4. BIỆT THỰ BA CHÓP MÁI

The Adventure of the Three GablesBIỆT THỰ BA CHÓP MÁI
I don't think that any of my adventures with Mr. Sherlock Holmes opened quite so abruptly, or so dramatically, as that which I associate with The Three Gables.Không có cuộc phiêu lưu nào của tôi với Sherlock Holmes lại mở đầu đã đột ngột, hay kịch tính, như vụ liên quan đến biệt thự Ba Chóp Mái.
I had not seen Holmes for some days and had no idea of the new channel into which his activities had been directed.Bấy giờ tôi không gặp Holmes suốt mấy ngày và không hay biết gì về hướng hoạt động mới anh đang theo đuổi.
He was in a chatty mood that morning, however, and had just settled me into the well-worn low armchair on one side of the fire, while he had curled down with his pipe in his mouth upon the opposite chair, when our visitor arrived.Tuy nhiên, sáng hôm ấy anh có hứng tán gẫu và tôi vừa mới yên vị trên chiếc ghế bành thấp sờn rách bên lò sưởi còn anh ngồi thu lu ở ghế đối diện, miệng ngậm tẩu thuốc thì có khách đến.
If I had said that a mad bull had arrived it would give a clearer impression of what occurred.Phải nói rằng có một con bò điên xông tới thì độc giả mới hình dung được tình huống ấy.
The door had flown open and a huge negro had burst into the room.Cửa vừa bật mở là một gã da đen to lớn xông vào phòng.
He would have been a comic figure if he had not been terrific, for he was dressed in a very loud gray check suit with a flowing salmon-coloured tie.Nếu không có vẻ gớm ghê thì hắn đã là một nhân vật khôi hài, bởi hắn mặc một bộ vét carô màu xám rất buồn cười, thắt cà vạt hồng để lòng thòng.
His broad face and flattened nose were thrust forward, as his sullen dark eyes, with a smouldering gleam of malice in them, turned from one of us to the other.Bản mặt to bè và cái mũi tẹt của hắn lao tới cùng với cặp mắt đen u tối, âm ỉ tia nhìn ác độc, hết dõi về tôi lại hướng sang bạn tôi.
“Which of you gen'l'men is Masser Holmes?” he asked.“Trong hai ông ai là ông Holmes?” Hắn hỏi.
Holmes raised his pipe with a languid smile.Holmes giơ tẩu thuốc lên với một nụ cười uể oải.
“Oh! it's you, is it?” said our visitor, coming with an unpleasant, stealthy step round the angle of the table.“Ồ! Chính là ông đấy à?” Vị khách vừa nói vừa đi vòng qua góc bàn, lối bước chân thậm thụt, đáng ghét.
“See here, Masser Holmes, you keep your hands out of other folks' business.“Nghe đây, ông Holmes, đừng có chõ mũi vào chuyện của người khác.
Leave folks to manage their own affairs.Để yên cho người ta lo chuyện riêng của họ.
Got that, Masser Holmes?”Hiểu chưa, ông Holmes?”
“Keep on talking,” said Holmes.“Cứ nói tiếp,” Holmes nói.
“It's fine.”“Hay đấy.”
“Oh! it's fine, is it?” growled the savage.“A! Thế mà hay à?” Gã mọi gầm gừ.
“It won't be so damn fine if I have to trim you up a bit.“Sẽ chẳng hay ho đếch gì đâu nếu như tôi phải nắn gân ông một chút.
I've handled your kind before now, and they didn't look fine when I was through with them.Dạng như ông tôi đã từng xử rồi và khi xong việc thì trông họ chẳng hay ho gì đâu.
Look at that, Masser Holmes!”Nhìn đây này, ông Holmes!”
He swung a huge knotted lump of a fist under my friend's nose.Hắn dư dứ nắm tay to tướng đầy u cục ngay trước mũi bạn tôi.
Holmes examined it closely with an air of great interest.Holmes xem xét kĩ nắm đấm với vẻ quan tâm hết mực.
“Were you born so?” he asked.“Tay anh bẩm sinh đã thế rồi à?” Holmes hỏi.
“Or did it come by degrees?”“Hay dần dần thành ra thế?”
It may have been the icy coolness of my friend, or it may have been the slight clatter which I made as I picked up the poker. In any case, our visitor's manner became less flamboyant.Có thể là do giọng nói bình thản lạnh như băng của bạn tôi, hoặc là do tiếng lách cách khẽ vang lên khi tôi nhặt thanh sắt cời lửa lên, mà thái độ của vị khách này cũng bớt phô trương đi.
“Well, I've given you fair warnin',” said he.Hắn nói, “Hừm, tôi cảnh cáo ông đấy nhé.
“I've a friend that's interested out Harrow way – you know what I'm meaning -and he don't intend to have no buttin' in by you.Tôi có một người bạn dính dáng tới chuyện ở dưới Harrow, ông biết tôi muốn nói gì rồi đấy, và anh ta không thích ông can thiệp.
Got that?Hiểu chưa?
You ain't the law, and I ain't the law either, and if you come in I'll be on hand also.Ông không phải pháp luật, tôi cũng chẳng phải, nhưng nếu ông cứ xen vào thì tôi cũng sẵn sàng.
Don't you forget it.”Đừng quên đó.”
“I've wanted to meet you for some time,” said Holmes.“Tôi đã muốn gặp anh lâu rồi,” Holmes nói.
“I won't ask you to sit down, for I don't like the smell of you, but aren't you Steve Dixie, the bruiser?”“Tôi không mời anh ngồi vì tôi không thích cái mùi của anh, nhưng anh là Steve Dixie, võ sĩ, phải không?”
“That's my name, Masser Holmes, and you'll get put through it for sure if you give me any lip.”“Đúng đó, ông Holmes, và chắc chắn ông sẽ không yên thân đâu nếu ông tố cáo tôi.”
“It is certainly the last thing you need,” said Holmes, staring at our visitor's hideous mouth.“Chắc chắn anh không muốn thử rồi,” Holmes nói, mắt nhìn chằm chằm vào cái mồm gớm guốc của vị khách.
“But it was the killing of young Perkins outside the Holborn – Bar What! you're not going?”“Đó là vụ giết hại cậu Perkins bên ngoài tửu quán Holborn… Kìa! Đi đâu vậy?”
The negro had sprung back, and his face was leaden.Tên da đen đã lùi phắt ra xa, mặt xám ngoét như chì.
“I won't listen to no such talk,” said he.“Đừng nói những chuyện như thế với tôi,” hắn thốt lên.
“What have I to do with this 'ere Perkins, Masser Holmes?“Tôi có liên quan gì đến tên Perkins này đâu, ông Holmes?
I was trainin' at the Bull Ring in Birmingham when this boy done gone get into trouble.”Khi thằng nhóc đó gặp rắc rối, tôi còn đang tập luyện ở Bull Ring, Birmingham.”
“Yes, you'll tell the magistrate about it, Steve,” said Holmes.“Vâng, anh cứ nói thế với quan tòa đi, Steve,” Holmes nói.
“I've been watching you and Barney Stockdale – ““Lâu nay tôi đã để ý tới anh và Barney Stockdale…”
“So help me the Lord!“Chúa ơi, cứu con!
Masser Holmes – “Ông Holmes…”
“That's enough.“Đủ rồi đó.
Get out of it.Tránh xa chuyện này ra.
I'll pick you up when I want you.”Khi nào cần tôi sẽ tìm anh.”
“Good-mornin', Masser Holmes.“Xin tạm biệt, ông Holmes.
I hope there ain't no hard feelin's about this 'ere visit?”Tôi mong là ông không để bụng cuộc thăm viếng này?”
“There will be unless you tell me who sent you.”“Tôi sẽ để bụng nếu anh không nói ai sai anh tới đây.”
“Why, there ain't no secret about that, Masser Holmes.“Ồ, chẳng có gì bí mật cả, ông Holmes.
It was that same gen'l'man that you have just done gone mention.”Chính là người mà ông vừa nhắc tới đó.”
“And who set him on to it?”“Thế ai sai hắn làm chuyện này?”
“S'elp me.“Chịu chết!
I don't know, Masser Holmes.Tôi không biết, ông Holmes.
He just say, 'Steve, you go see Mr. Holmes, and tell him his life ain't safe if he go down Harrow way.' That's the whole truth.”Ông ta chỉ bảo: ‘Này Steve, mày tới gặp ông Holmes, cứ nói là tính mạng ông ta sẽ lâm nguy nếu ông ta mò xuống Harrow’. Sự thật là vậy đó.”
Without waiting for any further questioning, our visitor bolted out of the room almost as precipitately as he had entered.Không chờ xem người ta có hỏi thêm gì nữa, vị khách của chúng tôi lao ra khỏi phòng, cũng ào ào như lúc tới.
Holmes knocked out the ashes of his pipe with a quiet chuckle.Holmes gõ tẩu trút tàn thuốc ra, lặng lẽ cười thầm.
“I am glad you were not forced to break his woolly head, Watson.“Tôi mừng là anh đã không bắt buộc phải đập vỡ cái đầu đất của hắn, Watson.
I observed your manoeuvres with the poker.Tôi đã quan sát các thao tác của anh với thanh cời lửa.
But he is really rather a harmless fellow, a great muscular, foolish, blustering baby, and easily cowed, as you have seen.Nhưng hắn hầu như vô hại, chỉ là một đứa bé to xác, đần độn, thích dọa nạt ồn ào nhưng lại nhát gan, như anh thấy đó.
He is one of the Spencer John gang and has taken part in some dirty work of late which I may clear up when I have time.Hắn thuộc băng đảng của Spencer John và gần đây có can dự vào mấy việc bẩn thỉu mà khi nào có thời gian tôi sẽ làm sáng tỏ.
