Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.
Chapter Twelve. WEST WIND | 12 - Gió tây |
---|---|
IT WAS THE first day of Spring. | Hôm nay là ngày đầu của mùa xuân. |
Jane and Michael knew this at once, because they heard Mr Banks singing in his bath, and there was only one day in the year when he did that. | Jane và Michael biết ngay, vì chúng nghe tiếng ông Banks hát trong buồng tắm, mà cả năm chỉ có duy nhất một ngày ông làm như thế. |
They always remembered that particular morning. For one thing, it was the first time they were allowed to come downstairs for breakfast, and for another Mr Banks lost his black bag. So that the day began with two extraordinary happenings. | Chúng luôn nhớ cái buổi sáng đặc biệt ấy, vì một điều, đó là lần đầu tiên chúng được phép xuống nhà ăn sáng, và thêm nữa là ông Banks làm mất cái túi màu đen. Vậy nên ngày hôm đó đã bắt đầu bằng hai sự kiện lạ thường. |
“Where is my BAG?” shouted Mr Banks, turning round and round in the hall like a dog chasing its tail. | “ TÚI của tôi đâu rồi?” ông Banks hét lên, đi vòng vòng trong sảnh cứ như một chú chó đang đuổi theo cái đuôi của mình. |
And everybody else began running round and round too – Ellen and Mrs Brill and the children. Even Robertson Ay made a special effort and turned round twice. At last Mr Banks discovered the bag himself in his study, and he rushed into the hall with it, holding it aloft. | Và mọi người khác cũng bắt đầu đi loanh quanh theo - cô Ellen, bà Brill và đám trẻ. Đến cả anh Robertson Ay cũng có một nỗ lực đặc biệt, anh quay đến hai lần. Cuối cùng thì ông Banks cũng phát hiện ra cái túi ở trong phòng làm việc của mình, ông cắp ngay lấy nó và nhao ra sảnh. |
“Now,” he said, as though he were delivering a sermon, “my bag is always kept in one place. Here. On the umbrella stand. Who put it in the study?” he roared. | “Nào,” ông nói, cứ như đang chuẩn bị thuyết cho một bài, “túi của tôi luôn được để ở một nơi duy nhất. Ở đây. Chỗ để ô. Ai đã đem túi của tôi vào phòng làm việc hả?” ông gầm lên. |
“You did, my dear, when you took the Income Tax papers out of it last night,” said Mrs Banks. | “Chính mình mà, mình ơi, mình đem vào để lấy những tờ thuế thu nhập ra hồi tối hôm qua còn gì,” bà Banks nói. |
Mr Banks gave her such a hurt look that she wished she had been less tactless and had said she had put it there herself. | Ông Bank nhìn bà bằng cái nhìn đau đớn đến nỗi bà ước gì mình đã khéo xử hơn mà nói rằng chính bà đã để nó vào đó. |
“Humph – Urrumph!” he said, blowing his nose very hard and taking his overcoat from its peg. He walked with it to the front door. | “Hừm, ừm!” ông nói, thở ra phì phì và lấy áo khoác từ trên móc xuống. Ông bước ra cửa trước. |
“Hullo,” he said more cheerfully, “the Parrot tulips are in bud!” He went into the garden and sniffed the air. “H’m wind’s in the West, I think.” He looked down towards Admiral Boom’s house where the telescope weathercock swung. “I thought so,” he said. “Westerly weather. Bright and balmy. I won’t take an overcoat.” | “Ôi chao,” ông nói, giọng đã vui vẻ hơn, “tuy-líp đã ra nụ rồi đây này!” ông bước ra vườn và hít hít không khí. “Hừm, gió đang thổi hướng Tây, tôi nghĩ thế.” Rồi ông nhìn về phía nhà của Đô đốc Boom, nơi có chiếc chong chóng viễn vọng đang quay. “Tôi cũng nghĩ thế. Thời tiết hướng tây mà. Sáng sủa và êm dịu. Thế tôi không đem áo khoác nữa.” |
