Chương 1

Chapter 1Chương 1
20092009
There are 158 footsteps between the bus stop and home, but it can stretch to 180 if you aren’t in a hurry, like maybe if you’re wearing platform shoes.Bến xe buýt cách nhà 158 bước chân, nhưng có thể kéo ra thành 180 bước nếu không rảo cẳng, ví như phải lúc đang đi giày đế bục chẳng hạn.
Or shoes you bought from a charity shop that have butterflies on the toes but never quite grip the heel at the back, thereby explaining why they were a knock-down £1.99.Hoặc khi đi đôi giày mua từ một cửa hàng từ thiện, đôi giày có nơ bướm trên ngón chân nhưng không ôm gót, thế nên chẳng lạ khi nó hạ xuống chỉ còn 1.99 bảng.
I turned the corner into our street (68 steps), and could just see the house – a four-bedroomed semi in a row of other three- and four-bedroomed semis.Tôi rẽ qua góc vào đường nhà chúng tôi (68 bước) thì thấy ngay ngôi nhà - một căn nhà liên kế bốn phòng ngủ nằm trong dãy những căn nhà liên kế có ba đến bốn phòng ngủ.
Dad’s car was outside, which meant he had not yet left for work.Xe của bố vẫn ở bên ngoài, thế có nghĩa là bố vẫn chưa đi làm.
Behind me, the sun was setting behind Stortfold Castle, its dark shadow sliding down the hill like melting wax to overtake me.Sau lưng tôi, mặt trời cấp ló sau Lâu dài Stortfold, bóng tòa lâu đài đổ dài như sáp chảy xuống phủ chụp đấy tôi.
When I was a child we used to make our elongated shadows have gun battles, our street the O. K.Khi tôi còn nhỏ, cha con tôi thường chơi trò đấu súng với cái bóng dài ngoằng của chính mình, con đường chạy trước nhà là đấu trường O. K.
Corral.Corral.
On a different sort of day, I could have told you all the things that had happened to me on this route: where Dad taught me to ride a bike without stabilizers; where Mrs Doherty with the lopsided wig used to make us Welsh cakes; where Treena stuck her hand into a hedge when she was eleven and disturbed a wasp’s nest and we ran screaming all the way back to the castle.Nếu phải ngày khác, có lẽ tôi đã kể cho bạn nghe bao chuyện từng xảy ra với tôi trên tuyến đường này: nơi bố dạy tôi đi xe đạp mà không có bánh phụ; nơi bà Doherty có mái tóc giả rẽ ngôi lệch thường làm bánh kiểu xứ Wales cho chúng tôi; nơi mà năm mười một tuổi, Treena thọc tay vào bờ rào quậy một tổ ong vò vẽ để rồi chúng tôi vừa chạy vừa la hò ầm ĩ suốt dọc đường trở lại lâu đài.
Thomas’s tricycle was upturned on the path and, closing the gate behind me, I dragged it under the porch and opened the door.Chiếc xe đạp ba bánh của Thomas nằm chổng vó trên con đường, thế nên khi đã khép cổng lại sau lưng, tôi kéo nó vào dưới thềm rồi mở cửa nhà.
The warmth hit me with the force of an air bag; Mum is a martyr to the cold and keeps the heating on all year round.Khí ấm ùa vào tôi như một túi khí bung ra; mẹ rất sợ cái lạnh nên luôn giữ nhà ấm áp quanh năm.
Dad is always opening windows, complaining that she’d bankrupt the lot of us.Bố thì luôn mở cửa sổ, phàn nàn rằng mẹ tiêu phí bao nhiêu tiền của gia đình.
He says our heating bills are larger than the GDP of a small African country.Ông nói tiền sưởi nhà tôi còn cao hơn GDP của một đất nước be bé ở châu Phi.
‘That you, love?’“Con đó à, con yêu?”
‘Yup.’ I hung my jacket on the peg, where it fought for space amongst the others.“Vâng ạ.” Tôi treo áo khoác lên móc, phải chật vật lắm mới kiếm được chỗ cho nó giữa đống quần áo khác.
‘Which you?“Mà đứa nào đấy nhỉ?
Lou?Lou à?
Treena?’Hay Treena?”
‘Lou.’“Lou ạ.”
I peered round the living-room door.Tôi ngó quanh cửa phòng khách.