His immediate principal, Barney, is a more astute person.Cấp trên trực tiếp của hắn, Barney, lại là kẻ tinh khôn hơn.
They specialize in assaults, intimidation, and the like.Chúng chuyên làm các trò hành hung, hăm dọa, hay đại loại thế.
What I want to know is, who is at the back of them on this panicular occasion?”Điều tôi muốn biết là ai đứng đằng sau chúng trong chuyện này.”
“But why do they want to intimidate you?”“Nhưng tại sao chúng muốn hăm dọa anh chứ?”
“It is this Harrow Weald case.“Đó là vụ ở Harrow Weald.
It decides me to look into the matter, for if it is worth anyone's while to take so much trouble, there must be something in it.”Tôi nhất định phải xem xét kĩ vụ việc, vì nếu ai đó đã thấy vụ này đáng tốn công sức như vậy thì chắc chắn nó phải có gì đặc biệt.”
“But what is it?”“Nhưng vụ đó là thế nào?”
“I was going to tell you when we had this comic interlude.“Tôi đã định nói anh biết thì gặp phải tiết mục hài hước vừa rồi.
Here is Mrs. Maberley's note.Đây là thư của bà Maberley.
If you care to come with me we will wire her and go out at once.”Nếu anh thích đi cùng tôi thì chúng ta sẽ gửi điện báo cho bà ấy biết và lên đường ngay.”
DEAR MR. SHERLOCK HOLMES [I read]:Tôi đọc thư: KÍNH GỬI ÔNG SHERLOCK HOLMES,
I have had a succession of strange incidents occur to me in connection with this house, and I should much value your advice.Tôi vừa gặp một loạt biến cố lạ lùng liên quan đến ngôi nhà này, và tôi hết sức đề cao ý kiến của ông.
You would find me at home any time to-morrow.Ngày mai tôi có mặt ở nhà bất cứ giờ nào ông muốn gặp.
The house is within a short walk of the Weald Station.Nhà tôi chỉ cách nhà ga Weald một quãng đi bộ ngắn.
I believe that my late husband, Mortimer Maberley, was one of your early clients.Tôi tin rằng người chồng quá cố Mortimer Maberley của tôi đã từng là một thân chủ của ông ngày trước.
Yours faithfully,Kính thư
MARY MABERLEY.MARY MABERLEY
The address was “The Three Gables, Harrow Weald.”Địa chỉ nơi gửi là Biệt thự Ba Chóp Mái, Harrow Weald.
“So that's that!” said Holmes.“Thế đấy!” Holmes nói.
“And now, if you can spare the time, Watson, we will get upon our way.”“Còn bây giờ, Watson, nếu anh rảnh rỗi thì ta lên đường.”
A short railway journey, and a shorter drive, brought us to the house, a brick and timber villa, standing in its own acre of undeveloped grassland.Một chuyến đi tàu hỏa ngắn, và một chuyến xe ngắn hơn, đã đưa chúng tôi đến ngôi nhà ấy - một biệt thự ngoại ô xây bằng gạch và gỗ nằm giữa bãi cỏ cằn cỗi rộng cả mẫu Anh.
Three small projections above. the upper windows made a feeble attempt to justify its name.Ba chỗ nhô lên bên trên các cửa sổ tầng trên cùng chừng như muốn minh chứng cho tên gọi của ngôi nhà song chưa đủ thuyết phục.
Behind was a grove of melancholy, half-grown pines, and the whole aspect of the place was poor and depressing.Phía sau là một rừng thông ảo não mới mọc lưng chừng và toàn bộ chốn này toát ra vẻ bần hàn ảm đạm.
None the less, we found the house to be well furnished, and the lady who received us was a most engaging elderly person, who bore every mark of refinement and culture.Tuy vậy, chúng tôi thấy ngôi nhà được trang bị đầy đủ và người phụ nữ đón tiếp chúng tôi là một bà đứng tuổi hết sức duyên dáng, rõ ràng là người tinh tế và có văn hóa.
“I remember your husband well, madam,” said Holmes, “though it is some years since he used my services in some trifling matter.”“Tôi còn nhớ rõ ông nhà, thưa bà,” Holmes nói, “mặc dù từ ngày ông ấy cần tôi giúp một việc vặt đến giờ cũng mấy năm rồi.”
“Probably you would be more familiar with the name of my son Douglas.”“Có lẽ tên con trai tôi là Douglas còn quen thuộc hơn.”
Holmes looked at her with great interest.Holmes nhìn bà ta với vẻ quan tâm hết mực.
“Dear me!“Ôi trời!
Are you the mother of Douglas Maberley?Thế bà là mẹ của Douglas Maberley?
I knew him slightly.Tôi có quen biết sơ cậu ấy.
But of course all London knew him.Nhưng tất nhiên cả London này đều biết Douglas.
What a magnificent creature he was!Cậu ấy đúng là một người tuyệt vời!
Where is he now?”Cậu ấy giờ ở đâu?”
“Dead, Mr. Holmes, dead!“Mất rồi, ông Holmes, mất rồi!
He was attache at Rome, and he died there of pneumonia last month.”Nó làm tùy viên ở Rome và tháng trước đã qua đời ở đó vì bệnh viêm phổi.”
“I am sorry.“Thật đáng tiếc.
One could not connect death with such a man.Ai mà ngờ được cậu ấy lại yểu mệnh thế chứ.
I have never known anyone so vitally alive.Tôi chưa bao giờ gặp ai giàu sinh lực như vậy.
He lived intensely -every fibre of him!”Cậu ấy sống hừng hực… đến từng đường gân thớ thịt!”
“Too intensely, Mr. Holmes.“Hừng hực quá đỗi, ông Holmes.
That was the ruin of him.Chính điều đó đã hủy hoại nó.
You remember him as he was – debonair and splendid.Chắc ông còn nhớ nó ngày trước… vui tính và phóng khoáng.
You did not see the moody, morose, brooding creature into which he developed.Ông không biết nó đã trở thành một người rầu rĩ, ủ ê, sầu muộn.
His heart was broken.Trái tim nó tan nát.
In a single month I seemed to see my gallant boy turn into a worn-out cynical man.”Chỉ trong một tháng tôi dường như thấy đứa con tuấn tú của mình biến thành một kẻ chán chường, kiệt quệ.”
“A love affair – a woman?”“Một mối tình… phụ nữ chăng?”
“Or a fiend.“Hay là một con quỷ.
Well, it was not to talk of my poor lad that I asked you to come, Mr. Holmes.”Chà, tôi mời ông đến không phải để nói về thằng bé tội nghiệp nhà tôi, thưa ông Holmes.”
“Dr. Watson and I are at your service.”“Bác sĩ Watson và tôi đây xin lắng nghe.”
“There have been some very strange happenings.“Nhiều chuyện lạ lùng đã xảy ra.
I have been in this house more than a year now, and as I wished to lead a retired life I have seen little of my neighbours.Tôi sống ở nhà này hơn một năm rồi và vì muốn ẩn dật, tôi ít gặp gỡ láng giềng.
Three days ago I had a call from a man who said that he was a house agent.Ba ngày trước tôi nhận được cú điện thoại từ một người tự xưng là môi giới bất động sản.
He said that this house would exactly suit a client of his, and that if I would part with it money would be no object.Ông ta bảo ngôi nhà này rất hợp ý một thân chủ của ông ta, và nếu tôi bán thì giá cả không thành vấn đề.
It seemed to me very strange as there are several empty houses on the market which appear to be equally eligible, but naturally I was interested in what he said.Tôi lấy làm lạ vì trên thị trường còn nhiều nhà trống cũng đáng để lựa chọn, nhưng tất nhiên tôi vẫn quan tâm đến đề nghị của ông ta.
I therefore named a price which was five hundred pounds more than I gave.Do đó tôi đưa ra giá cao hơn mức tôi dự trù đến năm trăm bảng Anh.
He at once closed with the offer, but added that his client desired to buy the furniture as well and would I put a price upon it.Ông ta lập tức chốt giá, đồng thời nói thêm là thân chủ của ông muốn mua cả đồ đạc và đề nghị tôi ra giá.
Some of this furniture is from my old home, and it is, as you see, very good, so that I named a good round sum.Đồ đạc này có một số là từ nhà cũ của tôi, và như ông thấy đó, là đồ rất tốt, cho nên tôi đưa ra một mức giá khá đáng kể.
To this also he at once agreed.Ông ta cũng đồng ý liền.
I had always wanted to travel, and the bargain was so good a one that it really seemed that I should be my own mistress for the rest of my life.Tôi lâu nay luôn muốn đi du lịch và thỏa thuận này quá hời tới mức tôi thật sự cảm thấy mình có thể tự chu cấp cho bản thân suốt phần đời còn lại.
“Yesterday the man arrived with the agreement all drawn out.Hôm qua người đó đến đây với hợp đồng thảo sẵn.
Luckily I showed it to Mr. Sutro, my lawyer, who lives in Harrow.May sao, tôi đưa hợp đồng cho ông Sutro, luật sư của tôi sống ở vùng Harrow này.
He said to me, 'This is a very strange document.Ông ấy nói: ‘Hợp đồng này rất kì cục.
Are you aware that if you sign it you could not legally take anything out of the house – not even your own private possessions?' When the man came again in the evening I pointed this out, and I said that I meant only to sell the furniture.Bà có biết là nếu bà kí vào thì bà không thể nào lấy bất cứ thứ gì ra khỏi nhà một cách hợp pháp, ngay cả những đồ tư trang của bà không?’ Đến chiều người môi giới quay lại, tôi chỉ ra chỗ đó và bảo tôi chỉ muốn bán đồ đạc mà thôi.