And with that he picked up his bag and his bowler hat and hurried away to the City. | Và thế là ông nhặt lấy túi và chiếc mũ quả dưa rồi vội vã đi về Thành phố. |
“Did you hear what he said?” Michael grabbed Jane’s arm. | “Chị có nghe bố nói gì không?” Michael túm vội lấy tay Jane. |
She nodded. “The wind’s in the West,” she said slowly. | Cô bé gật đầu. “Gió đang thổi hướng Tây,” cô bé chậm rãi nói. |
Neither of them said any more, but there was a thought in each of their minds that they wished was not there. | Chẳng đứa nào nói thêm gì nữa, nhưng đều có trong đầu một suy nghĩ mà cả hai đều chẳng mong muốn gì. |
They forgot it soon, however, for everything seemed to be as it always was, and the Spring sunlight lit up the house so beautifully that nobody remembered it needed a coat of paint and new wallpapers. On the contrary, they all found themselves thinking that it was the best house in Cherry Tree Lane. | Tuy nhiên chúng cũng chóng quên đi, vì mọi thứ dường như vẫn như vậy, và ánh nắng mùa xuân chiếu sáng ngôi nhà đẹp đẽ đến nỗi chẳng ai nhớ rằng nó cần một lớp sơn mới hay giấy dán tường mới. Ngược lại, tất cả đều đang nghĩ ấy chính là ngôi nhà đẹp nhất hẻm Cây Anh Đào này. |
But trouble began after luncheon. | Nhưng rắc rối đã quay trở lại ngay sau bữa ăn trưa. |
Jane had gone down to dig in the garden with Robertson Ay. She had just sown a row of radish seed when she heard a great commotion in the Nursery and the sound of hurrying footsteps on the stairs. Presently Michael appeared, very red in the face and panting loudly. | Jane đã ra đào đất ngoài vườn cùng với Robertson Ay. Cô bé vừa gieo được một hàng hạt giống củ cải thì nghe thấy một tiếng rúng động trong phòng trẻ, và tiếng bước chân vội vã chạy xuống cầu thang. Chẳng mấy lát sau Michael đã xuất hiện, mặt đỏ gay gắt và thở hổn hển. |
“Look, Jane, look!” he cried, and held out his hand. Within it lay Mary Poppins’ compass, with the disc frantically swinging round the arrow as it trembled in Michael’s shaking hand. | “Nhìn này, Jane, nhìn này!” nó gào lên và chìa tay ra. Trong tay nó là chiếc la bàn của Mary Poppins, cái đĩa đang quay loạn hết cả lên trong bàn tay run rẩy của Michael. |
“The compass?” said Jane, and looked at him questioningly. | “Chiếc la bàn?” Jane nói và nhìn cậu em thắc mắc. |
Michael suddenly burst into tears. | Michael đột nhiên òa khóc. |
“She gave it to me,” he wept. “She said I could have it all for myself now. Oh, oh, there must be something wrong! What is going to happen? She has never given me anything before.” | “Cô ấy cho em,” nó thút thít. “Cô ấy bảo từ bây giờ cái la bàn này là của em. Ôi, ôi, có chuyện gì không đúng rồi! Sắp có chuyện gì không biết? Cô ấy đã bao giờ cho em thứ gì đâu.” |
“Perhaps she was only being nice,” said Jane to soothe him, but in her heart she felt as disturbed as Michael was. She knew very well that Mary Poppins never wasted time in being nice. | “Hẳn cô ấy chỉ đang tỏ ra dễ thương thôi mà,” Jane an ủi cậu em, nhưng trong tim mình, cô bé cũng cảm thấy lo lắng y như Michael vậy. Cô bé biết rất rõ cô Mary Poppins chẳng đời nào mất thời gian tỏ ra dễ thương đâu. |
