were both right.Bố nói cả hai đứa tôi đều đúng.
Being Southerners, it was a source of shame to some members of the family that we had no recorded ancestors on either side of the Battle of Hastings.Là dân miền Nam, một số người trong gia tộc thấy xấu hổ vì chúng tôi chẳng có tổ tiên nào được lưu danh ở phía bên này hoặc bên kia trong trận Hasting[2].
All we had was Simon Finch, a fur-trapping apothecary from Cornwall whose piety was exceeded only by his stinginess.Chúng tôi chỉ có mỗi Simon Finch, một tay bào chế thuốc bẫy thú lấy lông gốc từ Cornwall, người chỉ để cho thói keo kiệt vượt trội hơn so với lòng mộ đạo của mình.
In England, Simon was irritated by the persecution of those who called themselves Methodists at the hands of their more liberal brethren, and as Simon called himself a Methodist, he worked his way across the Atlantic to Philadelphia, thence to Jamaica, thence to Mobile, and up the Saint Stephens.Ở Anh, Simon tức tối trước việc bách hại những người tự xưng là tín đồ phái Giám lý dưới tay các đạo hữu cấp tiến hơn của họ và vì Simon cũng nhận mình là tín đồ Giám Lý nên ông ta tìm đường vượt Đại Tây Dương đến Philadelphia, sau đó đến Jamaica, rồi đến Mobile, và lên đến Saint Stephens.
Mindful of John Wesley’s strictures on the use of many words in buying and selling, Simon made a pile practicing medicine, but in this pursuit he was unhappy lest he be tempted into doing what he knew was not for the glory of God, as the putting on of gold and costly apparel.Luôn nghĩ đến những phê phán của John Wesley[3] về thói lắm lời trong việc mua bán, Simon kiếm cả đống tiền bằng việc hành nghề y, nhưng trong việc này ông ta không vui vì sợ mình bị cám dỗ phải làm những điều mà ông biết rằng không vì vinh quang của Chúa, như việc đeo vàng trên người và mặc quần áo đắt tiền.
So Simon, having forgotten his teacher’s dictum on the possession of human chattels, bought three slaves and with their aid established a homestead on the banks of the Alabama River some forty miles above Saint Stephens.Vì thế Simon, sau khi quên đi châm ngôn của thầy giáo mình về việc sở hữu nô lệ, đã mua ba nô lệ và với sự trợ giúp của họ ông lập một trang trại trên bờ sông Alabama, cách Saint Stephens khoảng bốn mươi dặm về phía thượng nguồn.
He returned to Saint Stephens only once, to find a wife, and with her established a line that ran high to daughters.Ông chỉ trở lại Saint Stephens một lần, để tìm vợ, và ông đã cùng bà tạo dựng một dòng họ với nhiều con gái.
Simon lived to an impressive age and died rich.Simon sống rất thọ và chết trong giàu có.
It was customary for the men in the family to remain on Simon’s homestead, Finch’s Landing, and make their living from cotton.Thông lệ của người trong gia tộc này là vẫn ở lại trang trại của Simon, nó có tên là Finch’s Landing, và kiếm sống bằng nghề trồng bông vải.
The place was self-sufficient: modest in comparison with the empires around it, the Landing nevertheless produced everything required to sustain life except ice, wheat flour, and articles of clothing, supplied by river-boats from Mobile.Trang trại này hoàn toàn tự túc: khá khiêm tốn so với những đại nông trại xung quanh, nhưng Landing vẫn sản xuất được mọi thứ để duy trì cuộc sống trừ nước đá, bộ mỳ và những thứ y phục, vốn phải mua từ những ghe thương hồ từ Mobile.
Simon would have regarded with impotent fury the disturbance between the North and the South, as it left his descendants stripped of everything but their land, yet the tradition of living on the land remained unbroken until well into the twentieth century, when my father, Atticus Finch, went to Montgomery to read law, and his younger brother went to Boston to study medicine. Their sister Alexandra was the Finch who remained at the Landing: she married a taciturn man who spent most of his time lying in a hammock by the river wondering if his trot-lines were full.Simon nhìn sự náo loạn giữa miền Nam với miền Bắc với nỗi giận dữ bất lực, vì nó khiến cho con cháu ông bị tước đoạt hết mọi thứ trừ đất đai của chúng, nhưng truyền thống sống bám vào đất vẫn được duy trì đến nhiều thập niên của thế kỷ hai mươi, khi bố tôi, Atticus Finch, đến Montgomery đế học luật, và em trai bố đến Boston học y. Chị Alexandra của bố là người họ Finch vẫn ở lại Landing: bà cưới một ông chồng ít nói, người dành phần lớn thời gian nằm trên chiếc võng cạnh bờ sông mà tự hỏi những dây câu của mình đã dính cá hết chưa.
When my father was admitted to the bar, he returned to Maycomb and began his practice.Khi được nhận vào luật sư đoàn, bố tôi trở về Maycomb và bắt đầu hành nghề.
Maycomb, some twenty miles east of Finch’s Landing, was the county seat of Maycomb County.Maycomb, cách Finch’s Landing mười hai dặm về phía Đông, là trung tâm của hạt Maycomb.
Atticus’s office in the courthouse contained little more than a hat rack, a spittoon, a checkerboard and an unsullied Code of Alabama.Văn phòng của bố Atticus tại tòa án chẳng có gì nhiều hơn một cái giá treo mũ, một ống nhổ, một bàn cờ đam và một cuốn luật Alabama còn mới nguyên.
His first two clients were the last two persons hanged in the Maycomb County jail.Hai thân chủ đầu tiên của bố là hai người cuối cùng bị treo cổ trong nhà tù hạt Maycomb.
Atticus had urged them to accept the state’s generosity in allowing them to plead Guilty to second-degree murder and escape with their lives, but they were Haverfords, in Maycomb County a name synonymous with jackass.Bố Atticus đã cố thuyết phục họ chấp nhận sự khoan hồng của tiểu bang trong việc cho phép họ nhận tội giết người cấp độ hai[4] và giữ được mạng sống, nhưng họ thuộc dòng tộc Haverford, ở hạt Maycomb cái tên này đồng nghĩa với thằng ngốc.
The Haverfords had dispatched Maycomb’s leading blacksmith in a misunderstanding arising from the alleged wrongful detention of a mare, were imprudent enough to do it in the presence of three witnesses, and insisted that the-son-of-a-bitch-had-it-coming-to-him was a good enough defense for anybody.Những tay Haverford này đã giết chết người thợ rèn giỏi nhất của Maycomb trong một vụ hiểu lầm xuất phát từ việc bắt giữ một con ngựa bị coi là sai trái, thật thiếu khôn ngoan khi làm việc đó trước mặt ba nhân chứng, và cứ khăng khăng rằng đồ-chó-đẻ-nếu-hắn-có-ý-đó là cách biện hộ đủ hiệu quả cho bất cứ ai.
They persisted in pleading Not Guilty to first-degree murder, so there was nothing much Atticus could do for his clients except be present at their departure, an occasion that was probably the beginning of my father’s profound distaste for the practice of criminal law.Họ nhất quyết rằng mình không phạm tội giết người cấp độ một, vì vậy bố Atticus không thể làm gì hơn cho thân chủ trừ việc có mặt vào lúc họ lên đường, một vụ xử có lẽ là khởi đầu cho nỗi chán ghét đối với ngạch luật sư hình sự của bố.