“'No, no, everything,' said he.Ông ta nói: ‘Không, không, bán hết mọi thứ.’
“'But my clothes?‘Nhưng còn quần áo của tôi?
My jewels?'Nữ trang của tôi?’
“'Well, well, some concession might be made for your personal effects.‘À, à, có thể nhân nhượng đôi chút với các đồ tư trang của bà.
But nothing shall go out of the house unchecked.Nhưng không có thứ gì ra khỏi nhà này mà không bị kiểm tra.
My client is a very liberal man, but he has his fads and his own way of doing things.Thân chủ của tôi là người rất hào phóng, nhưng có những sở thích khác người và cách hành xử riêng.
It is everything or nothing with him.'Với người này, hoặc là tất cả hoặc là không gì cả.’
“'Then it must be nothing,' said I. And there the matter was left, but the whole thing seemed to me to be so unusual that I thought – “‘Thế thì không bán gì cả,’ tôi nói. Và chuyện bỏ ngang ở đó, nhưng toàn bộ sự việc đối với tôi có vẻ lạ lùng tới mức tôi nghĩ…”
Here we had a very extraordinary interruption.Tới đây thì cuộc trò chuyện bị gián đoạn một cách rất bất thường.
Holmes raised his hand for silence.Holmes đưa tay ra hiệu im lặng.
Then he strode across the room, flung open the door, and dragged in a great gaunt woman whom he had seized by the shoulder.Rồi anh sải bước băng qua phòng, kéo bật cánh cửa ra và tóm lấy vai một người đàn bà cao lớn, hốc hác, lôi vào.
She entered with ungainly struggle like some huge awkward chicken, torn, squawking, out of its coop.Ả đi vào phòng dùng dằng lóng ngóng như một con gà to xác vụng về, vừa giằng co vừa la quang quác khi bị lôi ra khỏi chuồng.
“Leave me alone!“Buông tôi ra!
What are you a-doin' of?” she screeched.Ông làm cái gì thế?” Ả hét lên.
“Why, Susan, what is this?”“Kìa, Susan! Chuyện gì vậy?”
“Well, ma'am, I was comin' in to ask if the visitors was stayin' for lunch when this man jumped out at me.”“Dạ, thưa bà chủ, con định tới hỏi xem khách có ở lại ăn trưa không thì ông này đã nhảy bổ vào con.”
“I have been listening to her for the last five minutes, but did not wish to interrupt your most interesting narrative.“Tôi đã nghe thấy cô ta đứng đó cả năm phút rồi, nhưng tôi không muốn làm gián đoạn câu chuyện hết sức lí thú của bà.
Just a little wheezy, Susan, are you not?Susan, cô cứ thở khò khè vậy à?
You breathe too heavily for that kind of work.”Nghe trộm mà thở như thế thì hơi to đấy?”
Susan turned a sulky but amazed face upon her captor.Susan quay bộ mặt sưng sỉa nhưng kinh ngạc về phía người đã bắt quả tang mình.
“Who be you, anyhow, and what right have you a-pullin' me about like this?”“Mà ông là ai chứ? Ông có quyền gì mà kéo tôi như vậy chứ?”
“It was merely that I wished to ask a question in your presence.“Tôi chỉ muốn hỏi một câu ngay trước mặt cô mà thôi.
Did you, Mrs. Maberley, mention to anyone that you were going to write to me and consult me?”Thưa bà Maberley, bà có nói cho ai biết là bà sẽ viết thư hỏi ý kiến tôi không?”
“No, Mr. Holmes, I did not.”“Không có, ông Holmes, tôi không nói với ai.”
“Who posted your letter?”“Ai mang thư đi gửi cho bà?”
“Susan did.”“Susan gửi.”
“Exactly.“Chính xác.
Now, Susan, to whom was it that you wrote or sent a message to say that your mistress was asking advice from me?”Này, Susan, cô đã viết thư hay đã báo cho ai biết là bà chủ của cô sẽ nhờ tôi cố vấn?”
“It's a lie.“Dối trá.
I sent no message.”Tôi không báo cho ai cả.”
“Now, Susan, wheezy people may not live long, you know.“Này, Susan, chắc cô biết những người thở khò khè không sống thọ đâu.
It's a wicked thing to tell fibs.Bịa chuyện là phạm tội lỗi đấy.
Whom did you tell?”Cô đã nói với ai?”
“Susan!” cried her mistress, “I believe you are a bad, treacherous woman.“Susan!” Bà chủ của chị ta kêu lên. “Ta nghĩ mi đúng là đồ xấu xa, phản trắc.
I remember now that I saw you speaking to someone over the hedge.”Bây giờ ta nhớ ra đã thấy thấy mi nói chuyện với ai đó qua bờ rào.”
“That was my own business,” said the woman sullenly.“Đó là việc riêng của tôi,” ả ta sưng sỉa nói.
“Suppose I tell you that it was Barney Stockdale to whom you spoke?” said Holmes.“Nếu như tôi nói là cô đã nói chuyện với Barney Stockdale thì sao?” Holmes nói.
“Well, if you know, what do you want to ask for?”“Hừ, nếu đã biết thì ông còn muốn hỏi làm gì chứ?”
“I was not sure, but I know now.“Lúc nãy tôi chưa biết chắc, nhưng bây giờ đã rõ.
Well now, Susan, it will be worth ten pounds to you if you will tell me who is at the back of Barney.”Nghe đây Susan, nếu cô cho tôi biết ai đứng sau Barney thì cô sẽ được mười bảng.”
“Someone that could lay down a thousand pounds for every ten you have in the world.”“Cứ mỗi mười bảng ông có trên đời này thì người đó có thể bỏ ra một nghìn bảng.”
“So, a rich man?“Ra thế, một quý ông giàu có?
No; you smiled – a rich woman.Không phải, cô vừa cười… vậy là một quý bà giàu có.
Now we have got so far, you may as well give the name and earn the tenner.”Đã tới nước này rồi thì tốt nhất cô nên nói luôn danh tính người này và nhận mười bảng đi.”
“I'll see you in hell first.”“Tôi sẽ gặp ông dưới địa ngục trước.”
“Oh, Susan!“Ôi, Susan!
Language!”Nói năng hay nhỉ!”
“I am clearing out of here.“Tôi sẽ đi khỏi chỗ này luôn.
I've had enough of you all.Tôi chán ngấy tất cả các người rồi.
I'll send for my box to-morrow.” She flounced for the door.Ngày mai tôi sẽ bảo người tới lấy rương hòm.” Ả ta hấp tấp đi ra cửa.
“Good-bye, Susan.“Tạm biệt, Susan.
Paregoric is the stuff…Nhớ mua thuốc ho mà uống…
Now,” he continued, turning suddenly from lively to severe when the door had closed behind the flushed and angry woman, “this gang means business.Bây giờ,” anh nói tiếp và thái độ đột ngột chuyển từ vui vẻ sang nghiêm trọng khi cánh cửa đã khép lại sau lưng ả đàn bà tức giận bừng bừng kia, “bọn này không đùa bỡn đâu.
Look how close they play the game.Hãy xem chúng ra tay rất nhanh.
Your letter to me had the 10 P.M. postmark.Thư bà gửi tôi có dấu bưu điện là 10 giờ sáng.
And yet Susan passes the word to Barney.Nhưng trước đó Susan đã báo tin cho Barney.
Barney has time to go to his employer and get instructions; he or she – I incline to the latter from Susan's grin when she thought I had blundered – forms a plan.Barney có thời gian gặp người thuê chúng để xin chỉ thị; tôi tin đó là một người đàn bà xét theo điệu cười nhăn nhở của Susan khi cô ta nghĩ rằng tôi đã sai lầm, và chính người này đã lên kế hoạch.
Black Steve is called in, and I am warned off by eleven o'clock next morning.Tên da đen Steve được gọi tới và đến 11 giờ sáng hôm sau thì tôi được hắn cảnh cáo.
That's quick work, you know.”Rất nhanh đấy, thưa bà.”
“But what do they want?”“Nhưng họ muốn gì chứ?”
“Yes, that's the question.“Đúng, đó là vấn đề.
Who had the house before you?”Trước bà thì nhà này thuộc về ai?”
“A retired sea captain called Ferguson.”“Một thuyền trưởng về hưu tên là Ferguson.”
“Anything remarkable about him?”“Ông ta có gì đáng chú ý không?”
“Not that ever I heard of.”“Theo tôi biết thì chẳng có gì.”
“I was wondering whether he could have buried something.“Tôi đang tự hỏi không biết ông ta có chôn giấu thứ gì không.
Of course, when people bury treasure nowadays they do it in the Post-Office bank.Tất nhiên thời buổi này nếu người ta muốn giấu của cải thì họ sẽ gửi vào các hệ thống nhà băng.
But there are always some lunatics about.Nhưng trên đời lúc nào cũng có những kẻ khùng điên.
It would be a dull world without them.Không có họ thì thế giới này sẽ tẻ nhạt lắm.
At first I thought of some buried valuable.Lúc đầu tôi nghĩ có của cải quý giá chôn giấu.
But why, in that case, should they want your furniture?Nhưng nếu vậy, tại sao chúng muốn cả đồ đạc trong nhà?
You don't happen to have a Raphael or a first folio Shakespeare without knowing it?”Bà có tình cờ sở hữu một bức tranh Raphael hay một bản in đầu tiên của Shakespeare mà không hay biết chăng?”
“No, I don't think I have anything rarer than a Crown Derby tea-set.”“Không, tôi nghĩ thứ quý hiếm nhất mà tôi có chỉ là một bộ đồ trà Crown Derby.”