Dad was face down on the sofa, his arm thrust deep between the cushions, as if they had swallowed his limb whole.Bố tôi úp mặt lên sofa, cánh tay ông chọc sâu vào giữa đống gối nệm, như thể chúng đã nuốt gọn cả cánh tay ông.
Thomas, my five-year-old nephew, was on his haunches, watching him intently.Thomas, thằng cháu lên năm của tôi, đang ngồi trên mông ông, chăm chú ngắm nhìn ông.
‘Lego.’ Dad turned his face towards me, puce from exertion.“Hãng đồ chơi Lego.” Bố ngoảnh bên nhìn tôi, mặt nhăn nhúm vì nỗ lực.
‘Why they have to make the damned pieces so small I don’t know.“Sao người ta phải làm những mảnh nhỏ thế này bố cũng chẳng biết nữa.
Have you seen Obi-Wan Kenobi’s left arm?’Con có thấy cánh tay trái của Obi-Wan Kenobi không?”
‘It was on top of the DVD player. I think he swapped Obi’s arms with Indiana Jones’s.’“Nó nằm trên đầu đĩa DVD đấy ạ. Con nghĩ thằng bé đã đổi hai cánh tay của Obi với hai cánh tay của Indiana Jones.”
‘Well, apparently now Obi can’t possibly have beige arms.“À, có vẻ như giờ Obi không thể nào mang cánh tay màu be được nữa.
We have to have the black arms.’Chúng ta phải có cánh tay màu đen.”
‘I wouldn’t worry.“Chuyện đó thì có gì đáng lo đâu bố.
Doesn’t Darth Vader chop his arm off in episode two?’ I pointed at my cheek so that Thomas would kiss it.Chẳng phải ở tập hai Darth Vader chặt đứt cánh tay của Obi sao?” Tôi chỉ vào má mình để bảo Thomas hôn.
‘Where’s Mum?’“Mẹ đâu bố?”
‘Upstairs.“Trên lầu.
How about that?Thế thì sao chứ?
A two-pound piece!’Một mảnh ghép hai bảng đấy!”
I looked up, just able to hear the familiar creak of the ironing board.Tôi ngước lên, chỉ nghe được tiếng lách cách của cầu ủi.
Josie Clark, my mother, never sat down.Mẹ tôi, Josie Clark, không bao giờ ngồi không.
It was a point of honour.Đó là một chuyện để tự hào.
She had been known to stand on an outside ladder painting the windows, occasionally pausing to wave, while the rest of us ate a roast dinner.Điển hình nhất là cảnh bà đứng trên cái thang ngoài trời để sơn cửa sổ, thỉnh thoảng lại ngừng lại, vẫy vẫy tay, trong khi cả nhà chúng tôi đang ăn đồ nướng.
‘Will you have a go at finding this bloody arm for me?“Con có thể cầm cái cánh tay chết tiệt này cho bố được không?
He’s had me looking for half an hour and I’ve got to get ready for work.’Thằng bé bắt bố tìm nửa tiếng rồi, mà giờ bố phải chuẩn bị đi làm.”
‘Are you on nights?’“Bố phải làm đêm à?”
‘Yeah.“Ừ.
It’s half five.’Năm rưỡi.”
I glanced at the clock.Tôi liếc nhìn đồng hồ.
‘Actually, it’s half four.’“Thật ra mới bốn rưỡi mà.”
He extracted his arm from the cushions and squinted at his watch.Ông rút cánh tay ra khỏi đống gối rồi xem đồng hồ.
‘Then what are you doing home so early?’“Thế con làm gì ở nhà lúc còn sớm thế này?”
I shook my head vaguely, as if I might have misunderstood the question, and walked into the kitchen.Tôi khe khẽ lắc đầu như thể mình không hiểu được câu hỏi ấy, rồi đi vào bếp.
Granddad was sitting in his chair by the kitchen window, studying a sudoku.Ông ngoại đang ngồi trên chiếc ghế quen thuộc bên cửa sổ gian bếp, nghiên cứu một bảng Sudoku.
The health visitor had told us it would be good for his concentration, help his focus after the strokes.Bác sĩ thăm bệnh tại nhà đã nói với chúng tôi rằng trò đó tốt cho tính tập trung của ông, giúp ông dễ tập trung hơn sau khi bị tai biến.