During his first five years in Maycomb, Atticus practiced economy more than anything; for several years thereafter he invested his earnings in his brother’s education.Trong năm năm đầu ở Maycomb, bố Atticus thực hành tiết kiệm hơn bất cứ thứ gì khác, trong nhiều năm sau đó bố đầu tư thu nhập của mình vào việc học hành của em trai bố.
John Hale Finch was ten years younger than my father, and chose to study medicine at a time when cotton was not worth growing; but after getting Uncle Jack started, Atticus derived a reasonable income from the law.John Hale Finch nhỏ hơn bố mười tuổi và chọn học nghề y vào thời điểm mà việc trồng bông vải không còn sinh lợi nữa; nhưng sau khi giúp chú Jack[5] khởi nghiệp, bố Atticus có được thu nhập đáng kể từ nghề luật.
He liked Maycomb, he was Maycomb County born and bred; he knew his people, they knew him, and because of Simon Finch’s industry, Atticus was related by blood or marriage to nearly every family in the town.Bố thích Maycomb, ông sinh ra và lớn lên ở hạt Maycomb; ông biết rõ dân ở đây và họ cũng biết bố, và do công việc làm ăn của Simon Finch, nên bố Atticus có quan hệ họ hàng hoặc thông gia với hầu hết các gia đình ở thị trấn này.
Maycomb was an old town, but it was a tired old town when I first knew it.Maycomb là một thị trấn cổ, nhưng nó là một thị trấn cổ chán ngắt khi lần đầu tiên tôi biết nó.
In rainy weather the streets turned to red slop; grass grew on the sidewalks, the courthouse sagged in the square.Vào mùa mưa đường phố trở nên lầy lội đỏ quạch; cỏ mọc trên hai lề đường, tòa án ủ rũ ở quảng trường.
Somehow, it was hotter then: a black dog suffered on a summer’s day; bony mules hitched to Hoover carts flicked flies in the sweltering shade of the live oaks on the square.Không hiểu sao hồi đó trời nóng hơn: một con chó mực khổ sở trong ngày hè; mấy con lừa trơ xương bị buộc vào những cỗ xe hai bánh lo đuổi ruồi trong bóng râm nồng nực của những cây sồi trên quảng trường.
Men’s stiff collars wilted by nine in the morning.Đến chín giờ sáng những chiếc cổ cồn cứng của các ông rũ xuống.
Ladies bathed before noon, after their three-o’clock naps, and by nightfall were like soft teacakes with frostings of sweat and sweet talcum.Các bà tắm trước buổi trưa, rồi sau giấc ngủ ngắn lúc ba giờ, và khi đêm xuống họ trông giống như những chiếc bánh bơ mềm phủ mồ hôi và phấn rôm ngọt.
People moved slowly then.Hồi đó người ta di chuyển chậm chạp.
They ambled across the square, shuffled in and out of the stores around it, took their time about everything.Họ thơ thẩn qua quảng trường, lê bước ra hoặc vào các cửa hàng quanh đó, rề rà trong mọi chuyện.
A day was twenty-four hours long but seemed longer.Một ngày hai mươi bốn giờ nhưng có vẻ như dài hơn.
There was no hurry, for there was nowhere to go, nothing to buy and no money to buy it with, nothing to see outside the boundaries of Maycomb County.Chẳng có gì vội vã, vì chẳng có nơi nào để đi, không có gì để mua và không có tiền để mua[6], chẳng có gì để thăm thú bên ngoài địa giới hạt Maycomb.
But it was a time of vague optimism for some of the people: Maycomb County had recently been told that it had nothing to fear but fear itself.Nhưng đó là thời kỳ lạc quan mơ hồ của một số người: đến gần đây người ta đã bảo với hạt Maycomb rằng nó chẳng có gì để sợ ngoài chính nỗi sợ hãi[7].
We lived on the main residential street in town—Atticus, Jem and I, plus Calpurnia our cook.Chúng tôi sống ở con phố chính của thị trấn-bố Atticus, Jem và tôi, thêm Calpurnia đầu bếp của chúng tôi.
Jem and I found our father satisfactory: he played with us, read to us, and treated us with courteous detachment.Jem với tôi thấy bố rất dễ chịu: ông chơi với chúng tôi, đọc cùng chúng tôi, và đối đãi với chúng tôi với sự xa cách lịch sự.
Calpurnia was something else again.Calpurnia lại khác.
She was all angles and bones; she was nearsighted; she squinted; her hand was wide as a bed slat and twice as hard.Bà toàn góc cạnh và xương xẩu; bà cận thị; bà lé; bàn tay bà to bè như thanh giát giường và cứng gấp đôi.
She was always ordering me out of the kitchen, asking me why I couldn’t behave as well as Jem when she knew he was older, and calling me home when I wasn’t ready to come.Bà luôn xua tôi khỏi nhà bếp, hỏi tôi sao không cư xử ngoan ngoãn được như Jem mặc dù bà biết anh ấy lớn hơn, và gọi tôi về nhà khi tôi không muốn về.
Our battles were epic and one-sided.Những trận chiến của chúng tôi thật hùng tráng và chênh lệch.
Calpurnia always won, mainly because Atticus always took her side.Calpurnia luôn luôn thắng, chủ yếu vì bố Atticus lúc nào cũng đứng về phía bà.
She had been with us ever since Jem was born, and I had felt her tyrannical presence as long as I could remember.Bà đã ở với chúng tôi từ khi Jem chào đời, và trong những chừng mực gì còn nhớ được thì tôi đều cảm thấy sự có mặt độc đoán của bà.
Our mother died when I was two, so I never felt her absence.Mẹ chúng tôi mất khi tôi lên hai, vì vậy tôi không hề cảm thấy thiếu vắng bà.
She was a Graham from Montgomery; Atticus met her when he was first elected to the state legislature.Bà là một người thuộc họ Graham gốc ở Montgomery; bố Atticus gặp mẹ khi lần đầu bố được bầu vào cơ quan lập pháp bang.
He was middle-aged then, she was fifteen years his junior.Lúc đó bố đã trung niên, mẹ nhỏ hơn bố mười lăm tuổi.
Jem was the product of their first year of marriage; four years later I was born, and two years later our mother died from a sudden heart attack.Jem là kết quả của năm đầu họ lấy nhau; bốn năm sau tôi chào đời, và hai năm sau mẹ tôi mất vì một cơn đau tim.
They said it ran in her family.Họ nói bệnh này di truyền trong gia đình bà.
I did not miss her, but I think Jem did.Tôi không nhớ mẹ, nhưng chắc Jem nhớ.
He remembered her clearly, and sometimes in the middle of a game he would sigh at length, then go off and play by himself behind the car-house.Anh ấy nhớ mẹ rất rõ, và đôi khi đang chơi giữa chừng anh ấy thở dài hồi lâu, sau đó bỏ đi chơi một mình ở phía sau nhà xe.
When he was like that, I knew better than to bother him.Khi anh ấy như vậy, tôi biết khôn hồn thì đừng quấy rầy anh ấy.
When I was almost six and Jem was nearly ten, our summertime boundaries (within calling distance of Calpurnia) were Mrs. Henry Lafayette Dubose’s house two doors to the north of us, and the Radley Place three doors to the south.Khi tôi gần được sáu tuổi và Jem xấp xỉ mười, ranh giới cho kỳ nghỉ hè của chúng tôi (nằm trong tầm nghe được tiếng gọi của Calpurnia) là nhà của bà Herry Lafayette Dubose cách nhà tôi hai căn về phía Bắc và tòa nhà Radley cách nhà tôi ba căn về phía Nam.
We were never tempted to break them.Chúng tôi không bao giờ có ý muốn phá vỡ các ranh giới đó.