“That would hardly justify all this mystery.“Thế thì không thể nào đủ sức lí giải cho toàn bộ bí mật này.
Besides, why should they not openly state what they want?Hơn nữa, tại sao chúng lại không công khai nói ra chúng muốn gì?
If they covet your tea-set, they can surely offer a price for it without buying you out, lock, stock, and barrel.Nếu thèm muốn bộ đồ trà của bà thì chúng có thể ra giá để mua chứ đầu cần phải mua hết mọi thứ để tống bà ra khỏi nhà chứ?
No, as I read it, there is something which you do not know that you have, and which you would not give up if you did know.”Không, theo tôi hiểu thì có thứ gì đó mà bà không biết là mình có, và nếu biết thì bà sẽ không từ bỏ nó đâu.”
“That is how I read it,” said I.“Tôi cũng cho là vậy đó,” tôi lên tiếng.
“Dr. Watson agrees, so that settles it.”“Bác sĩ Watson cũng đồng ý thì nhất định là đúng rồi.”
“Well, Mr. Holmes, what can it be?”“Chà, mà cái gì mới được chứ, ông Holmes?”
“Let us see whether by this purely mental analysis we can get it to a finer point.“Thử xem với cách phân tích thuần suy đoán, chúng ta có thể xác định được mấu chốt vấn đề không.
You have been in this house a year.”Bà đã ở nhà này một năm rồi.”
“Nearly two.”“Gần hai năm.”
“All the better.“Càng hay.
During this long period no one wants anything from you.Suốt thời gian dài đó chẳng ai muốn gì ở bà cả.
Now suddenly within three or four days you have urgent demands.Bây giờ thình lình chỉ trong ba bốn ngày bà lại có nhiều yêu cầu rất cấp bách.
What would you gather from that?”Bà nghĩ sao về chuyện này?”
“It can only mean,” said I, “that the object, whatever it may be, has only just come into the house.”Tôi nói thay, “Vậy chỉ có nghĩa là đồ vật đó, dù là cái gì đi nữa, cũng vừa mới có ở đây mà thôi.”
“Settled once again,” said Holmes.“Lại đúng nữa,” Holmes nói.
“Now, Mrs. Maberley has any object just arrived?”“Này, bà Maberley, nhà bà có đồ đạc gì mới không?”
“No, I have bought nothing new this year.”“Không, năm nay tôi chẳng mua thứ gì mới.”
“Indeed!“Đúng là kì lạ.
That is very remarkable. Well, I think we had best let matters develop a little further until we have clearer data.Chà, tôi nghĩ chúng ta tốt nhất nên để cho sự việc tiến triển thêm chút ít cho đến khi có những dữ kiện rõ ràng hơn.
Is that lawyer of yours a capable man?”Luật sư của bà có năng lực không?”
“Mr. Sutro is most capable.”“Ông Sutro rất có năng lực.”
“Have you another maid, or was the fair Susan, who has just banged your front door alone?”“Bà có người giúp việc nào khác không, hay chỉ có cô Susan thật thà kia, người vừa ầm ầm đóng sập cửa nhà bà đó?”
“I have a young girl.”“Tôi còn một đứa hầu gái nhỏ.”
“Try and get Sutro to spend a night or two in the house.“Hãy cố gọi ông Sutro đến ở lại nhà này một hai đêm.
You might possibly want protection.”Có thể bà cần được bảo vệ đó.”
“Against whom?”“Nhưng đề phòng ai mới được?”
“Who knows?“Ai mà biết?
The matter is certainly obscure.Chuyện này hoàn toàn khó hiểu.
If I can't find what they are after, I must approach the matter from the other end and try to get at the principal.Nếu tôi không biết chúng đang muốn cái gì thì tôi phải tiếp cận vấn đề theo hướng khác và cố tìm cho ra kẻ chủ mưu.
Did this house-agent man give any address?”Tay môi giới bất động sản kia có cho biết địa chỉ gì không?”
“Simply his card and occupation. Haines-Johnson, Auctioneer and Valuer.”“Danh thiếp của ông ta chỉ có tên và chức danh: Haines Johnson, chuyên viên định giá và phát mãi.”
“I don't think we shall find him in the directory.“Tôi nghĩ trong danh bạ sẽ không tìm ra cái tên này đâu.
Honest business men don't conceal their place of business.Dân làm ăn lương thiện không giấu địa chỉ kinh doanh.
Well, you will let me know any fresh development.Đấy, có tiến triển gì mới xin bà cứ báo tôi.
I have taken up your case, and you may rely upon it that I shall see it through.”Tôi đã nhận việc này thì bà có thể tin tưởng là tôi sẽ làm tới cùng.”
As we passed through the hall Holmes's eyes, which missed nothing, lighted upon several trunks and cases which were piled in a corner.Lúc đi qua tiền sảnh, đôi mắt Holmes, vốn không bỏ sót điều gì, để ý ngay đến mớ rương hòm, vali chồng chất ở góc nhà, có dán nhãn nổi bật: Milano.
The labels shone out upon them.Lucerne.
“'Milano.' 'Lucerne.' These are from Italy.”Mấy thứ này từ Ý.
“They are poor Douglas's things.”“Đó là đồ đạc của thằng Douglas xấu số.”
“You have not unpacked them?“Bà chưa mở ra à?
How long have you had them?”Bà nhận được chúng bao lâu rồi?”
“They arrived last week.”“Mới nhận tuần trước.”
“But you said – why, surely this might be the missing link.“Nhưng bà đã nói… chà, rõ ràng đây có thể là mắt xích còn thiếu.
How do we know that there is not something of value there?”Làm sao chúng ta biết được trong đó có thứ gì quý giá hay không?”
“There could not possibly be, Mr. Holmes.“Không thể nào có đâu, ông Holmes.
Poor Douglas had only his pay and a small annuity.Thằng Douglas tội nghiệp chỉ sống bằng tiền lương và chút niên khoản thôi.
What could he have of value?”Làm sao nó có thứ gì quý giá chứ?”
Holmes was lost in thought. “Delay no longer, Mrs. Maberley,” he said at last.Holmes trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu rồi mới nói, “Không chần chừ nữa, bà Maberley.
“Have these things taken upstairs to your bedroom.Hãy cho mang hết những thứ này lên phòng ngủ của bà.
Examine them as soon as possible and see what they cohtain.Kiểm tra ngay xem có những thứ gì bên trong.
I will come tomorrow and hear your report.”Mai tôi sẽ đến nghe bà thuật lại.”
It was quite evident that The Three Gables was under very close surveillance, for as we came round the high hedge at the end of the lane there was the negro prize-fighter standing in the shadow.Hiển nhiên là biệt thự Ba Chóp Mái bị theo dõi chặt chẽ, bởi vì khi chúng tôi vòng qua hàng rào cao ở đầu lối đi vào thì tên võ sĩ da đen đã đứng đó trong bóng tối.
We came on him quite suddenly, and a grim and menacing figure he looked in that lonely place.Chúng tôi bất ngờ thấy hắn và ở nơi vắng vẻ đó trông hắn thật hung ác đáng sợ.
Holmes clapped his hand to his pocket.Holmes thọc tay ngay vào túi.
“Lookin' for your gun, Masser Holmes?”“Tìm súng đấy à, ông Holmes?”
“No, for my scent-bottle, Steve.”“Không, tìm chai nước hoa, Steve.”
“You are funny, Masser Holmes, ain't you?”“Ông đùa đấy à, ông Holmes?”
“It won't be funny for you, Steve, if I get after you.“Với anh thì sẽ không phải chuyện đùa đâu, Steve, nếu như tôi muốn bắt anh.
I gave you fair warning this morning.”Sáng nay tôi đã cảnh cáo rõ ràng rồi đó.”
“Well, Masser Holmes, I done gone think over what you said, and I don't want no more talk about that affair of Masser Perkins.“Chà, ông Holmes, tôi đã nghĩ kĩ những điều ông nói và tôi không muốn nhắc nhở gì nữa về vụ Perkins.
S'pose I can help you, Masser Holmes, I will.”Thưa ông Holmes, nếu như giúp gì được cho ông thì tôi sẵn sàng.”
“Well, then, tell me who is behind you on this job.”“Được, vậy thì nói tôi biết đứng đằng sau vụ này là ai.”
“So help me the Lord!“Chúa ơi, cứu con!
Masser Holmes, I told you the truth before.Ông Holmes, tôi đã nói thật với ông rồi mà.
I don't know.Tôi không biết.
My boss Barney gives me orders and that's all.”Tôi chỉ biết sếp Barney ra lệnh cho tôi thôi.”
“Well, just bear in mind, Steve, that the lady in that house, and everything under that roof, is under my protection.“Này, Steve, hãy nhớ cho kĩ, bà chủ ngôi nhà đó và mọi thứ trong nhà đều được tôi bảo vệ.
Don't forget it.”Đừng có quên.”
“All right, Masser Holmes.“Được rồi, ông Holmes.
I'll remember.”Tôi sẽ nhớ.”
“I've got him thoroughly frightened for his own skin, Watson,” Holmes remarked as we walked on.Holmes nói với tôi khi cả hai đi tiếp, “Tôi đã dọa cho hắn sợ chết khiếp rồi, Watson.
“I think he would double-cross his employer if he knew who he was.Tôi nghĩ nếu hắn mà biết kẻ chủ mưu là ai thì hắn cũng sẽ khai hết.
It was lucky I had some knowledge of the Spencer John crowd, and that Steve was one of them.Cũng may là tôi có biết đôi chút về bọn Spencer John, và biết Steve thuộc bọn này.