I suspected I was the only one to notice he simply filled out all the boxes with whatever number came to mind.Tôi ngờ rằng mình là người duy nhất để ý thấy ông chỉ điền bừa vào tất cả các ô trống bất kể con số nào ngẫu nhiên xuất hiện trong đầu.
‘Hey, Granddad.’“Chào ông.”
He looked up and smiled.Ông ngước lên mỉm cười.
‘You want a cup of tea?’“Ông muốn uống trà không ạ?”
He shook his head, and partially opened his mouth.Ông lắc đầu, hơi mở miệng.
‘Cold drink?’“Nước mát nhé?”
He nodded.Ông gật đầu.
I opened the fridge door.Tôi mở cửa tủ lạnh.
‘There’s no apple juice.’ Apple juice, I remembered now, was too expensive.“Không có nước táo rồi.” Tôi sực nhớ ra nước táo quá đắt.
‘Ribena?’“Nước ngọt Ribena nhé?”
He shook his head.Ông lắc đầu.
‘Water?’“Nước lọc?”
He nodded, murmured something that could have been a thank you as I handed him the glass.Ông gật đầu, lẩm bẩm gì đó nghe như cảm ơn khi tôi đưa ly nước cho ông.
My mother walked into the room, bearing a huge basket of neatly folded laundry.Mẹ tôi đi vào bếp, bưng một giỏ bự đựng đồ mới giặt được gấp gọn gàng.
‘Are these yours?’ She brandished a pair of socks.Mẹ tôi huơ huơ một đôi tất. “Của con à?”
‘Treena’s, I think.’“Chắc là của Treena đấy.”
‘I thought so.“Thế mà mẹ cứ tưởng.
Odd colour.Màu mè gì mà kỳ cục.
I think they must have got in with Daddy’s plum pyjamas.Mẹ nghĩ đôi này đi tông với bộ pyjama màu mận chín của bố con.
You’re back early.Con về sớm thế.
Are you going somewhere?’Định đi đâu à?”
‘No.’ I filled a glass with tap water and drank it.“Không ạ.” Tôi vặn vòi hứng một ly nước đầy rồi uống.
‘Is Patrick coming round later?“Chốc nữa Patrick có tới không?
He rang here earlier.Ban nãy nó gọi đấy.
Did you have your mobile off?’Con tắt điện thoại à?”
‘Mm.’“Ừm.”
‘He said he’s after booking your holiday.“Nó nói nó đặt xong chỗ cho kỳ nghỉ của hai đứa rồi.
Your father says he saw something on the television about it.Bố con nói ông ấy có nghe về chỗ đó trên ti-vi.
Where is it you liked?Chỗ bọn con thích nằm ở đâu ấy nhỉ?
Ipsos?Ipsos?
Kalypsos?’Kalypsos?”
‘Skiathos.’“Skiathos.”
‘That’s the one.“Đúng là nó rồi.
You want to check your hotel very carefully.Con phải kiểm tra lại khách sạn thật cẩn thận nhé.
Do it on the internet.Kiểm tra qua internet ấy.
He and Daddy watched something on the news at lunchtime.Lúc trưa khi đang ăn, bố con và ông ngoại xem thấy gì đó trên bản tin.
Apparently they’re building sites, half of those budget deals, and you wouldn’t know until you got there.Hình như người ta đang xây mấy tòa nhà, nửa số ngân sách được duyệt rồi đấy, chưa tới tận nơi thì con chưa biết chắc được gì đâu.
Daddy, would you like a cup of tea?Bố ơi, bố uống trà không ạ?
Did Lou not offer you one?’ She put the kettle on then glanced up at me.Lou không mời bố à?” Mẹ tôi bật ấm nước lên rồi liếc nhìn tôi.
It’s possible she had finally noticed I wasn’t saying anything.Có lẽ cuối cùng bà cũng nhận ra nãy giờ tôi chưa nói gì.
‘Are you all right, love?“Con ổn cả chứ con yêu?
You look awfully pale.’Trông con nhợt nhạt kinh khủng.”
She reached out a hand and felt my forehead, as if I were much younger than twenty-six.Bà đưa tay kiểm tra trán tôi, như thể tôi còn bé bỏng lắm chứ không phải đã hai sáu tuổi.