The Radley Place was inhabited by an unknown entity the mere description of whom was enough to make us behave for days on end; Mrs. Dubose was plain hell.Tòa nhà Radley là nơi cư ngụ của một thực thể lạ lẫm chỉ cần nghe miêu tả là đủ khiến chúng tôi ngoan ngoãn trong nhiều ngày liên tục, bà Dubose thì chán chết đi được.
That was the summer Dill came to us.Đó là mùa hè Dill đến với chúng tôi.
Early one morning as we were beginning our day’s play in the back yard, Jem and I heard something next door in Miss Rachel Haverford’s collard patch.Một sáng sớm khi chúng tôi bắt đầu trò chơi ở sân sau, Jem và tôi có nghe tiếng gì đó ở nhà bên cạnh, trong mảnh vườn trồng bắp cải của cô Rachel Haverford.
We went to the wire fence to see if there was a puppy—Miss Rachel’s rat terrier was expecting—instead we found someone sitting looking at us.Chúng tôi đến bên hàng rào dây kẽm để xem có phải một chú chó con không-con chó săn chuột của cô Rachel đang sắp đẻ-thay vào đó chúng tôi thấy một đứa bé đang nhìn mình.
Sitting down, he wasn’t much higher than the collards.Ngồi ở đó, nó không cao hơn những cây cải là mấy.
We stared at him until he spoke:Chúng tôi nhìn nó cho đến khi nó lên tiếng:
“Hey.”“Chào”
“Hey yourself,” said Jem pleasantly.“Chào”, Jem vui vẻ đáp.
“I’m Charles Baker Harris,” he said.“Tao là Charles Baker Harris”, nó nói.
“I can read.”“Tao biết đọc đó”.
“So what?” I said.“Thì sao?” tôi nói.
“I just thought you’d like to know I can read.“Tao nghĩ tui bay muốn biết tao có biết đọc hay không.
You got anything needs readin’ I can do it.Tụi bay có thứ gì cần đọc thì tao đọc cho…”
“How old are you,” asked Jem, “four-and-a-half?”“Mày mấy tuổi”, Jem hỏi, “bốn tuổi rưỡi hả?”
“Goin’ on seven.”“Sắp bảy tuổi.”
“Shoot no wonder, then,” said Jem, jerking his thumb at me.“Vậy có gì bảnh đâu,” Jem nói, chĩa ngón trỏ về phía tôi.
“Scout yonder’s been readin’ ever since she was born, and she ain’t even started to school yet.“Con Scout kia biết đọc từ lúc mới đẻ, mà nó còn chưa tới trường nữa kìa.
You look right puny for goin’ on seven.”Sắp bảy tuổi mà coi mày nhỏ xíu à.”
“I’m little but I’m old,” he said.“Tao nhỏ con nhưng tao lớn rồi,” nó nói.
Jem brushed his hair back to get a better look.Jem hất tóc ra sau để nhìn rõ hơn.
“Why don’t you come over, Charles Baker Harris?” he said.“Sao mày không qua đây, Charles Baker Harris?” Anh ấy nói.
“Lord, what a name.”“Cái tên nghe ngon dữ.”
“ ’s not any funnier’n yours.“Tên tao đâu mắc cười gì hơn tên mày.
Aunt Rachel says your name’s Jeremy Atticus Finch.”Dì Rachel nói tên mày là Jeremy Atticus Finch.”
Jem scowled.Jem cau mặt.
“I’m big enough to fit mine,” he said.“Tao đủ lớn để khớp với tên của tao,” anh ấy nói.
“Your name’s longer’n you are.“Tên mày còn dài hơn người mày nữa.
Bet it’s a foot longer.”Dám chắc là nó dài hơn cỡ ba tấc.”
“Folks call me Dill,” said Dill, struggling under the fence.“Người ta gọi tao là Dill,” Dill nói, cựa quậy bên dưới hàng rào.
“Do better if you go over it instead of under it,” I said.“Tốt hơn là mày nhảy qua thay vì chui dưới hàng rào,” tôi nói.
“Where’d you come from?”“Mày ở đâu tới vậy?”
Dill was from Meridian, Mississippi, was spending the summer with his aunt, Miss Rachel, and would be spending every summer in Maycomb from now on.Dill quê ở Meridian, Mississippi, đang nghỉ hè ở chỗ dì nó, cô Rachel, và từ nay trở đi cứ hè là nó về Maycomb.
His family was from Maycomb County originally, his mother worked for a photographer in Meridian, had entered his picture in a Beautiful Child contest and won five dollars.Gia đình nó trước ở Maycomb, mẹ nó làm việc cho một tay thợ chụp hình ở Meridian, đã đưa ảnh của nó đi dự một cuộc thi Bé Xinh và giành được giải thưởng năm đô.
She gave the money to Dill, who went to the picture show twenty times on it.Bà cho Dill số tiền đó, nhờ thế nó đi xem phim được hai mươi lần.
“Don’t have any picture shows here, except Jesus ones in the courthouse sometimes,” said Jem.“ Ở đây không có mục phim ảnh gì hết, trừ thỉnh thoảng có chiếu phim về chúa Jesus trong tòa án,” Jem nói.
“Ever see anything good?”“Có từng xem thứ gì hay hay không?”
Dill had seen Dracula, a revelation that moved Jem to eye him with the beginning of respect.Dill đã xem Dracula, một phát hiện khiến Jem nhìn nó với đôi mắt bắt đầu có vẻ nể nang.
“Tell it to us,” he said.“Kể tụi tao nghe đi,” anh ấy nói.
Dill was a curiosity.Dill là một đứa khác lạ.
He wore blue linen shorts that buttoned to his shirt, his hair was snow white and stuck to his head like duck-fluff; he was a year my senior but I towered over him.Nó mặc quần soóc bằng vải lanh xanh cài nút vào áo sơ mi, tóc nó trắng như tuyết và ép sát vào đầu như lông vịt; nó lớn hơn tôi một tuổi nhưng tôi cao hơn nó.
As he told us the old tale his blue eyes would lighten and darken; his laugh was sudden and happy; he habitually pulled at a cowlick in the center of his forehead.Khi nó kể cho chúng tôi nghe về câu chuyện cũ xì đó đôi mắt xanh của nó hết sáng lên lại tối sầm; tiếng cười của nó bất ngờ và vui vẻ; nó luôn tay giật chỗ tóc bò liếm ngay giữa trán.
When Dill reduced Dracula to dust, and Jem said the show sounded better than the book, I asked Dill where his father was: “You ain’t said anything about him.”Khi Dill kể rốt ráo hết phim Dracula, và Jem nói phim nghe có vẻ hay hơn sách, tôi hỏi Dill ba nó đâu, “Không nghe mày nói gì về ba mày hết.”
“I haven’t got one.”“Tao không có ba.”
“Is he dead?”“Ổng chết rồi hả?”
“No“Không ….”
“Then if he’s not dead you’ve got one, haven’t you?”“Vậy nếu ổng không chết tức là mày có ba, đúng không?”
Dill blushed and Jem told me to hush, a sure sign that Dill had been studied and found acceptable.Dill đỏ mặt và Jem bảo tôi im, một dấu hiệu cho thấy rõ ràng Dill đã được nghiên cứu và xếp vào loại chấp nhận được.
Thereafter the summer passed in routine contentment.Sau đó mùa hè trôi qua trong sự thỏa mãn bình thường.