Now, Watson, this is a case for Langdale Pike, and I am going to see him now.Thế đấy, Watson, vụ này cần tới Langdale Pike và bây giờ tôi sẽ đi gặp ông ta.
When I get back I may be clearer in the matter.”Khi quay về chắc tôi sẽ rõ vấn đề hơn.”
I saw no more of Holmes during the day, but I could well imagine how he spent it, for Langdale Pike was his human book of reference upon all matters of social scandal.Suốt ngày hôm đó tôi không thấy mặt Holmes nữa nhưng tôi có thể hình dung anh đã làm gì trong thời gian ấy, bởi vì Langdale Pike là pho từ điển sống của anh về mọi chuyện tai tiếng trong xã hội.
This strange, languid creature spent his waking hours in the bow window of a St. James's Street club and was the receivingstation as well as the transmitter for all the gossip of the metropolis.Con người lừ đừ, kì quái này suốt ngày ngồi ở khung cửa sổ vòm cung của câu lạc bộ trên phố St. James và là trạm tiếp nhận kiêm phát tán đủ loại chuyện ngồi lê đôi mách của chốn đô thành.
He made, it was said, a four-figure income by the paragraphs which he contributed every week to the garbage papers which cater to an inquisitive public.Nghe nói ông ta kiếm được thu nhập hàng nghìn bảng từ những mẩu tin mà ông cộng tác hàng tuần cho các tờ báo lá cải chuyên phục vụ công chúng hiếu kì.
If ever, far down in the turbid depths of London life, there was some strange swirl or eddy, it was marked with automatic exactness by this human dial upon the surface.Nếu như dưới tận đáy sâu hỗn độn của đời sống London có gì cuộn xoáy khác thường thì ngay trên mặt đất đã có cái máy đo di động này ghi nhận lại tường tận.
Holmes discreetly helped Langdale to knowledge, and on occasion was helped in turn.Holmes từng kín đáo cho Langdale biết nhiều chuyện và đôi khi ông ta cũng giúp Holmes để đền đáp.
When I met my friend in his room early next morning, I was conscious from his bearing that all was well, but none the less a most unpleasant surprise was awaiting us.Khi gặp lại Holmes ở nhà anh sáng sớm hôm sau, tôi nhìn phong thái của anh là biết mọi chuyện tốt đẹp, thế nhưng một điều bất ngờ khó chịu lại đang chờ đón chúng tôi.
It took the shape of the following telegram.Đó là bức điện tín sau đây:
Please come out at once.Xin đến ngay.
Client's house burgled in the night.Nhà thân chủ bị trộm đêm qua.
Police in possession.Cảnh sát đang điều tra.
SUTRO.Sutro.
Holmes whistled.Holmes huýt gió.
“The drama has come to a crisis, and quicker than I had expected.“Tuồng kịch đã tới cao trào rồi, và nhanh hơn tôi tưởng.
There is a great driving-power at the back of this business, Watson, which does not surprise me after what I have heard.Có thế lực rất lớn thúc đẩy đằng sau vụ này, Watson ạ, và sau những gì đã được nghe nói thì chuyện này không làm tôi ngạc nhiên.
This Sutro, of course, is her lawyer.Còn người kí tên Sutro tất nhiên là luật sư của bà chủ nhà.
I made a mistake, I fear, in not asking you to spend the night on guard.Tôi e là tôi đã sai lầm khi không yêu cầu anh ở qua đêm tại đó để canh chừng.
This fellow has clearly proved a broken reed.Rõ ràng là không thể trông cậy vào ông Sutro này được.
Well, there is nothing for it but another journey to Harrow Weald.”Chà, đành phải đi chuyến nữa tới Harrow Weald thôi.”
We found The Three Gables a very different establishment to the orderly household of the previous day.Chúng tôi nhận ra biệt thự Ba Chóp Mái đã khác hẳn ngôi nhà ngăn nắp ngày hôm trước.
A small group of idlers had assembled at the garden gate, while a couple of constables were examining the windows and the geranium beds.Một đám người rỗi việc đã tụ tập trước cổng vườn trong khi hai cảnh sát đang khám xét các cửa sổ và bồn hoa phong lữ thảo.
Within we met a gray old gentleman, who introduced himself as the lawyer together with a bustling, rubicund inspector, who greeted Hoimes as an old friend.Vào trong, chúng tôi gặp một ông già quý phái tóc bạc tự giới thiệu là luật sư, cùng với một thanh tra cảnh sát hồng hào xông xáo, chào hỏi Holmes như bạn cũ.
“Well, Mr. Holmes, no chance for you in this case, I'm afraid.“A, ông Holmes, tôi e là ông chẳng có cơ hội gì trong vụ này.
Just a common, ordinary burglary, and well within the capacity of the poor old police.Chỉ là một vụ trộm đột nhập bình thường thôi, và hoàn toàn nằm trong khả năng của viên cảnh sát già tội nghiệp này.
No experts need apply.”Không cần tới chuyên gia đâu.”
“I am sure the case is in very good hands,” said Holmes.“Tôi tin chắc vụ này đã được những người giỏi đảm trách,” Holmes nói.
“Merely a common burglary, you say?”“Ông bảo đây chỉ là vụ trộm bình thường thôi à?”
“Quite so.“Đúng thế.
We know pretty well who the men are and where to find them.Chúng tôi biết rõ tụi này là ai và phải tìm chúng ở đâu.
It is that gang of Barney Stockdale, with the big nigger in it – they've been seen about here.”Chính là băng đảng của Barney Stockdale, có thằng da đen to con trong bọn… người ta đã thấy chúng lảng vảng ở đây.”
“Excellent!“Xuất sắc!
What did they get?”Thế chúng lấy thứ gì?”
“Well, they don't seem to have got much.“À, coi bộ chúng chẳng lấy được gì nhiều.
Mrs. Maberley was chloroformed and the house was – Ah! here is the lady herself.”Bà Maberley bị chụp thuốc mê và căn nhà bị… A! Bà chủ nhà đây rồi.”
Our friend of yesterday, looking very pale and ill, had entered the room, leaning upon a little maidservant.Bà bạn hôm qua của chúng tôi vừa bước vào phòng, trông bà yếu ớt và tái nhợt, phải có con bé giúp việc dìu đi.
“You gave me good advice, Mr. Holmes,” said she, smiling ruefully.“Ông đã khuyên tôi quá đúng, ông Holmes,” bà vừa nói vừa cười ảo não.
“Alas, I did not take it!“Than ôi, tôi lại không nghe theo!
I did not wish to trouble Mr. Sutro, and so I was unprotected.”Tôi không muốn làm phiền ông Sutro cho nên không có ai bảo vệ tôi.”
“I only heard of it this morning,” the lawyer explained.“Sáng nay tôi mới hay tin,” ông luật sư giải thích.
“Mr. Holmes advised me to have some friend in the house.“Ông Holmes đã khuyên tôi nên gọi bạn bè đến ở trong nhà.
I neglected his advice, and I have paid for it.”Tôi đã không nghe lời và phải trả giá.”
“You look wretchedly ill,” said Holmes.“Trông bà suy yếu thảm thương quá,” Holmes nói.
“Perhaps you are hardly equal to telling me what occurred.”“Chắc bà không còn hơi sức mà kể tôi nghe chuyện gì xảy ra.”
“It is all here,” said the inspector, tapping a bulky notebook.“Tất cả đều có ở đây,” viên thanh tra vừa nói vừa vỗ vào cuốn sổ tay dày cộp.
“Still, if the lady is not too exhausted – ““Dù vậy nếu quý bà đây không quá mệt…”
“There is really so little to tell.“Thật sự chẳng có gì nhiều mà kể.
I have no doubt that wicked Susan had planned an entrance for them.Tôi chắc chắn con Susan ác độc đã trù tính hết đường vào cho bọn chúng.
They must have known the house to an inch.Nhất định chúng phải biết rành nhà này từng li từng tí.
I was conscious for a moment of the chloroform rag which was thrust over my mouth, but I have no notion how long I may have been senseless.Khi chúng nhét giẻ tẩm thuốc mê vào miệng tôi thì tôi vẫn còn tỉnh được một chút, nhưng tôi không biết sau đó mình đã mê man bao lâu.
When I woke, one man was at the bedside and another was rising with a bundle in his hand from among my son's baggage, which was partially opened and littered over the floor.Lúc tỉnh lại tôi thấy một gã đứng bên cạnh giường và một gã khác đang giơ lên bọc gì đó lấy từ mớ hành lí của con trai tôi; rương hòm của nó đã bị mở ra một phần và vứt bừa khắp sàn nhà.
Before he could get away I sprang up and seized him.”Hắn chưa kịp tẩu thoát thì tôi ngồi bật dậy tóm lấy hắn.”
“You took a big risk,” said the inspector.“Bà thật liều quá,” viên thanh tra nói.
“I clung to him, but he shook me off, and the other may have struck me, for I can remember no more.“Tôi bám cứng lấy hắn nhưng hắn hất tôi văng ra, và tên kia có thể đã đánh tôi vì tôi không còn nhớ gì nữa.
Mary the maid heard the noise and began screaming out of the window.Con hầu Mary nghe ồn ào liền ra cửa sổ tri hô.
That brought the police, but the rascals had got away.”Nhờ đó cảnh sát chạy đến nhưng bọn côn đồ đã tẩu thoát rồi.”
“What did they take?”“Chúng lấy đi thứ gì?”
“Well, I don't think there is anything of value missing.“Ồ, tôi không nghĩ là mất thứ gì quý giá cả.
I am sure there was nothing in my son's trunks.”Tôi chắc chắn là không mất thứ gì trong mấy cái rương của con tôi.”