And yet, strange to say, during that afternoon Mary Poppins never said a cross word. Indeed, she hardly said a word at all. She seemed to be thinking very deeply, and when they asked questions she answered them in a far-away voice. At last Michael could bear it no longer. | Và, phải công nhận là rất lạ, suốt buổi chiều hôm ấy, cô Mary Poppins chẳng nói lấy một từ cáu kỉnh nào cả. Thật ra, cô hầu như chẳng nói gì hết. Có vẻ như cô đang suy nghĩ rất lung, và khi bọn trẻ có hỏi gì thì cô cũng trả lời bằng giọng rất xa xăm. Cuối cùng Michael không thể chịu thêm được nữa. |
“Oh, do be cross, Mary Poppins! Do be cross again! It is not like you. Oh, I feel so anxious.” And indeed, his heart felt heavy with the thought that something, he did not quite know what, was about to happen at Number Seventeen, Cherry Tree Lane. | “Ôi, cô cứ cáu đi, cô Mary Poppins! Cô cứ cáu lại đi ạ! Thế này chẳng giống cô chút nào. Cháu lo lắm.” Và quả thế, tim nó nặng trịch vì cái ý nghĩ rằng có điều gì đó, nó không chắc là gì, sắp xảy ra ở nhà Số Mười Bảy, hẻm Cây Anh Đào. |
“Trouble trouble and it will trouble you!” retorted Mary Poppins crossly, in her usual voice. | “Rắc rối quá là rắc rối, cứ thế rồi chính cháu cũng sẽ gặp rắc rối đấy nghe chưa!” Mary Poppins cáu kỉnh đáp lại bằng giọng của cô mọi khi. |
And immediately he felt a little better. | Và cậu bé ngay lập tức cảm thấy đỡ hơn. |
“Perhaps it’s only a feeling,” he said to Jane. “Perhaps everything is all right and I’m just imagining – don’t you think so, Jane?” | “Chắc chỉ là cảm giác mà thôi,” cậu bé nói với Jane. “Chắc chẳng có chuyện gì đâu và em chỉ tưởng tượng ra thôi... chị không nghĩ thế sao, Jane?” |
“Probably,” said Jane slowly. But she was thinking hard and her heart felt tight in her body. | “Chắc rồi,” Jane chậm rãi nói. Nhưng thật ra cô bé đang suy nghĩ rất lung còn tim thì đang nghẹt lại. |
The wind grew wilder towards evening, and blew in little gusts about the house. It went pulling and whistling down the chimneys, slipping through the cracks under the windows, turning the Nursery carpet up at the corners. | Tối hôm đó, gió mỗi lúc một dữ dội hơn, thổi từng cơn quanh ngôi nhà. Gió thổi phù phù rú rít xuống những ống khói, luồn qua những khe hở trên cửa sổ, thổi cho tấm thảm trong phòng trẻ quăn cả góc lên. |
Mary Poppins gave them their supper and cleared away the things, stacking them neatly and methodically. Then she tidied up the Nursery and put the kettle on the hob. | Mary Poppins cho bọn trẻ ăn tối rồi lau dọn mọi thứ, sắp xếp lại gọn gàng và cẩn thận. Rồi cô dọn phòng trẻ thật sạch sẽ và đặt ấm lên ngăn bên lò sưởi. |
“There!” she said, glancing round the room to see that everything was all right. She was silent for a minute. Then she put one hand lightly on Michael’s head and the other on Jane’s shoulder. | “Đó!” cô nói, liếc nhìn quanh căn phòng để kiểm tra xem mọi thứ đã xong xuôi hay chưa. Cô im lặng một phút, rồi đặt nhẹ tay lên đầu Michael, tay còn lại đặt trên vai Jane. |