Routine contentment was: improving our treehouse that rested between giant twin chinaberry trees in the back yard, fussing, running through our list of dramas based on the works of Oliver Optic, Victor Appleton, and Edgar Rice Burroughs.Sự thỏa mãn bình thường nghĩa là: cải thiện ngôi nhà trên cây của chúng tôi vốn nằm giữa hai cây xoan khổng lồ sinh đôi ở sân sau, làm rộn mọi chuyện, lược qua danh sách những vở kịch dựa trên tác phẩm của Oliver Optich, Vitor Appleton và Edgar Rice Burroughs.
In this matter we were lucky to have Dill.Trong vụ này chúng tôi may mắn có Dill.
He played the character parts formerly thrust upon me—the ape in Tarzan, Mr. Crabtree in The Rover Boys, Mr. Damon in Tom Swift.Nó đóng những vai trước đây tôi phải nhận – con khỉ đột trong vở Tazan, ông Crabtree trong The Rover Boys, ông Damon trong Tom Swift.
Thus we came to know Dill as a pocket Merlin, whose head teemed with eccentric plans, strange longings, and quaint fancies.Vì vậy chúng tôi dần xem Dill là một tay Merlin bỏ túi[8], với một cái đầu đầy những kế hoạch ly kỳ, những khát khao quái lạ, và những tưởng tượng kỳ quặc.
But by the end of August our repertoire was vapid from countless reproductions, and it was then that Dill gave us the idea of making Boo Radley come out.Nhưng vào cuối tháng Tám kho tiết mục trò chơi của chúng tôi trở nên nhạt nhẽo vì đã chơi hoài không biết bao lần, và chính lúc đó Dill đã mớm cho chúng tôi ý tưởng dụ Boo Radley ra khỏi nhà.
The Radley Place fascinated Dill.Ngôi nhà Radley mê hoặc Dill.
In spite of our warnings and explanations it drew him as the moon draws water, but drew him no nearer than the light-pole on the corner, a safe distance from the Radley gate.Bất chấp những cảnh báo và giải thích của chúng tôi, ngôi nhà đó cứ thu hút nó như mặt trăng hút con nước, nhưng hút nó không vượt qua cột đèn ở góc phố, một khoảng cách an toàn tính từ cổng nhà Radley.
There he would stand, his arm around the fat pole, staring and wondering.Nó sẽ đứng đó, ôm lấy cột đèn, chăm chú nhìn và băn khoăn.
The Radley Place jutted into a sharp curve beyond our house.Nhà Radley nhô hẳn ra đường cách nhà tôi một đoạn.
Walking south, one faced its porch; the sidewalk turned and ran beside the lot.Đi về phía Nam, người ta thấy hàng hiên của nó; lề đường bẻ góc và chạy dọc khu nhà.
The house was low, was once white with a deep front porch and green shutters, but had long ago darkened to the color of the slate-gray yard around it.Ngôi nhà thấp, từng sơn màu trắng với hàng hiên rộng phía trước và những cửa chớp màu xanh lá cây, nhưng từ lâu đã chuyển sang màu xám xanh giống màu của vuông sân quanh đó.
Rain-rotted shingles drooped over the eaves of the veranda; oak trees kept the sun away.Những miếng ván lớn mục rã vì mưa gió rũ trên mái hiên; những cây sồi che khuất ánh mặt trời.
The remains of a picket drunkenly guarded the front yard—a “swept” yard that was never swept—where johnson grass and rabbit-tobacco grew in abundance.Tàn tích của những chiếc cọc nhọn làm hàng rào xiêu vẹo ở sân trước – một cái sân “để quét” vốn không bao giờ được quét – nơi cỏ cho gia súc và cỏ thuốc thỏ mọc lan tràn.
Inside the house lived a malevolent phantom.Bên trong ngôi nhà có một bóng ma quỷ quái.
People said he existed, but Jem and I had never seen him.Người ta nói hắn có thật, nhưng Jem và tôi chưa bao giờ thấy hắn.
People said he went out at night when the moon was down, and peeped in windows.Người ta nói hắn ra ngoài vào ban đêm khi trăng lặn, và nhìn lén qua cửa sổ.
When people’s azaleas froze in a cold snap, it was because he had breathed on them.Khi cây đỗ quyên khô của người ta đông cứng trong một đợt rét, đó là do hắn hà hơi vào chúng.
Any stealthy small crimes committed in Maycomb were his work.Mọi vụ trộm vặt ở Maycomb đều là do hắn.
Once the town was terrorized by a series of morbid nocturnal events: people’s chickens and household pets were found mutilated; although the culprit was Crazy Addie, who eventually drowned himself in Barker’s Eddy, people still looked at the Radley Place, unwilling to discard their initial suspicions.Có lần thị trấn kinh hoàng vì hàng loạt sự kiện ghê rợn về đêm: người ta tìm thấy gà và những thú cưng trong nhà bị chặt khúc; dù thủ phạm là Addie điên, tên này sau cũng đã tự trầm ở vũng xoáy Barker, nhưng người ta vẫn nhìn vào nhà Radley, không hề muốn dẹp bỏ những nghi ngờ ban đầu của họ.
A Negro would not pass the Radley Place at night, he would cut across to the sidewalk opposite and whistle as he walked.Một người Da đen sẽ không đi ngang nhà Radley vào ban đêm, ông ta sẽ băng qua lề đường đối diện và huýt sáo khi bước đi.
The Maycomb school grounds adjoined the back of the Radley lot; from the Radley chickenyard tall pecan trees shook their fruit into the schoolyard, but the nuts lay untouched by the children: Radley pecans would kill you.Khuôn viên trường Maycomb giáp lưng với khu đất nhà Radley; những cây hồ đào cao lớn trong sân nuôi gà nhà Radley rụng đầy quả xuống sân trường. nhưng những quả hạch nằm đó mà không đứa trẻ nào dám đụng đến: những quả hồ đào nhà Radley sẽ giết bạn.
A baseball hit into the Radley yard was a lost ball and no questions asked.Một quả bóng rơi vào sân Radley và coi như mất và không ai buồn nêu ra thắc mắc nào.
The misery of that house began many years before Jem and I were born.Nỗi bất hạnh của ngôi nhà đó bắt đầu nhiều năm trước khi Jem với tôi ra đời.
The Radleys, welcome anywhere in town, kept to themselves, a predilection unforgivable in Maycomb.Người nhà Radley, tuy được chào đón ở bất cứ nơi nào trong thị trấn, lại sống tách biệt, một sở thích không thể tha thứ được ở Maycomb.
They did not go to church, Maycomb’s principal recreation, but worshiped at home; Mrs. Radley seldom if ever crossed the street for a mid-morning coffee break with her neighbors, and certainly never joined a missionary circle.Họ không đi nhà thờ, nơi giải trí chủ yếu của Maycomb, mà thờ phụng tại nhà; bà Radley hiếm khi qua bên kia đường uống cà phê giữa buổi sáng với hàng xóm, và chắc chắn không bao giờ tham gia nhóm truyền giáo.
Mr. Radley walked to town at eleven-thirty every morning and came back promptly at twelve, sometimes carrying a brown paper bag that the neighborhood assumed contained the family groceries.Ông Radley đi bộ xuống thị trấn lúc mười một giờ rưỡi sáng, và trở về vào đúng mười hai giờ, đôi khi xách một túi giấy nâu, mà láng giềng cho hàng tạp phẩm cho gia đình.
I never knew how old Mr. Radley made his living—Jem said he “bought cotton,” a polite term for doing nothing—but Mr. Radley and his wife had lived there with their two sons as long as anybody could remember.Tôi không biết ông già Radley kiếm sống bằng cách nào-Jem nói ông ta “mua bông vải”, một mỹ từ lịch sự để chỉ việc không làm gì cả-nhưng ông Radley và vợ ông ta sống ở đó với hai con trai từ lâu lắm rồi.