“Did the men leave no clue?”“Bọn này có để lại manh mối gì không?”
“There was one sheet of paper which I may have torn from the man that I grasped.“Có một tờ giấy, chắc do tôi giật ra từ tay cái tên mà tôi đã chộp lấy.
It was lying all crumpled on the floor.Nó nằm vò nhàu trên sàn nhà.
It is in my son's handwriting.”Tờ giấy có chữ viết tay của con tôi.”
“Which means that it is not of much use,” said the inspector.“Như thế tức là nó chẳng có ích lợi gì,” viên thanh tra nói.
“Now if it had been in the burglar's – ““Còn nếu nó đã nằm trong tay tên trộm…”
“Exactly,” said Holmes.“Chính xác,” Holmes nói.
“What rugged common sense!“Quả là trái với lẽ thường!
None the less, I should be curious to see it.”Dù sao tôi cũng tò mò muốn xem qua.”
The inspector drew a folded sheet of foolscap from his pocketbook.Viên thanh tra rút từ sổ tay ra một mảnh giấy gấp lại.
“I never pass anything, however trifling,” said he with some pomposity.“Tôi không bao giờ bỏ sót điều gì, dù là nhỏ nhặt,” ông ta nói với vẻ huênh hoang.
“That is my advice to you, Mr. Holmes.“Đó là lời khuyên cho ông đó, ông Holmes.
In twentyfive years' experience I have learned my lesson.Với kinh nghiệm hai mươi lăm năm, tôi đã thuộc làu bài học này.
There is always the chance of finger-marks or something.”Lúc nào cũng có cơ may tìm thấy dấu tay hay thứ gì đó.”
Holmes inspected the sheet of paper.Holmes kiểm tra tờ giấy.
“What do you make of it, Inspector?”“Theo ông thì cái này có ý nghĩa gì, ông thanh tra?”
“Seems to be the end of some queer novel, so far as I can see.”“Có vẻ là đoạn cuối của một tiểu thuyết quái gở nào đó, theo tôi là vậy.”
“It may certainly prove to be the end of a queer tale,” said Holmes.“Có thể xác định nó là đoạn kết của một câu chuyện lạ kì,” Holmes nói.
“You have noticed the number on the top of the page.“Ông đã để ý thấy trên đầu trang có đánh số.
It is two hundred and forty-five.Đó là số 245.
Where are the odd two hundred and forty-four pages?”Thế còn hai trăm bốn mươi bốn trang kia đâu?”
“Well, I suppose the burglars got those.“À, tôi chắc là bọn trộm lấy mất rồi.
Much good may it do them!”Lấy thứ này thì ích lợi gì chứ!”
“It seems a queer thing to break into a house in order to steal such papers as that.“Đúng là kì cục khi đột nhập vào nhà chỉ để lấy mấy tờ giấy như vậy.
Does it suggest anything to you, Inspector?”Điều này thì ông lí giải sao đây, ông thanh tra?”
“Yes, sir, it suggests that in their hurry the rascals just grabbed at what came first to hand.“Ồ, thưa ông, tôi nghĩ rằng trong lúc hấp tấp, bọn vô lại này vồ đại bất cứ thứ gì nắm được trong tay.
I wish them joy of what they got.”Tôi mong là chúng thích thú với những gì lấy được.”
“Why should they go to my son's things?” asked Mrs. Maberley.“Nhưng sao chúng lại nhắm tới đồ đạc của con trai tôi?” Bà Maberley hỏi.
“Well, they found nothing valuable downstairs, so they tried their luck upstairs.“À, chúng chẳng tìm thấy thứ gì giá trị ở dưới nhà, nên chúng mò lên lầu cầu may.
That is how I read it.Đó là cách tôi lí giải.
What do you make of it, Mr. Holmes?”Theo ông thì sao, ông Holmes?”
“I must think it over, Inspector.“Tôi phải suy nghĩ đã, ông thanh tra.
Come to the window, Watson.” Then, as we stood together, he read over the fragment of paper.Ra cửa sổ đi, Watson.” Khi hai chúng tôi đứng riêng với nhau, anh đọc qua mảnh giấy.
It began in the middle of a sentence and ran like this:Nó bắt đầu từ giữa chừng câu văn và có nội dung như thế này:
“… face bled considerably from the cuts and blows, but it was nothing to the bleeding of his heart as he saw that lovely face, the face for which he had been prepared to sacrifice his very life, looking out at his agony and humiliation.…mặt tuôn máu đầm đìa vì những nhát dao và cú đấm, nhưng điều đó có sá gì với cõi lòng tan nát của chàng khi nhìn thấy dung nhan yêu kiều mà chàng từng sẵn sàng hi sinh chính sinh mạng mình, cái dung nhan ấy đang quan sát nỗi thống khổ và nhục nhã của chàng.
She smiled – yes, by Heaven! she smiled, like the heartless fiend she was, as he looked up at her.Nàng nhoẻn cười - vâng, ôi cao xanh! Nàng tươi cười như một ác quỷ nhẫn tâm trong khi chàng ngước nhìn nàng.
It was at that moment that love died and hate was born.Đúng ngay giây phút ấy tình yêu cáo chung và thù hận nảy nở.
Man must live for something.Con người phải sống vì điều gì dó.
If it is not for your embrace, my lady, then it shall surely be for your undoing and my complete revenge.”Nếu không phải vì vòng tay ôm của nàng, hỡi giai nhân, thì chắc chắn đó là vì sự đồi bại của nàng và mối căm hận tột cùng của ta.
“Queer grammar!” said Holmes with a smile as he handed the paper back to the inspector.“Văn phạm kì cục!” Holmes vừa nói vừa cười khi anh trả lại tờ giấy cho viên thanh tra.
“Did you notice how the 'he' suddenly changed to 'my'?“Ông có để ý thấy tự nhiên chàng thình lình đổi thành ta không?
The writer was so carried away by his own story that he imagined himself at the supreme moment to be the hero.”Người viết đã bị câu chuyện của mình cuốn theo và đúng ngay khoảnh khắc cực điểm người đó lại tự tưởng tượng mình là nhân vật nam chính trong truyện.”
“It seemed mighty poor stuff,” said the inspector as he replaced it in his book.“Thứ văn chương này coi bộ dở ẹc,” viên thanh tra nói khi kẹp lại tờ giấy vào sổ tay.
“What! are you off, Mr. Holmes?”“Ủa! Ông đi sao, ông Holmes?”
“I don't think there is anything more for me to do now that the case is in such capable hands.“Tôi nghĩ chẳng còn việc gì nữa cho tôi làm khi vụ này đã được những người giỏi giang đảm trách rồi.
By the way, Mrs. Maberley, did you say you wished to travel?”À này, bà Maberley, bà từng nói là bà mong muốn được đi du lịch?”
“It has always been my dream, Mr. Holmes.”“Đó là mơ ước cả đời của tôi, thưa ông Holmes.”
“Where would you like to go – Cairo, Madeira, the Riviera?”“Bà thích đi đâu… Cairo, Madeira, hay Riviera?”
“Oh if I had the money I would go round the world.”“Ồ, nếu có tiền tôi sẽ đi vòng quanh thế giới.”
“Quite so.“Đúng thế.
Round the world.Vòng quanh thế giới.
Well, good-morning. I may drop you a line in the evening.”Thôi, xin tạm biệt, chiều nay có thể tôi sẽ viết cho bà mấy dòng.”
As we passed the window I caught a glimpse of the inspector's smile and shake of the head.Khi đi ngang qua cửa sổ, tôi thoáng thấy nụ cười và cái lắc đầu của viên thanh tra.
“These clever fellows have always a touch of madness.” That was what I read in the inspector's smile.“Mấy tên thông minh này lúc nào cũng có chút máu điên.” Đó là điều tôi suy ra được qua điệu cười của ông ta.
“Now, Watson, we are at the last lap of our little journey,” said Holmes when we were back in the roar of central London once more.Mãi tới khi chúng tôi quay lại khu trung tâm London lần nữa, Holmes mới lên tiếng. “Này, Watson, chúng ta đã đến chặng cuối của cuộc hành trình nho nhỏ này.
“I think we had best clear the matter up at once, and it would be well that you should come with me, for it is safer to have a witness when you are dealing with such a lady as Isadora Klein.”Tôi nghĩ tốt nhất nên kết thúc vụ này ngay, và anh đi cùng tôi thì hơn, bởi vì có một nhân chứng thì sẽ an toàn hơn khi ta đương đầu với một quý bà như bà Isadora Klein.”
We had taken a cab and were speeding to some address in Grosvenor Square.Chúng tôi đón xe ngựa và đi nhanh đến một địa chỉ ở quảng trường Grosvenor.
Holmes had been sunk in thought, but he roused himself suddenly.Holmes đang đắm chìm trong suy nghĩ thì thình lình bừng tỉnh.
“By the way, Watson, I suppose you see it all clearly?”“À này, Watson, tôi chắc là anh hiểu rõ hết cả rồi chứ?”
“No, I can't say that I do.“Không, không hẳn.
I only gather that we are going to see the lady who is behind all this mischief.”Tôi chỉ đoán là chúng ta đi gặp người phụ nữ đứng sau mọi chuyện quái quỷ này.”
“Exactly!“Chính xác!
But does the name Isadora Klein convey nothing to you?Nhưng cái tên Isadora Klein có khiến anh nghĩ gì không?
She was, of course, the celebrated beauty.Tất nhiên bà ta là một mĩ nhân danh tiếng.
There was never a woman to touch her.Không có phụ nữ nào sánh bằng.