“Now,” she said, “I am just going to take the shoes down for Robertson Ay to clean. Behave yourselves, please, till I come back.” She went out and shut the door quietly behind her. | “Nào,” cô nói, “cô phải đem giày xuống nhà để anh Robertson Ay đánh cho sạch. Các cháu vui lòng cư xử cho phải phép cho đến khi cô quay lại nhé.” Rồi cô đi ra và khép nhẹ cánh cửa lại sau lưng. |
Suddenly, as she went, they both felt they must run after her, but something seemed to stop them. They remained quiet, with their elbows on the table waiting for her to come back. Each was trying to reassure the other without saying anything. | Đột nhiên, khi Mary Poppins đi ra, mấy chị em đều cảm thấy phải đuổi theo cô, nhưng dường như có thứ gì đó đã giữ chúng lại. Chúng cứ ở yên như thế, khuỷu tay chống lên bàn, chờ cô quay lại. Đứa nọ dù không nói ra nhưng cũng cố trấn an đứa kia. |
“How silly we are,” said Jane presently. “Everything’s all right.” But she knew she said it more to comfort Michael than because she thought it was true. | “Bọn mình mới ngốc làm sao chứ,” cuối cùng Jane nói. “Làm gì có chuyện gì đâu.” Nhưng cô bé biết nói như vậy chẳng qua là để vỗ về Michael, hơn là vì nó thật sự nghĩ thế. |
The Nursery clock ticked loudly from the mantelpiece. The fire flickered and crackled and slowly died down. They still sat there at the table, waiting. | Chiếc đồng hồ trong phòng trẻ kêu tích tắc rất to trên bệ lò sưởi. Ngọn lửa lập lòe, kêu lách tách rồi từ từ lụi đi. Hai đứa trẻ vẫn ngồi chờ bên bàn. |
At last Michael said uneasily: “She’s been gone a very long time, hasn’t she?” | Cuối cùng Michael khó khăn nói: “Cô ấy đi cũng lâu rồi đấy nhỉ, chị nhỉ?” |
The wind whistled and cried about the house as if in reply. The clock went on ticking its solemn double note. | Gió rú rít gầm gào quanh nhà như trả lời. Đồng hồ vẫn tích tắc những nốt đều đều của nó. |
Suddenly the silence was broken by the sound of the front door shutting with a loud bang. | Đột nhiên, sự im lặng bị phá vỡ bởi tiếng cánh cửa trước đóng sầm lại. |
“Michael!” said Jane, starting up. | “Michael!” Jane nói và bật dậy. |
“Jane!” said Michael, with a white, anxious look on his face. | “Jane!” Michael nói, vẻ lo lắng trắng bệch trên khuôn mặt. |
They listened. Then they ran quickly to the window and looked out. | Hai đứa cùng lắng nghe. Rồi chúng cùng lao đến bên cửa sổ, nhìn xuống. |
Down below, just outside the front door, stood Mary Poppins, dressed in her coat and hat, with her carpet bag in one hand and her umbrella in the other. The wind was blowing wildly about her, tugging at her skirt, tilting her hat rakishly to one side. But it seemed to Jane and Michael that she did not mind, for she smiled as though she and the wind understood each other. | Bên dưới đó, ngay ngoài cửa trước, là cô Mary Poppins, mặc áo khoác và mũ, chiếc túi thảm ở một bên tay và chiếc ô bên còn lại. Cơn gió đang thổi cuộn quanh cô, giật mạnh váy áo cô, lật mũ của cô xiêu vẹo sang một bên. Nhưng Jane và Michael thấy có vẻ như cô chẳng để tâm, vì cô chỉ cười như thể cô và cơn gió đã quá hiểu nhau rồi. |
She paused for a moment on the step and glanced back towards the front door. Then with a quick movement she opened the umbrella, though it was not raining, and thrust it over her head. | Cô ngừng lại một chốc trên bậc cửa và ngoái nhìn lại cửa trước. Rồi với một động tác thật nhanh gọn, cô bật ô, dù trời chẳng mưa chút nào, và giơ nó lên cao quá đầu. |