The shutters and doors of the Radley house were closed on Sundays, another thing alien to Maycomb’s ways: closed doors meant illness and cold weather only.Cửa sổ và cửa chính nhà Radley đóng kín vào những ngày Chủ nhật; một điều nữa trái với cung cách của Maycomb: cửa đóng chỉ có nghĩa là bệnh hay trời lạnh.
Of all days Sunday was the day for formal afternoon visiting: ladies wore corsets, men wore coats, children wore shoes.Trong các ngày thì Chủ nhật là ngày dành cho viếng thăm buổi chiều theo nghi thức: các bà mặc áo nịt, đàn ông mặc áo khoác, trẻ con mang giầy.
But to climb the Radley front steps and call, “He-y,” of a Sunday afternoon was something their neighbors never did.Nhưng leo lên những bậc thềm trước nhà Radley và nói, “xin chào” vào buổi chiều Chủ nhật là điều mà không một người hàng xóm nào làm.
The Radley house had no screen doors.Ngôi nhà Radley không có những cửa lưới.
I once asked Atticus if it ever had any; Atticus said yes, but before I was born.Có lần tôi hỏi bố Atticus liệu nó đã từng có cái nào không; bố Atticus nói có, nhưng trước khi tôi ra đời kia.
According to neighborhood legend, when the younger Radley boy was in his teens he became acquainted with some of the Cunninghams from Old Sarum, an enormous and confusing tribe domiciled in the northern part of the county, and they formed the nearest thing to a gang ever seen in Maycomb.Theo lời hàng xóm đồn đại, khi đứa con nhỏ nhà Radley ở tuổi thiếu niên, nó giao du với đám con nhà Cunningham gốc ở Old Sarum, một dòng họ đông đúc và khó hiểu cư trú ở phía Bắc của hạt này, và chúng lập thành một thứ gần như băng nhóm, thứ Maycomb chưa từng có bao giờ.
They did little, but enough to be discussed by the town and publicly warned from three pulpits: they hung around the barbershop; they rode the bus to Abbottsville on Sundays and went to the picture show; they attended dances at the county’s riverside gambling hall, the Dew-Drop Inn & Fishing Camp; they experimented with stumphole whiskey.Chúng chẳng làm gì nhiều, nhưng cũng đủ để dân thị trấn bàn luận và bị cảnh báo công khai tại ba buổi giảng kinh: chúng lẩn quất quanh các hiệu cắt tóc, đi xe buýt đến Abbottsville vào Chủ nhật và đi xem phim; chúng dự các buổi khiêu vũ tại ổ cờ bạc bên bờ sông của hạt, Dew-Drop Inn&Fishung Camp; chúng còn uống cả rượu lậu.
Nobody in Maycomb had nerve enough to tell Mr. Radley that his boy was in with the wrong crowd.Không ai ở Maycomb có đủ dũng cảm để nói với Radley rằng con trai ông ta giao du với bọn xấu cả.
One night, in an excessive spurt of high spirits, the boys backed around the square in a borrowed flivver, resisted arrest by Maycomb’s ancient beadle, Mr. Conner, and locked him in the courthouse outhouse.Một đêm nọ, trong cơn phấn khích tột độ, bọn chúng chạy lùi quanh quảng trường trên chiếc ô tô cũ mượn được, kháng cự nỗ lực chặn bắt của viên tuần cảnh già của Maycomb, ông Conner, và nhốt ông trong nhà xí của tòa án.
The town decided something had to be done; Mr. Conner said he knew who each and every one of them was, and he was bound and determined they wouldn’t get away with it, so the boys came before the probate judge on charges of disorderly conduct, disturbing the peace, assault and battery, and using abusive and profane language in the presence and hearing of a female.Thị trấn nhất quyết phải làm điều gì đó; ông Conner nói ông biết rõ từng đứa một, và ông quyết chí và khẳng định chúng sẽ không yên thân được với chuyện này, vì vậy bọn trai trẻ này bị đưa ra trước tòa với cáo buộc về tội hành xử bừa bãi, phá rối trật tự, đe dọa và hành hung, sử dụng ngôn ngữ lăng mạ và báng bổ trước sự hiện diện và nghe thấy của một phụ nữ.
The judge asked Mr. Conner why he included the last charge; Mr. Conner said they cussed so loud he was sure every lady in Maycomb heard them.Quan tòa hỏi ông Conner tại sao ông bao gồm cả tội cuối cùng; ông Conner nói rằng chúng chửi tục quá lớn đến độ ông chắc mọi quý bà ở Maycomb đều nghe thấy.
The judge decided to send the boys to the state industrial school, where boys were sometimes sent for no other reason than to provide them with food and decent shelter: it was no prison and it was no disgrace.Quan tòa quyết định tống bọn quấy rối này đến trường huấn luyện của tiểu bang, nơi thỉnh thoảng bọn trai trẻ được gửi đến không vì lý do gì khác hơn là cung cấp cho chúng thức ăn và chỗ ở tươm tất: nó không phải nhà từ và cũng không phải là điều gì đáng xấu hổ.
Mr. Radley thought it was.Nhưng ông Radley lại nghĩ nó là vậy.
If the judge released Arthur, Mr. Radley would see to it that Arthur gave no further trouble.Nếu quan tòa tha cho Arthur, ông Radley xin đảm bảo chắc chắn rằng Arthur sẽ không gây thêm rắc rối nào nữa.
Knowing that Mr. Radley’s word was his bond, the judge was glad to do so.Biết rằng lời hứa của ông Radley là đinh đóng cột, nên quan tòa đã hoan hỉ làm thế.
The other boys attended the industrial school and received the best secondary education to be had in the state; one of them eventually worked his way through engineering school at Auburn.Những đứa đồng bọn thì vào trường huấn luyện và nhận nền giáo dục trung học tốt nhất có được ở bang này; một đứa trong bọn còn học tiếp lên trường cơ khí ở Auburn.
The doors of the Radley house were closed on weekdays as well as Sundays, and Mr. Radley’s boy was not seen again for fifteen years.Những cánh cửa nhà Radley đóng kín suốt các ngày trong tuần lẫn ngày Chủ nhật và người ta không thấy mặt thằng con ông Radley suốt mười lăm năm.
But there came a day, barely within Jem’s memory, when Boo Radley was heard from and was seen by several people, but not by Jem.Nhưng đến một ngày, mà Jem hầu như không nhớ được, có vài người, nhưng không phải Jem, nghe tiếng nói và thấy mặt Boo Radley.
He said Atticus never talked much about the Radleys: when Jem would question him Atticus’s only answer was for him to mind his own business and let the Radleys mind theirs, they had a right to; but when it happened Jem said Atticus shook his head and said, “Mm mm, mm.”Anh ấy nói bố Atticus chẳng bao giờ nói gì nhiều về nhà Radley: khi Jem hỏi bố thì câu trả lời duy nhất của bố Atticus là bảo anh ấy hãy lo chuyện của mình và để cho nhà Radley lo công việc của họ, họ có quyền đó; nhưng khi chuyện này xảy ra Jem nói bố Atticus chỉ lắc đầu và kêu, “Mm, umm, umm.”
So Jem received most of his information from Miss Stephanie Crawford, a neighborhood scold, who said she knew the whole thing.Vì vậy Jem nhận hầu hết thông tin từ cô Stephanie Crawford, một hàng xóm lắm chuyện, xét nét, người nói mình biết toàn bộ câu chuyện này.