She is pure Spanish, the real blood of the masterfui Conquistadors, and her people have been leaders in Pernambuco for generations.Bà ta là dân Tây Ban Nha chính gốc, dòng máu đích thực của những thực dân xâm chiếm Nam Mỹ, và dòng dõi bà ta suốt nhiều thế hệ từng là những người đứng đầu vùng Pernambuco.
She married the aged German sugar king, Klein, and presently found herself the richest as well as the most lovely widow upon earth.Bà ta lấy ông già Klein người Đức, vua đường mía, và gần đây đã trở thành góa phụ khả ái và giàu có nhất trên đời.
Then there was an interval of adventure when she pleased her own tastes.Sau đó bà ta sống một quãng đời phiêu lưu, nuông chiều ý thích bản thân.
She had several lovers, and Douglas Maberley, one of the most striking men in London, was one of them.Bà ta có nhiều nhân tình, trong số đó có Douglas Maberley, một trong những chàng trai xuất chúng nhất London.
It was by all accounts more than an adventure with him.Mối quan hệ với anh ta hoàn toàn không phải là một cuộc phiêu lưu tình ái.
He was not a society butterfly but a strong, proud man who gave and expected all.Anh ta không phải phường ong bướm mà là một đấng nam tử kiêu hãnh, quyết liệt, người dám cho và dám đòi hỏi hết tất cả.
But she is the 'belle dame sans merci' of fiction.Nhưng bà này lại thuộc mẫu ‘belle dame sans merci’[234] như trong tiểu thuyết.
When her caprice is satisfied the matter is ended, and if the other party in the matter can't take her word for it she knows how to bring it home to him.”Khi đã hết hứng thú thì bà ta kết thúc mọi chuyện, và nếu đối phương không chịu đoạn tuyệt thì bà ta biết cách làm cho người đó phải chấp nhận.”
“Then that was his own story – ““Như vậy đó chính là câu chuyện anh ta viết…”
“Ah! you are piecing it together now.“Đấy đấy! Anh đã xâu chuỗi được vấn đề rồi!
I hear that she is about to marry the young Duke of Lomond, who might almost be her son.Tôi nghe nói bà này sắp lấy một vị công tước trẻ ở Lomond, người đáng tuổi con bà.
His Grace's ma might overlook the age, but a big scandal would be a different matter, so it is imperative – Ah! here we are.”Thân mẫu của ngài công tước có thể bỏ qua chuyện tuổi tác, nhưng bị gây tai tiếng ầm ĩ lại là chuyện khác, cho nên bắt buộc phải… À! Đến nơi rồi.”
It was one of the finest corner-houses of the West End.Đó là một trong những ngôi nhà góc phố tráng lệ nhất khu Tây London.
A machine-like footman took up our cards and returned with word that the lady was not at home.Một gia nhân có vẻ cứng nhắc nhận danh thiếp của chúng tôi mang vào rồi quay ra bảo nữ gia chủ đi vắng.
“Then we shall wait until she is,” said Holmes cheerfully.“Thế thì chúng tôi sẽ chờ đến khi bà ấy về,” Holmes vui vẻ nói.
The machine broke down.Tên cứng nhắc này khó chịu ra mặt.
“Not at home means not at home to you,” said the footman.“Đi vắng có nghĩa là đi vắng đối với các ông,” lời tên gia nhân.
“Good,” Holmes answered.“Tốt,” Holmes đáp.
“That means that we shall not have to wait.“Vậy có nghĩa là chúng tôi không phải chờ đợi.
Kindly give this note to your mistress.”Vui lòng đưa mẩu giấy này cho bà chủ của anh.”
He scribbled three or four words upon a sheet of his notebook, folded it, and handed it to the man.Holmes hí hoáy mấy chữ trên tờ giấy xé ra từ sổ tay, gấp lại rồi giao cho anh ta.
“What did you say, Holmes?” I asked.“Anh viết gì thế, Holmes?” Tôi hỏi.
“I simply wrote: 'Shall it be the police, then?' I think that should pass us in.”“Tôi chỉ viết ‘Vậy muốn gặp cảnh sát ư?’ Tôi nghĩ mấy chữ đó sẽ cho ta vào.”
It did – with amazing celerity.Thực vậy, và nhanh chóng lạ lùng.
A minute later we were in an Arabian Nights drawing-room, vast and wonderful, in a half gloom, picked out with an occasional pink electric light.Một phút sau chúng tôi đã bước vào một phòng khách như trong truyện Ngàn lẻ một đêm, mênh mông và lộng lẫy, chìm trong bóng tối tù mù điểm xuyết mấy ngọn đèn điện màu hồng.
The lady had come, I felt, to that time of life when even the proudest beauty finds the half light more welcome.Tôi cảm thấy người phụ nữ này đã đến độ tuổi mà ngay cả người có nhan sắc kiêu hãnh nhất cũng thấy phù hợp với ánh sáng mờ ảo hơn.
She rose from a settee as we entered: tall, queenly, a perfect figure, a lovely mask-like face, with two wonderful Spanish eyes which looked murder at us both.Khi chúng tôi vào, bà ta đứng dậy khỏi trường kỉ: Một vóc dáng cao, hoàn hảo đường bệ, một khuôn mặt diễm kiều như mặt nạ với đôi mắt Tây Ban Nha nhìn chúng tôi như muốn giết người.
“What is this intrusion – and this insulting message?” she asked, holding up the slip of paper.“Chuyện xâm nhập này là thế nào… và lời nhắn đầy xấc xược này nữa?” Bà ta vừa nói vừa giơ mảnh giấy lên.
“I need not explain, madame.“Tôi không cần giải thích, thưa bà.
I have too much respect for your intelligence to do so – though I confess that intelligence has been surprisingly at fault of late.”Tôi rất nể trọng trí tuệ của bà nên tôi không giải thích… mặc dù phải thú thật là trí tuệ ấy gần đây đã sai lầm đến mức ngạc nhiên.”
“How so, sir?”“Sao ông nói thế?”
“By supposing that your hired bullies could frighten me from my work.“Vì bà cho rằng chuyện thuê mấy tên côn đồ tới hăm dọa có thể khiến tôi từ bỏ vụ này.
Surely no man would take up my profession if it were not that danger attracts him.Chắc chắn sẽ không ai làm cái nghề của tôi nếu không thấy hứng thú trước nguy hiểm.
It was you, then, who forced me to examine the case of young Maberley.”Chính bà đã buộc tôi phải điều tra trường hợp của cậu Maberley.”
“I have no idea what you are talking about.“Tôi không biết ông muốn nói gì.
What have I to do with hired bullies?”Tôi liên can gì đến mấy tên côn đồ đánh thuê chứ?”
Holmes turned away wearily.Holmes chán nản quay đi.
“Yes, I have underrated your intelligence.“Ồ, tôi đã đánh giá thấp trí tuệ của bà.
Well, good-afternoon!”Thôi, xin chào!”
“Stop!“Khoan!
Where are you going?”Ông định đi đâu?”
“To Scotland Yard.”“Tới Sở Cảnh sát London.”
We had not got halfway to the door before she had overtaken us and was holding his arm.Chúng tôi chưa ra tới cửa thì bà ta đã đuổi kịp và nắm cánh tay Holmes giữ lại.
She had turned in a moment from steel to velvet.Trong chớp nhoáng bà ta đã biến đổi từ thép thành nhung.
“Come and sit down, gentlemen.“Xin mời quý ông ngồi.
Let us talk this matter over.Chúng ta hãy bàn công việc.
I feel that I may be frank with you, Mr. Holmes.Tôi thấy tôi có thể thẳng thắn với ông, thưa ông Holmes.
You have the feelings of a gentleman.Ông có phong thái của người cao thượng.
How quick a woman's instinct is to find it out.Trực giác phụ nữ nhận ra điều đó nhanh chóng lắm.
I will treat you as a friend.”Tôi sẽ đối đãi với ông như bằng hữu.”
“I cannot promise to reciprocate, madame.“Tôi không thể hứa đáp đền gì cả, thưa bà.
I am not the law, but I represent justice so far as my feeble powers go.Tôi không phải luật pháp, nhưng tôi đại diện cho công lí trong khả năng khiêm tốn của mình.
I am ready to listen, and then I will tell you how I will act.”Tôi sẵn sàng lắng nghe và tôi sẽ cho bà biết tôi sẽ làm gì.”
“No doubt it was foolish of me to threaten a brave man like yourself.”“Tôi đúng là xuẩn ngốc khi hăm dọa một người can trường như ông.”
“What was really foolish, madame, is that you have placed yourself in the power of a band of rascals who may blackmail or give you away.”“Điều thật sự xuẩn ngốc, thưa bà, là bà đã phó thác bản thân cho một đám côn đồ có khả năng sẽ tống tiền hay tố cáo bà.”
“No, no!“Không, không!
I am not so simple.Tôi không đơn giản vậy đâu.
Since I have promised to be frank, I may say that no one, save Barney Stockdale and Susan, his wife, have the least idea who their employer is.Vì tôi đã hứa sẽ thẳng thắn, tôi có thể nói rằng không một người nào, ngoại trừ Barney Stockdale và Susan vợ hắn, biết ai là người thuê chúng hành sự.
As to them, well, it is not the first – “ She smiled and nodded with a charming coquettish intimacy.Còn với hai người đó, à, đây không phải lần đầu…” Bà ta mỉm cười và gật đầu với vẻ thân mật rất điệu đàng quyến rũ.
“l see.“Ra thế.
You've tested them before.”Bà từng thử thách họ rồi.”
“They are good hounds who run silent.”“Chúng là thứ chó săn biết câm mồm chạy.”