The wind, with a wild cry, slipped under the umbrella, pressing it upwards as though trying to force it out of Mary Poppins’ hand. But she held on tightly, and that, apparently was what the wind wanted her to do, for presently it lifted the umbrella higher into the air and Mary Poppins from the ground. It carried her lightly so that her toes just grazed along the garden path. Then it lifted her over the front gate and swept her upwards towards the branches of the cherry trees in the Lane. | Cơn gió, với một tiếng gào dữ dội, luồn xuống dưới chiếc ô và giật lên, như thể đang cố giành lấy nó từ tay cô Mary Poppins. Nhưng cô vẫn giữ thật chặt, và rõ ràng cơn gió cũng muốn cô làm thế, nó nâng cả chiếc ô lẫn cô Mary Poppins lên không trung. Nó nâng cô lên nhẹ nhàng đến nỗi như thể những ngón chân cô chỉ sượt qua lối đi trong vườn. Rồi nó nâng cô lên quá cổng trước, cuốn cô lên tới những cái cành của hàng cây anh đào trong hẻm. |
“She’s going, Jane, she’s going!” cried Michael, weeping. | “Cô ấy đi kìa, chị Jane, cô ấy đang đi kìa!” Michael khóc ầm ĩ. |
“Quick!” cried Jane. “Let us get the Twins. They must see the last of her.” She had no doubt now, nor had Michael, that Mary Poppins had gone for good because the wind had changed. | “Nhanh lên!” Jane nói. “Bế hai bé sinh đôi ra. Chúng phải được thấy cô Mary Poppins lần cuối.” Cô bé không còn nghi ngờ gì nữa, cả Michael cũng không nghi ngờ gì nữa, rằng cô Mary Poppins sẽ đi mãi mãi bởi gió đã đổi chiều. |
They each seized a Twin and rushed back to the window. | Cả hai bế hai bé sinh đôi lên và lao lại về chỗ cửa sổ. |
Mary Poppins was in the upper air now, floating away over the cherry trees and the roofs of the houses, holding tightly to the umbrella with one hand and to the carpet bag with the other. | Cô Mary Poppins giờ đã ở trên không trung rồi, cô lướt qua ngọn những hàng anh đào, trên những mái nhà, một tay cô vẫn nắm chặt chiếc ô trong khi tay kia giữ chặt chiếc túi thảm. |
The Twins began to cry quietly. | Hai bé sinh đôi bắt đầu ri rí khóc. |
With their free hands Jane and Michael opened the window and made one last effort to stay Mary Poppins’ flight. | Jane và Michael giơ tay còn lại mở cửa sổ ra và cố gắng lần cuối, ngăn chuyến bay của cô Mary Poppins lại. |
“Mary Poppins!” they cried. “Mary Poppins, come back!” | “Cô Mary Poppins!” chúng hét lên. “Cô Mary Poppins, cô quay lại đi!” |
But she either did not hear or deliberately took no notice. For she went sailing on and on, up into the cloudy, whistling air, till at last she was wafted away over the hill and the children could see nothing but the trees bending and moaning under the wild west wind. . . | Nhưng hoặc cô không nghe thấy hoặc cố tình không chú ý. Vì cô cứ bay đi và bay đi, trên cao những đám mây, trên những cuộn không khí rít lên, cho đến khi cuối cùng cô cũng phấp phới qua ngọn đồi, và đám trẻ chẳng còn thấy gì nữa ngoài những hàng cây oằn xuống, khóc than dưới ngọn gió tây... |