According to Miss Stephanie, Boo was sitting in the livingroom cutting some items from The Maycomb Tribune to paste in his scrapbook.Theo cô Stephanie, Bob đang ngồi trong phòng khách cắt một số mục trong tờ The Maycomb Tribune để dán vào cuốn sưu tập báo của anh ta.
His father entered the room.Ba anh ta bước vào phòng.
As Mr. Radley passed by, Boo drove the scissors into his parent’s leg, pulled them out, wiped them on his pants, and resumed his activities.Khi ông Radley đi ngang, Bob đâm kéo vào chân ba mình, rồi rút ra, chùi nó vào quần, và tiếp tục công việc cắt dán.
Mrs. Radley ran screaming into the street that Arthur was killing them all, but when the sheriff arrived he found Boo still sitting in the livingroom, cutting up the Tribune.Bà Radley chạy ra đường gào lên rằng Arthur sắp giết cả nhà họ, nhưng khi cảnh sát trưởng đến ông ta thấy Bob vẫn ngồi trong phòng khách, cắt tờ Tribune.
He was thirty-three years old then.Lúc đó anh ta đã ba mươi ba tuổi.
Miss Stephanie said old Mr. Radley said no Radley was going to any asylum, when it was suggested that a season in Tuscaloosa might be helpful to Boo.Cô Stephanie bảo ông Radley già nói không có người nào trong nhà Radley phải vào nhà thương điên cả khi có người đề nghị rằng một đợt an dưỡng ở Tuscaloosa có thể có ích cho Bob.
Boo wasn’t crazy, he was high-strung at times.Bob không điên, nhiều lúc anh ta quá căng thẳng.
It was all right to shut him up, Mr. Radley conceded, but insisted that Boo not be charged with anything: he was not a criminal.Nhôt anh ta lại thì được thôi, ông Radley thừa nhận, nhưng khẳng định rằng không thể buộc cho Bob bất cứ tội gì: anh ta không phải là tội phạm.
The sheriff hadn’t the heart to put him in jail alongside Negroes, so Boo was locked in the courthouse basement.Ông cảnh sát trưởng chẳng nỡ nhốt anh ta vào tù cùng bọn da đen, vì vậy Bob bị nhốt trong tầng hầm của tòa án.
Boo’s transition from the basement to back home was nebulous in Jem’s memory.Việc chuyển Bob từ tầng hầm về nhà chỉ lờ mờ trong ký ức của Jem.
Miss Stephanie Crawford said some of the town council told Mr. Radley that if he didn’t take Boo back, Boo would die of mold from the damp.Cô Stephanie Crawford nói một số người trong hội đồng thị trấn đã bảo ông Radley rằng nếu ông không đem Bob về, Bob sẽ chết vì nấm mốc do ẩm thấp.
Besides, Boo could not live forever on the bounty of the county.Ngoài ra Bob không thể sống dựa vào tiền bạc của hạt mãi được.
Nobody knew what form of intimidation Mr. Radley employed to keep Boo out of sight, but Jem figured that Mr. Radley kept him chained to the bed most of the time.Không ai biết ông Radley đã sử dụng hình thức răn đe nào để không ai nhìn thấy Bob, nhưng Jem hình dung rằng ông Radley hầu như thường xuyên xiềng anh ta vào giường.
Atticus said no, it wasn’t that sort of thing, that there were other ways of making people into ghosts.Bố Atticus nói không, không phải kiểu đó, rằng có nhiều cách làm cho người ta trở thành bóng ma.
My memory came alive to see Mrs. Radley occasionally open the front door, walk to the edge of the porch, and pour water on her cannas.Ký ức tôi trở nên sống động khi thấy bà Radley thỉnh thoảng mở cửa trước, đi đến mé hàng hiên, tưới nước cho mấy cây chuối hoa của bà.
But every day Jem and I would see Mr. Radley walking to and from town.Nhưng mỗi ngày Jem và tôi đều thấy ông Radley đi bộ xuống thị trấn rồi trở về.
He was a thin leathery man with colorless eyes, so colorless they did not reflect light. His cheekbones were sharp and his mouth was wide, with a thin upper lip and a full lower lip.Người đàn ông gày gò khô quắt, mắt không màu, không màu đến độ chúng không phản chiếu ánh sáng, Xương gò má của ông ta nhọn và miệng thì rộng, môi trên mỏng và môi dưới dày.
Miss Stephanie Crawford said he was so upright he took the word of God as his only law, and we believed her, because Mr. Radley’s posture was ramrod straight.Cô Stephanie Crawford nói ông ta quá ngay thẳng đến độ ông ta xem lời Chúa là luật lệ duy nhất của mình, và chúng tôi tin cô, bởi vì dáng điệu của ông Radley lúc nào cũng thẳng đơ.
He never spoke to us.Ông không bao giờ nói chuyện với chúng tôi.
When he passed we would look at the ground and say, “Good morning, sir,” and he would cough in reply.Khi ông đi ngang qua, chúng tôi thường nhìn xuống đất và nói, “Chào ông”, và ông ho đáp lại.
Mr. Radley’s elder son lived in Pensacola; he came home at Christmas, and he was one of the few persons we ever saw enter or leave the place.Con trai cả của ông Radley sống ở Pensacola, anh ta về nhà vào dịp Giáng sinh, và anh ta là một trong ít người chúng tôi từng thấy bước vào hay rời ngôi nhà đó.
From the day Mr. Radley took Arthur home, people said the house died.Từ ngày ông Radley đưa Arthur về nhà, người ta nói ngôi nhà đó đã chết.
But there came a day when Atticus told us he’d wear us out if we made any noise in the yard and commissioned Calpurnia to serve in his absence if she heard a sound out of us.Nhưng đến một hôm bố Atticus nói với chúng tôi bố sẽ đét đít nếu chúng tôi làm ồn trong sân và giao cho Calpurnia thực hiện nhiệm vụ khi ông vắng mặt nếu bà nghe chúng tôi gây tiếng ồn.
Mr. Radley was dying.Ông Radley đang hấp hối.
He took his time about it.Ông ấy khá thong thả trong việc này.
Wooden sawhorses blocked the road at each end of the Radley lot, straw was put down on the sidewalk, traffic was diverted to the back street.Những băng ngựa gỗ của thợ mộc chặn hai đầu đường của khu đất nhà Radley, rơm được lót trên lề đường, giao thông được chuyển hướng sang đường nhanh phía sau.
Dr. Reynolds parked his car in front of our house and walked to the Radley’s every time he called.Bác sĩ Reynolds đậu xe ngay trước nhà tôi và đi bộ đến nhà Radley mỗi khi ông ta đến thăm bệnh.
Jem and I crept around the yard for days.Jem và tôi chơi quanh quẩn trong sân suốt nhiều ngày.
At last the sawhorses were taken away, and we stood watching from the front porch when Mr. Radley made his final journey past our house.Cuối cùng những băng gỗ được mang đi, và chúng tôi đứng trước hiên nhìn theo khi ông Radley làm chuyến hành trình cuối cùng của ông ngang qua nhà tôi.
“There goes the meanest man ever God blew breath into,” murmured Calpurnia, and she spat meditatively into the yard.“Đi rồi một kẻ bần tiện nhất mà Chúa từng thổi hơi thở vào,” Calpurnia lẩm bẩm, và bà phun nước bọt ra sân với vẻ trầm tư.
We looked at her in surprise, for Calpurnia rarely commented on the ways of white people.Chúng tôi nhìn bà đầy ngạc nhiên, vì hiếm khi Calpurnia bình luận về cung cách của người da trắng.