‘I don’t think we’re going on holiday.’“Con không nghĩ bọn con sẽ đi nghỉ đâu.”
My mother’s hand stilled.Tay mẹ tôi khựng lại.
Her gaze had that X-ray thing that it had held since I was a kid.Ánh mắt bà vẫn chứa cái vẻ thấu hiểu vốn có từ thời tôi còn thơ dại.
‘Are you and Pat having some problems?’“Con với Pat đang trục trặc à?”
‘Mum, I –’“Mẹ à, con...”
‘I’m not trying to interfere.“Mẹ không định can thiệp đâu.
It’s just, you’ve been together an awful long time.Chỉ có điều hai đứa đã bên nhau lâu lắm rồi.
It’s only natural if things get a bit sticky every now and then.Cũng tự nhiên thôi nếu đôi khi mọi chuyện trở nên hơi bế tắc.
I mean, me and your father we –’Ý mẹ là, mẹ với bố con, bố mẹ...”
‘I lost my job.’“Con mất việc rồi.”
My voice cut into the silence.Giọng tôi khiến cả không gian lặng như tờ.
The words hung there, searing themselves on the little room long after the sound had died away.Những từ ấy cứ treo lơ lửng ở đó, rất lâu sau khi âm thanh đã tắt ngấm chúng mới chịu tự mình biến đi.
‘You what?’“Con làm sao cơ?”
‘Frank’s shutting down the cafe.“Frank đóng cửa quán cà-phê.
From tomorrow.’ I held out a hand with the slightly damp envelope I had gripped in shock the entire journey home.Từ ngày mai.” Tôi giơ ra chiếc phong bì hơi ẩm do tôi đã quá hoang mang mà siết chặt trên suốt đường về nhà.
All 180 steps from the bus stop.Suốt 180 bước chân từ bến xe buýt.
‘He’s given me my three months’ money.’“Ông ấy đưa con ba tháng lương.”
The day had started like any other day.Hôm nay cũng bắt đầu như bao ngày khác.
Everyone I knew hated Monday mornings, but I never minded them.Ai ai tôi biết cũng đều chẳng ưa gì sáng thứ Hai, nhưng với tôi thì không thành vấn đề.
I liked arriving early at The Buttered Bun, firing up the huge tea urn in the corner, bringing in the crates of milk and bread from the backyard and chatting to Frank as we prepared to open.Tôi luôn thích đến quán Bánh Bơ thật sớm, đỏ lửa đun bình trà to đùng để trong góc, bưng mấy thùng đựng sữa và bánh mì từ sân sau vào trong, và trò chuyện với Frank trong lúc chúng tôi chuẩn bị mở cửa tiệm.
I liked the fuggy bacon-scented warmth of the cafe, the little bursts of cool air as the door opened and closed, the low murmur of conversation and, when quiet, Frank’s radio singing tinnily to itself in the corner.Tôi thích hơi ấm nồng hương thịt xông khói của quán cà-phê, luồng khí lạnh khẽ ùa vào khi cửa mở ra khép lại, tiếng trò chuyện rì rầm, và khi không gian yên lặng thì có tiếng cái đài của Frank một mình ngân nga nho nhỏ trong góc.
It wasn’t a fashionable place – its walls were covered in scenes from the castle up on the hill, the tables still sported Formica tops, and the menu hadn’t altered since I started, apart from a few changes to the chocolate bar selection and the addition of chocolate brownies and muffins to the iced bun tray.Cái quán này không phải một nơi thời thượng - tường vẫn dán tranh phong cảnh tòa lâu đài trên đồi, mặt bàn vẫn đóng phoóc-mi-ca, thực đơn chẳng thay đổi gì kể từ ngày tôi vào làm, ngoài vài thay đổi ở mục lựa chọn thanh sô-cô-la và mục bánh sô-cô-la và bánh xốp ăn kèm với bánh kem.
But most of all I liked the customers.Nhưng điều quan trọng nhất là tôi rất yêu mến khách.
I liked Kev and Angelo, the plumbers, who came in most mornings and teased Frank about where his meat might have come from.Tôi thích Kev và Angelo, thợ sửa ống nước, hầu như sáng nào cũng đến và trêu chọc Frank rằng không biết người ông lấy ở đâu ra lắm thịt thế.