“She did what she said she would, anyway. She stayed till the wind changed,” said Jane, sighing and turning sadly from the window. She took John to his cot and put him into it. Michael said nothing, but as he brought Barbara back and tucked her into bed he was sniffing uncomfortably. | “Thì cô đã làm cái điều mà cô nói cô sẽ làm còn gì. Cô ở lại cho đến khi gió đổi chiều,” Jane nói, thở dài và buồn bã quay khỏi cửa sổ. Nó bế bé John về cũi và đặt bé xuống. Michael không nói gì, nhưng khi bế bé Barbara lại cũi và đặt bé xuống, nó cũng khụt khịt. |
“I wonder,” said Jane, “if we’ll ever see her again?” | “Chị tự hỏi,” Jane nói, “không biết mình có còn gặp lại cô không nhỉ?” |
Suddenly they heard voices on the stairs. | Đột nhiên chúng nghe thấy những tiếng ồn ào ở phía cầu thang. |
“Children, children!” Mrs Banks was calling as she opened the door. “Children – I am very cross. Mary Poppins has left us—” | “Các con, các con!” bà Banks vừa gọi vừa mở cửa ra. “Các con... mẹ tức quá đi mất. Mary Poppins đã bỏ...” |
“Yes,” said Jane and Michael. | “Vâng ạ,” Jane và Michael nói. |
“You knew, then?” said Mrs Banks, rather surprised. “Did she tell you she was going?” | “Các con biết rồi hả?” bà Banks nói, ngạc nhiên. “Cô ta đã nói là sẽ đi sao?” |
They shook their heads, and Mrs Banks went on: | Chúng lắc đầu, và bà Banks tiếp tục: |
“It’s outrageous. One minute here and gone the next. Not even an apology. Simply said, ‘I’m going!’ and off she went. Anything more preposterous, more thoughtless, more discourteous—What is it, Michael?” She broke off crossly, for Michael had grasped her skirt in his hands and was shaking her.“What is it, child?” | “Thật là quá thể. Một phút còn ở đây mà phút sau đã đi rồi. Thậm chí còn không xin lỗi lấy một câu. Chỉ nói ‘Tôi đi đây!’ thế là đi luôn đấy. Còn gì vô lý hơn, ích kỷ hơn, khiếm nhã hơn... Gì thế, Michael?” Bà cáu kỉnh ngưng lại, vì Michael đã túm lấy bà mà giật. “Có chuyện gì, con trai?” |
“Did she say she’d come back?” he cried, nearly knocking his Mother over. “Tell me – did she?” | “Cô ấy có bảo sẽ quay lại không ạ?” nó khóc và lắc mẹ liên tục. “Mẹ nói cho con biết đi, cô ấy có bảo không?” |
“You will not behave like a Red Indian, Michael,” she said, loosening his hold. “I don’t remember what she said, except that she was going. But I certainly shan’t have her back if she does want to come. Leaving me high and dry with nobody to help me and without a word of notice.” | “Con sẽ không cư xử như một cậu bé da đỏ được đâu, Michael ạ,” bà nói và gỡ tay cậu bé ra. “Mẹ không nhớ cô ta nói cái gì , trừ là cô ta sẽ đi. Nhưng mẹ chắc chắn sẽ không bao giờ thuê lại, dù cô ta có muốn đi chăng nữa. Bỏ mặc mẹ không ai giúp đỡ mà chẳng thèm nói lấy một lời thông báo nào.” |
“Oh, Mother!” said Jane reproachfully. | “Ôi, mẹ này!” Jane kêu lên trách móc. |
“You are a very cruel woman,” said Michael, clenching his fist as though at any minute he would have to strike her. | “Mẹ thật là độc ác,” Michael vừa nói vừa nắm tay lại, cứ như thể sẽ lại nhào tới mà lắc bà tiếp vậy. |
“Children! I’m ashamed of you – really I am! To want back anybody who has treated your Mother so badly. I’m utterly shocked.” | “Này các con! Mẹ xấu hổ về các con quá đấy, thật đấy! Muốn một người đã đối xử với mẹ của các con tệ như vậy. Mẹ thật choáng váng.” |
Jane burst into tears. | Jane òa khóc. |