“Such hounds have a way sooner or later of biting the hand that feeds them.“Chó săn loại đó không sớm thì muộn sẽ quay lại cắn chủ mà thôi.
They will be arrested for this burglary.Chúng sẽ bị bắt vì vụ trộm này.
The police are already after them.”Cảnh sát đang truy lùng hai người đó.”
“They will take what comes to them.“Chúng sẽ nhận mọi hậu quả.
That is what they are paid for.Chúng được trả tiền vì thế.
I shall not appear in the matter.”Tôi sẽ không dính dáng vào chuyện này.”
“Unless I bring you into it.”“Trừ phi tôi đưa bà vào.”
“No, no, you would not.“Không, không, ông sẽ không làm thế.
You are a gentleman.Ông là người cao thượng mà.
It is a woman's secret.”Đây là chuyện bí mật của đàn bà.”
“In the first place, you must give back this manuscript.”“Trước hết bà phải trả lại tập bản thảo đó.”
She broke into a ripple of laughter and walked to the fireplace.Bà ta bật ra một tràng cười và đi về phía lò sưởi.
There was a calcined mass which she broke up with the poker.Bà ta lấy thanh cời lửa xáo lên một mớ tàn tro.
“Shall I give this back?” she asked.“Trả lại cái này được sao?” Bà ta hỏi.
So roguish and exquisite did she look as she stood before us with a challenging smile that I felt of all Holmes's criminals this was the one whom he would find it hardest to face.Trông bà ta vừa gian manh vừa yêu kiều hết sức khi đứng đó với nụ cười thách thức, khiến tôi cảm thấy rằng trong tất cả những tên tội phạm Holmes đã đương đầu thì đây là kẻ mà anh sẽ thấy khó đối phó nhất.
However, he was immune from sentiment.Tuy nhiên Holmes đã miễn nhiễm với cảm xúc.
“That seals your fate,” he said coldly.“Vậy thì số phận bà đã an bài,” anh lạnh lùng nói.
“You are very prompt in your actions, madame, but you have overdone it on this occasion.”“Bà hành động rất nhanh, thưa bà, nhưng lần này bà đã làm quá lố rồi.”
She threw the poker down with a clatter.Bà ta thảy thanh cời lửa xuống đánh xoảng một tiếng.
“How hard you are!” she cried.“Ông thật khó chịu!” Bà ta kêu lên.
“May I tell you the whole story?”“Cho phép tôi kể toàn bộ câu chuyện chứ?”
“I fancy I could tell it to you.”“Tôi nghĩ tôi có thể kể cho bà nghe.”
“But you must look at it with my eyes, Mr. Holmes. You must realize it from the point of view of a woman who sees all her life's ambition about to be ruined at the last moment.“Nhưng ông phải nhìn bằng cặp mắt của tôi, ông Holmes ạ. Ông phải hiểu vấn đề theo cách nhìn của một người đàn bà đang thấy mọi tham vọng của đời mình sắp tiêu tan vào phút chót.
Is such a woman to be blamed if she protects herself?”Một người đàn bà như thế nếu phải tự vệ thì có đáng trách chăng?”
“The original sin was yours.”“Tội lỗi ban đầu là do bà gây ra.”
“Yes, yes!“Đúng, đúng!
I admit it.Tôi thừa nhận.
He was a dear boy, Douglas, but it so chanced that he could not fit into my plans.Cậu ấy là chàng trai đáng yêu, Douglas đấy, nhưng ngẫu nhiên là cậu ấy không phù hợp với các dự tính của tôi.
He wanted marriage -marriage, Mr. Holmes – with a penniless commoner.Cậu ấy muốn thành hôn, nghe chưa, ông Holmes; thành hôn với một thường dân không xu dính túi.
Nothing less would serve him.Cậu ấy không chấp nhận điều gì khác.
Then he became pertinacious.Rồi cậu ấy càng ngày càng cố chấp.
Because I had given he seemed to think that I still must give, and to him only.Vì tôi đã nhân nhượng nên cậu ấy dường như cứ nghĩ là tôi sẽ phải tiếp tục nhân nhượng, và chỉ với cậu ấy mà thôi.
It was intolerable.Thật không thể chịu nổi.
At last I had to make him realize it.”Cuối cùng tôi buộc cậu ấy phải hiểu ra.”
“By hiring ruffians to beat him under your own window.”“Bằng cách thuê bọn lưu manh hành hung cậu ta ngay dưới cửa sổ nhà bà.”
“You do indeed seem to know everything.“Coi bộ ông biết hết mọi chuyện rồi còn gì.
Well, it is true.Chà, đúng vậy đó.
Barney and the boys drove him away, and were, I admit, a little rough in doing so.Barney và đám thủ hạ đã tống cậu ấy đi, và tôi thừa nhận là chúng có hơi nặng tay khi hành sự.
But what did he do then?Nhưng sau đó thì cậu ấy làm gì chứ?
Could I have believed that a gentleman would do such an act?Tôi không thể ngờ một người hào hoa phong nhã có thể làm một chuyện như thế?
He wrote a book in which he described his own story. I, of course, was the wolf; he the lamb.Cậu ấy viết sách thuật lại chính câu chuyện của mình. Rõ ràng trong truyện tôi là chó sói còn cậu ta là cừu non.
It was all there, under different names, of course; but who in all London would have failed to recognize it?Tất cả rành rành trong đó, tất nhiên có thay tên đổi họ, nhưng ai ở London này mà không nhận ra chứ?
What do you say to that, Mr. Holmes?”Ông nghĩ sao, ông Holmes?”
“Well, he was within his rights.”“À, cậu ta có quyền làm thế.”
“It was as if the air of Italy had got into his blood and brought with it the old cruel Italian spirit.“Tuồng như phong vị nước Ý đã ngấm vào máu cậu ấy và tiêm nhiễm theo đó cái tinh thần Ý ác nghiệt xưa cũ.
He wrote to me and sent me a copy of his book that I might have the torture of anticipation.Cậu ấy viết thư và gửi cho tôi một bản thảo cuốn truyện khiến tôi sẽ phải khổ sở trong khi chờ nó xuất bản.
There were two copies, he said – one for me, one for his publisher.”Cậu ấy bảo chỉ có hai bản, một dành cho tôi, còn một dành cho nhà xuất bản.”
“How did you know the publisher's had not reached him?”“Làm sao bà biết nhà xuất bản chưa liên lạc với cậu ta?”
“I knew who his publisher was.“Tôi biết cậu ấy sẽ gửi nhà xuất bản nào.
It is not his only novel, you know.Đây không phải là tiểu thuyết duy nhất của cậu ấy, ông biết đó.
I found out that he had not heard from Italy.Rồi tôi biết cậu ấy bặt tin từ bên Ỷ.
Then came Douglas's sudden death.Tiếp đó Douglas chết bất thình lình.
So long as that other manuscript was in the world there was no safety for me.Chừng nào trên đời này còn tồn tại cái bản thảo kia thì tôi còn chưa an toàn.
Of course, it must be among his effects, and these would be returned to his mother.Nhất định nó phải nằm trong số đồ tư trang của cậu ấy, và những thứ đó sẽ được giao trả cho bà mẹ.
I set the gang at work.Tôi cho đám kia ra tay ngay.
One of them got into the house as servant.Một đứa trong bọn lọt vào nhà làm người hầu.
I wanted to do the thing honestly.Tôi muốn làm chuyện này một cách lương thiện.
I really and truly did.Tôi thực tình đã làm như thế.
I was ready to buy the house and everything in it.Tôi sẵn sàng mua lại căn nhà và hết những thứ trong đó.
I offered any price she cared to ask.Tôi chấp nhận bất cứ giá nào bà ta đưa ra.
I only tried the other way when everything else had failed.Khi mọi cách đã thất bại tôi mới thử hướng khác.
Now, Mr. Holmes, granting that I was too hard on Douglas – and, God knows, I am sorry for it!Đấy, ông Holmes, công nhận là tôi có quá đáng đối với Douglas… và nói có Chúa, tôi rất lấy làm tiếc!…
– what else could I do with my whole future at stake?”Nhưng khi toàn bộ tương lai của tôi lâm nguy thì tôi biết làm sao bây giờ?”
Sherlock Holmes shrugged his shoulders.Sherlock Holmes nhún vai. “Chà, chà,” anh nói.
“Well, well,” said he, “I suppose I shall have to compound a felony as usual.“Chắc tôi đành phải thỏa hiệp với tội phạm như thường lệ rồi.
How much does it cost to go round the world in first-class style?”Muốn đi vòng quanh thế giới ở hạng thượng lưu thì tốn bao nhiêu tiền?”
The lady stared in amazement.Người đàn bà kia trố mắt sửng sốt.
“Could it be done on five thousand pounds?”“Năm nghìn bảng Anh có đủ không?”
“Well, I should think so, indeed!”“Ồ, tôi nghĩ là đủ, chắc chắn!”
“Very good.“Hay lắm.
I think you will sign me a check for that, and I will see that it comes to Mrs. Maberley.Tôi nghĩ bà sẽ kí một chi phiếu chừng đó tiền cho tôi, và tôi sẽ lo liệu cho số tiền ấy đến tay bà Maberley.
You owe her a little change of air.Bà có nghĩa vụ phải giúp cho bà mẹ Douglas đi đổi gió.
Meantime, lady” – he wagged a cautionary forefinger – “have a care!Còn lúc này, thưa bà…” anh vung ngón tay trỏ ra cảnh cáo, “phải cẩn thận!
Have a care!Phải cẩn thận!
You can't play with edged tools forever without cutting those dainty hands.”Bàn tay thanh tú kia mà cứ chơi dao hoài thì có ngày đứt tay đó.”