The neighborhood thought when Mr. Radley went under Boo would come out, but it had another think coming: Boo’s elder brother returned from Pensacola and took Mr. Radley’s place.Hàng xóm nghĩ khi ông Radley nằm xuống Bob sẽ xuất hiện, nhưng mọi người đã lầm: anh trai Bob từ Pensacola trở về và thế chỗ ông Radley.
The only difference between him and his father was their ages.Khác biệt duy nhất giữa anh ta và người cha là tuổi tác.
Jem said Mr. Nathan Radley “bought cotton,” too. Mr. Nathan would speak to us, however, when we said good morning, and sometimes we saw him coming from town with a magazine in his hand.Jem nói ông Nathan Radley cũng “mua bông vải.” Tuy nhiên Nathan có đáp lại chúng tôi khi chúng tôi chào buổi sáng, và đôi khi chúng tôi thấy anh ta từ thị trấn ra về với tờ tạp chí trên tay.
The more we told Dill about the Radleys, the more he wanted to know, the longer he would stand hugging the light-pole on the corner, the more he would wonder.Chúng tôi càng nói nhiều với Dill về nhà Radley, nó càng muốn biết, thật đứng ôm cột điện càng lâu nó càng thắc mắc.
“Wonder what he does in there,” he would murmur.“Không biết hắn ta làm gì trong đó”, nó lẩm bẩm.
“Looks like he’d just stick his head out the door.”“Cứ là hắn ta vừa thò đầu ra khỏi cửa ấy.
Jem said, “He goes out, all right, when it’s pitch dark.Jem nói, “Hắn ta đi ra ngoài, chắc chắn rồi, khi mà trời tối thui.
Miss Stephanie Crawford said she woke up in the middle of the night one time and saw him looking straight through the window at herCô Stephanie Crawford nói có lần cô tỉnh dậy lúc nửa đêm và thấy hắn nhìn cô qua cửa số...nơi đầu của hắn giống như cái sọ người nhìn cô.
. said his head was like a skull lookin’ at her. Ain’t you ever waked up at night and heard him, Dill?Mày có bao giờ thức giấc nửa đêm rồi nghe thấy tiếng hắn không, Dill?
He walks like this—” Jem slid his feet through the gravel.Hắn đi giống vậy nè….” Jem lê bàn chân anh trên sỏi.
“Why do you think Miss Rachel locks up so tight at night?“Mày nghĩ sao khi cô Rachel lại khoá cửa kỹ thế ban đêm?
I’ve seen his tracks in our back yard many a mornin’, and one night I heard him scratching on the back screen, but he was gone time Atticus got there.”Nhiều buổi sáng tao còn thấy dấu vết của hắn ở sân sau, và có đêm tao nghe thấy hắn cào cửa lưới sau nhà, nhưng khi bố Atticus ra tới đó thì hắn đã đi mất.
“Wonder what he looks like?” said Dill.“Không biết hắn như thế nào sao?” Dill hỏi:
Jem gave a reasonable description of Boo: Boo was about six-and-a-half feet tall, judging from his tracks; he dined on raw squirrels and any cats he could catch, that’s why his hands were bloodstained—if you ate an animal raw, you could never wash the blood off.Jem đưa ra mô tả hợp lý về Bob: Bob cao khoảng mét chín, đoán chừng qua những dấu vết của hắn; hắn ăn thịt sóc sống và bất cứ con mèo nào hắn bắt được, đó là lý do tại sao hai bàn tay hắn đầy máu-nếu mày ăn sống thú vật, mày sẽ không bao giờ rửa sạch máu được.
There was a long jagged scar that ran across his face; what teeth he had were yellow and rotten; his eyes popped, and he drooled most of the time.Mặt hắn có nguyên một vết sẹo lồi chạy ngang qua; răng hắn không những vàng khè mà còn bị sâu nữa; mắt hắn thô lố; miệng lúc nào cũng chảy nước dãi.
“Let’s try to make him come out,” said Dill.“Tụi mình thử dụ hắn ra ngoài đi,” Dill nói.
“I’d like to see what he looks like.”“Tao muốn thấy hắn ra sao.”
Jem said if Dill wanted to get himself killed, all he had to do was go up and knock on the front door.Jem nói nếu Dill muốn bị mất mạng, thì nó chỉ cần đi tới và gõ cửa trước.
Our first raid came to pass only because Dill bet Jem The Gray Ghost against two Tom Swifts that Jem wouldn’t get any farther than the Radley gate.Cuộc đột kích đầu tiên của bọn tôi xảy ra bởi vì Dill cá với Jem cuốn The Gray Ghost[9] ăn hai cuốn truyện Tom Swift rằng Jem sẽ không dám đi quá cổng nhà Radley.
In all his life, Jem had never declined a dare.Cả đời mình, Jem chưa từng từ chối một thách thức nào.
Jem thought about it for three days.Jem nghĩ về chuyện đó ba ngày.
I suppose he loved honor more than his head, for Dill wore him down easily: “You’re scared,” Dill said, the first day.Tôi nghĩ rằng anh ấy yêu danh dự hơn cái mạng mình, vì Dill công kích liên tục khiến anh kiệt sức dễ dàng. “Mày sợ rồi”, ngày đầu Dill nói.
“Ain’t scared, just respectful,” Jem said.“Tao không sợ, chỉ kính trọng thôi,” Jem nói.
The next day Dill said, “You’re too scared even to put your big toe in the front yard.” Jem said he reckoned he wasn’t, he’d passed the Radley Place every school day of his life.Ngày hôm sau Dill nói, “Mày sợ muốn chết đến độ không dám đặt ngón chân cái vào sân trước.” Jem nói anh ấy tin là mình không sợ, mỗi ngày anh ấy đều đi học ngang qua nhà Radley.
“Always runnin’,” I said.“Lần nào cũng chạy thục mạng,” tôi nói.
But Dill got him the third day, when he told Jem that folks in Meridian certainly weren’t as afraid as the folks in Maycomb, that he’d never seen such scary folks as the ones in Maycomb.Nhưng Dill khích được anh ấy vào ngày thứ ba, khi nó nói với Jem rằng dân Meridian chắc chắn không sợ hãi như dân Maycomb, rằng nó chưa từng thấy dân nào nhát như dân Maycomb.
This was enough to make Jem march to the corner, where he stopped and leaned against the light-pole, watching the gate hanging crazily on its homemade hinge.Điều này đủ làm cho Jem phải đi đến góc đường, ở đó anh dừng lại và dựa vào cột đèn, nhìn cánh cổng đong đưa như khùng điên trên bản lề tự chế.
“I hope you’ve got it through your head that he’ll kill us each and every one, Dill Harris,” said Jem, when we joined him.“Tao hy vọng cái đầu mày tự hiểu ra rằng hắn sẽ giết từng đứa bọn mình đó, Dill Harris,” Jem nói, khi chúng tôi tới nhập bọn với anh.
“Don’t blame me when he gouges your eyes out.“Đừng trách tao khi hắn móc mắt mày nghen.
You started it, remember.”Hãy nhớ là mày khơi mào vụ này đó.”
“You’re still scared,” murmured Dill patiently.“Mày vẫn còn sợ,” Dill kiên nhẫn lầm bầm.
Jem wanted Dill to know once and for all that he wasn’t scared of anything: “It’s just that I can’t think of a way to make him come out without him gettin’ us.” Besides, Jem had his little sister to think of.Jem muốn Dill biết rõ ràng rằng anh ấy chẳng sợ bất cứ thứ gì. “Chỉ có điều tao không nghĩ ra cách dụ hắn ra khỏi nhà hắn mà không bắt được mình thôi.” Ngoài ra Jem còn nghĩ đến cô em nhỏ của mình nữa.