“Mary Poppins is the only person I want in the world!” Michael wailed, and flung himself on to the floor. | “Cô Mary Poppins là người duy nhất mà con muốn trên thế giới này!” Michael hét ầm lên và nằm lăn ra sàn nhà. |
“Really, children, really! I don’t understand you. Do be good, I beg of you. There’s nobody to look after you tonight. I have to go out to dinner and it’s Ellen’s Day Off. I shall have to send Mrs Brill up.” And she kissed them absentmindedly, and went away with an anxious little line on her forehead. . . | “Thật tình, hai đứa này, thật tình! Mẹ không hiểu nổi các con nữa. Ngoan đi nào, mẹ xin các con đấy. Tối nay chẳng có ai trông các con. Mẹ phải ra ngoài ăn tối, lại là ngày nghỉ của Ellen nữa chứ. Chắc phải gọi bà Brill lên vậy.” Rồi bà lơ đãng hôn chúng, và bỏ đi với một nếp lo lắng nho nhỏ trên trán... |
“Well, if I ever did! Her going away and leaving you pore dear children in the lurch like that,” said Mrs Brill, a moment later, bustling in and setting to work on them. | “Chà, thế đấy! Bỏ đi và bỏ mấy đứa trẻ tội nghiệp bơ vơ thế này,” bà Brill nói và lăng xăng chạy vào sau đó một lát. |
“A heart of stone, that’s what that girl had and no mistake, or my name’s not Clara Brill. Always keeping herself to herself, too, and not even a lace handkerchief or a hatpin to remember her by. Get up, will you please, Master Michael!” Mrs Brill went on, panting heavily. | “Một trái tim bằng đá, đó là thứ mà cô gái đó có, nếu không thì tên ta không phải là Clara Brill nữa. Mà đi thì cũng đem hết mọi thứ theo cơ, thậm chí chẳng để lại một cái khăn tay viền đăng ten hay một cái ghim cài mũ cho người ta nhớ nữa. Thôi dậy đi nào, cậu Michael, làm ơn ngồi dậy đi!” bà Brill hổn hển nói. |
“How we stood her so long, I don’t know – with her airs and graces and all. What a lot of buttons, Miss Jane! Stand still do now, and let me undress you, Master Michael. Plain she was, too, nothing much to look at. Indeed, all things considered, I don’t know that we won’t be better off, after all. Now, Miss Jane, where’s your nightgown – why, what’s this under your pillow—?” | “Sao chúng ta lại có thể chịu đựng cô ta lâu thế được cơ chứ, ta không hiểu nổi - với cái vẻ nho nhã đó. Trời ạ, sao mà nhiều nút thế này, cô Jane! Còn cậu, cậu Michael, đứng lên để tôi cởi áo giúp cậu đây. Lại còn thô nữa chứ, chẳng có gì cho người ta ngắm cả. Mà quả thật, sau khi cân nhắc kỹ, tôi không biết tại sao chúng ta lại không... Nào cô Jane, áo ngủ của cô đâu rồi... sao cơ, cái gì dưới gối cô thế này?” |
Mrs Brill had drawn out a small nobbly parcel. | Bà Brill lôi ra một cái gói nho nhỏ. |
“What is it? Give it to me – give it,” said Jane, trembling with excitement, and she took it from Mrs Brill’s hands very quickly. Michael came and stood near her and watched her undo the string and tear away the brown paper. Mrs Brill, without waiting to see what emerged from the package, went in to the Twins. | “Cái gì đấy? Đưa cho cháu đi, đưa cho cháu,” Jane nói, người run lên vì phấn khích, và vội vàng cầm lấy cái gói từ tay bà Brill rất nhanh. Michael đến đứng cạnh, xem chị mình tháo giây và xé lớp giấy nâu bọc ngoài. Còn bà Brill, không chờ xem thứ gì bên trong cái gói ấy, đi sang chỗ hai bé sinh đôi. |
The last wrapping fell to the floor and the thing that was in the parcel lay in Jane’s hand. | Lớp giấy gói cuối cùng rơi xuống sàn và thứ bên trong đó đã nằm trong tay Jane. |
“It’s her picture,” she said in a whisper, looking closely at it. | “Là ảnh của cô,” cô bé thì thầm, và nhìn nó kỹ hơn. |
And it was! | Đúng là vậy! |
Inside a little curly frame was a painting of Mary Poppins, and underneath it was written, “Mary Poppins by Bert”. | Bên trong một cái khung uốn lượn be bé là một bức vẽ cô Mary Poppins, bên dưới đó đề chữ, “Mary Poppins, Bert vẽ.” |
“That’s the Match Man – he did it,” said Michael, and took it in his hand so that he could have a better look. | “Đó là chú Thợ Diêm... chú ấy đã vẽ bức tranh này,” Michael nói và đón lấy nó từ tay Jane để có thể nhìn cho kỹ hơn. |
Jane found suddenly that there was a letter attached to the painting. She unfolded it carefully. It ran: | Jane đột nhiên nhận ra có một lá thư đính kèm theo đó. Cô bé cẩn thận mở thư ra. Trong đó viết thế này: |
DEAR JANE, | Jane yâu quý, |
Michael had the compass so the picture is for you. Au revoir. | Michael đã có chiếc la bàn nên bức tranh này là của cháu. Au revoir. |
MARY POPPINS | MARY POPPINS |
She read it out loud till she came to the words she couldn’t understand. | Cô bé đọc to lên cho đến chữ mà cô bé chẳng hiểu gì. |
“Mrs Brill!” she called. “What does ‘au revoir’ mean?” | “Bà Brill ơi!” cô bé gọi. “‘Au revoir’ nghĩa là gì thế ạ?” |
“Au revore, dearie?” shrieked Mrs Brill from the next room. “Why, doesn’t it mean – let me see, I’m not up in these foreign tongues – doesn’t it mean ‘God bless you’? No. No, I’m wrong. I think, Miss Jane dear, it means ‘To Meet Again’.” | “Au revoir hả cháu yêu?” bà Brill kêu lên từ phòng bên cạnh. “Sao, chẳng phải nó có nghĩa... để ta xem nào, ta không khá mấy cái ngoại ngữ này cho lắm... chẳng phải nó có nghĩa là ‘Chúa phù hộ bạn’ sao? Không. Không phải, nhầm rồi. Ta nghĩ, Jane yêu quý ạ, nó nghĩa là ‘Hẹn gặp lại.’” |
Jane and Michael looked at each other. Joy and understanding shone in their eyes. They knew what Mary Poppins meant. | Jane và Michael nhìn nhau. Niềm vui và sự thấu hiểu sáng lên trong mắt hai đứa trẻ. Chúng biết cô Mary Poppins nói gì. |
Michael gave a long sigh of relief. “That’s all right,” he said shakily. “She always does what she says she will.” He turned away. | Michael thở phào một cái nhẹ nhõm. “Thế là được rồi,” nó nói run rẩy. “Cô ấy luôn làm những điều cô ấy bảo sẽ làm mà.” Rồi nó quay đi. |
“Michael, are you crying?” Jane asked. | “Michael, em khóc đấy à?” Jane hỏi. |
He twisted his head and tried to smile at her. | Cậu bé lắc đầu quầy quậy và cố mỉm cười. |
“No, I am not,” he said. “It is only my eyes.” | “Đâu, đâu mà,” nó nói. “Tại mắt em làm sao ấy.” |
She pushed him gently towards his bed, and as he got in she slipped the portrait of Mary Poppins into his hand – hurriedly, in case she should regret it. | Cô bé dịu dàng đẩy cậu em về giường, rồi rất nhanh, đặt bức tranh cô Mary Poppins vào tay thằng em, đề phòng chính mình lại đổi ý. |
“You have it for tonight, darling,” whispered Jane, and she tucked him in just as Mary Poppins used to do. . . | “Cho em giữ nó tối nay đấy, em trai yêu quý,” Jane thì thầm, và tém chăn cho em như cô Mary Poppins vẫn làm... |
Mọi người hãy liên hệ ở đây để khôi phục audio không thể phát.