When he said that, I knew he was afraid.Khi anh ấy nói vậy, tôi biết ngay anh ấy sợ.
Jem had his little sister to think of the time I dared him to jump off the top of the house: “If I got killed, what’d become of you?” he asked.Jem cũng phải nghĩ tới em gái khi tôi thách anh ấy nhảy từ nóc nhà xuống. “Nếu tao chết thì mày sống ra sao?” Anh hỏi.
Then he jumped, landed unhurt, and his sense of responsibility left him until confronted by the Radley Place.Rồi anh nhảy, rơi xuống đất an toàn, và ý thức trách nhiệm đã biến khỏi anh ấy cho đến khi anh đối mặt với nhà Radley.
“You gonna run out on a dare?” asked Dill.“Mày né vụ thách thức này sao?” Dill hỏi.
“If you are, then—”“Nếu vậy mày….”
“Dill, you have to think about these things,” Jem said.“Dill, mày phải nghĩ về mấy chuyện này,” Jem nói.
“Lemme think a minute . it’s sort of like making a turtle come out“Để tao suy nghĩ một chút… nó giống như việc làm cho một con rùa bò ra…”
“How’s that?” asked Dill.“Làm cách nào?” Dill hỏi.
“Strike a match under him.”“Đốt cây diêm hơ dưới bụng nó.”
I told Jem if he set fire to the Radley house I was going to tell Atticus on him.Tôi bảo Jem nếu anh đốt nhà Radley tôi sẽ mách bố Atticus.
Dill said striking a match under a turtle was hateful.Dill nói đốt diêm hơ dưới bụng rùa là độc ác.
“Ain’t hateful, just persuades him—’s not like you’d chunk him in the fire,” Jem growled.“Không độc ác, chỉ là thuyết phục nó-không giống như việc mày đốt lửa thui nó đâu,” Jem làu bàu.
“How do you know a match don’t hurt him?”“Sao mày biết đốt diêm không làm nó đau?”
“Turtles can’t feel, stupid,” said Jem.“Bọn rùa không có cảm giác, đồ ngốc” Jem nói.
“Were you ever a turtle, huh?”“Bộ mày từng là rùa hả?”
“My stars, Dill! Now lemme think . reckon we can rock him.“Trời đất, Dill để tao nghĩ coi.. tụi mình có thể làm hắn hoảng….”
Jem stood in thought so long that Dill made a mild concession: “I won’t say you ran out on a dare an’ I’ll swap you The Gray Ghost if you just go up and touch the house.”Jem đứng suy nghĩ quá lâu đến độ Dill nhượng bộ một chút, “Tao sẽ không nói là mày chạy vụ này và tao sẽ đổi cho mày cuốn The Gray Ghost chỉ cần mày dám đến đó rờ vào ngôi nhà.”
Jem brightened.Jem sáng rỡ.
“Touch the house, that’s all?”“Rờ vào ngôi nhà, vậy thôi hả?”
Dill nodded.Dill gật đầu.
“Sure that’s all, now?“Chắc chắn chỉ vậy thôi hả?
I don’t want you hollerin’ something different the minute I get back.”Tao không muốn mày đòi thêm chuyện gì khác khi tao quay lại.”
“Yeah, that’s all,” said Dill.“Ừ, chỉ nhiêu đó thôi,” Dill nói.
“He’ll probably come out after you when he sees you in the yard, then Scout’n’me’ll jump on him and hold him down till we can tell him we ain’t gonna hurt him.”“Chắc chắn hắn sẽ chạy ra đuổi khi thấy mày trong sân, lúc đó tao với Scout sẽ nhào vô, đè hắn xuống cho tới khi mình nói được với hắn là mình không tính hại gì hắn.”
We left the corner, crossed the side street that ran in front of the Radley house, and stopped at the gate.Chúng tôi rời góc phố, băng qua con đường nhỏ trước nhà Radley, và dừng ngay cổng.
“Well go on,” said Dill, “Scout and me’s right behind you.”“Tới luôn đi,” Dill nói, “Scout với tao ở ngay sau lưng mày.”
“I’m going,” said Jem, “don’t hurry me.”“Tao đi nè,” Jem nói, “đừng có thúc.”
He walked to the corner of the lot, then back again, studying the simple terrain as if deciding how best to effect an entry, frowning and scratching his head.Anh đi đến góc sân, rồi lùi lại nghiên cứu địa thế như thể quyết định tìm cách tốt nhất để vào trong, nhíu mày và gãi đầu.
Then I sneered at him.Rồi tôi chế nhạo anh ấy.
Jem threw open the gate and sped to the side of the house, slapped it with his palm and ran back past us, not waiting to see if his foray was successful.Jem đẩy tung cách cổng và đi nhanh đến hông nhà, vỗ vào nó và chạy trở ra vượt qua chỗ chúng tôi, không chờ xác nhận xem cuộc xâm nhập của anh có thành công hay không.
Dill and I followed on his heels.Dill và tôi chạy theo sát gót anh.
Safely on our porch, panting and out of breath, we looked back.An toàn ở hàng hiên nhà mình, thở hổn hển, rầu rĩ và buồn bã.
The old house was the same, droopy and sick, but as we stared down the street we thought we saw an inside shutter move.Ngôi nhà cũ kỹ vẫn như thế, rầu rĩ và buồn bã, nhưng khi nhìn dọc theo con đường, chúng tôi tưởng như mình thấy một tấm rèm cửa bên trong nhúc nhích.
Flick.Khẽ rung nhẹ.
A tiny, almost invisible movement, and the house was still.Một chuyển động rất nhẹ, hầu như không thể thấy, và ngôi nhà vẫn lặng ngắt.
[1] Andrew Jackson (sau này thành tổng thống thứ bảy của Mỹ), trong Cuộc chiến Creek (1813-14) đã xua người da đỏ Creek ra khỏi Alabama, Georgia và Mississippi để bảo vệ các khu định cư của dân da trắng.

[2] Trận Hasting (1066): trận đánh quyết định trong cuộc chinh phục Anh của người Norman (Pháp).

[3] John Weslay (1703-1791): mục sư, nhà thần học Anh, một trong những thủ lĩnh đầu tiên của giáo phái Giám lý (Methodist) của đạo Tin lành. Giáo phái này xuất phát từ Anh, lan qua Mỹ, thu hút giới lao động và nô lệ.

[4] Tội giết người không dự mưu trước nhưng không kèm tình huống gia trọng, theo luật Mỹ, nhưng định nghĩa này thay đổi ít nhiều tùy từng tiểu bang.

[5] Tên gọi thân mật của John

[6] Ám chỉ khủng hoảng kinh tế 1929-1933.

[7] Chẳng có gì để sợ ngoài chính nỗi sợ hãi: câu nổi tiếng trong diễn văn nhậm chức của Franklin Roosevelt, tổng thống thứ 32 của Mỹ (đắc cử năm 1932), người có công lớn trong việc đưa nước Mỹ vượt qua Khủng hoảng kinh tế. Ông đắc cử bốn kỳ bầu cử liên tiếp: 1932,1936,1940 và 1944.

[8] Merlin: nhà tiên tri, phù thủy và cố vấn của vua Arthur trong truyền thuyết Anh, ở đây hàm ý Dill là kẻ tài giỏi, tháo vát trong mọi chuyện.

[9] Nghĩa là Con ma xám