I liked the Dandelion Lady, nicknamed for her shock of white hair, who ate one egg and chips from Monday to Thursday and sat reading the complimentary newspapers and drinking her way through two cups of tea.Tôi thích Quý bà Bồ công anh, biệt danh đặt cho mái tóc trắng lạ kỳ của bà cụ, sáng thứ Hai cho tới sáng thứ Năm nào cụ cũng ăn một trái trứng và khoai tây chiên, ngồi đọc báo miễn phí của tiệm, và uống một mạch hai tách trà.
I always made an effort to chat with her.Tôi luôn cố trò chuyện với cụ.
I suspected it might be the only conversation the old woman got all day.Tôi ngờ đó là cuộc trò chuyện duy nhất trong suốt ngày dài của cụ.
I liked the tourists, who stopped on their walk up and down from the castle, the shrieking schoolchildren, who stopped by after school, the regulars from the offices across the road, and Nina and Cherie, the hairdressers, who knew the calorie count of every single item The Buttered Bun had to offer.Tôi thích khách du lịch, những người dừng chân trên hành trình lên xuống tòa lâu đài, thích lũ học trò ồn ào chí chóe ghé qua sau buổi tan trường, thích khách quen từ công sở dọc con đường, thích hai cô thợ làm đầu Nina và Cherie biết số ca-lo của từng món mà Bánh Bơ đưa ra.
Even the annoying customers, like the red-haired woman who ran the toyshop and disputed her change at least once a week, didn’t trouble me.Ngay cả những vị khách khó tính nhất, như cô nàng tóc đỏ chủ quán đồ chơi tuần nào cũng cự cãi chuyện tiền thừa ít nhất một lần, cũng không khiến tôi phiền lòng.
I watched relationships begin and end across those tables, children transferred between divorcees, the guilty relief of those parents who couldn’t face cooking, and the secret pleasure of pensioners at a fried breakfast.Tôi quan sát những tình yêu chớm nở rồi tàn bên những chiếc bàn ở đó, lũ trẻ chuyền qua đổi lại giữa những cặp đôi đã ly hôn, cảm giác được giải thoát dù trong lòng vẫn thấy có lỗi của những ông bố bà mẹ lười nấu ăn, và niềm vui sướng âm thầm của những người sống bằng tiền trợ cấp bên bữa điểm tâm toàn đồ chiên.
All human life came through, and most of them shared a few words with me, trading jokes or comments over the mugs of steaming tea.Bao nhiêu kiểu người ghé qua đây, hầu hết đều chia sẻ vài lời với tôi, pha hài hoặc bình luận qua những tách trà nghi ngút khói.
Dad always said he never knew what was going to come out of my mouth next, but in the cafe it didn’t matter.Bố luôn nói ông chẳng tài nào biết được lần tiếp theo tôi sẽ nói cái gì, nhưng trong quán cà phê thì chuyện đó đâu thành vấn đề.
Frank liked me.Frank quý tôi.
He was quiet by nature, and said having me there kept the place lively.Tính ông trầm lặng, thế nên ông bảo có tôi ở đó làm cho quán sôi động hẳn lên.
It was a bit like being a barmaid, but without the hassle of drunks.Công việc này hơi giống phục vụ quán bar, nhưng không có tiếng cãi lộn ầm ĩ của những kẻ say.
And then that afternoon, after the lunchtime rush had ended, and with the place briefly empty, Frank, wiping his hands on his apron, had come out from behind the hotplate and turned the little Closed sign to face the street.Thế rồi buổi chiều hôm đó, sau khi bữa trưa bận rộn kết thúc, khi quán ăn vắng lặng trong chốc lát, Frank lau tay vào tạp dề, rồi bước từ sau lò sưởi tới quay tấm bảng nhỏ có đề chữ Đóng cửa ngoảnh mặt ra đường.
‘Now now, Frank, I’ve told you before.“Nào nào, Frank, cháu bảo với chú rồi mà.
Extras are not included in the minimum wage.’ Frank was, as Dad put it, as queer as a blue gnu.Giờ làm thêm không tính vào lương tối thiểu đâu.” Nói theo cách của bố tôi thì Frank lạ lùng như một con linh dương đầu bò.
I looked up.Tôi ngước nhìn lên.
He wasn’t smiling.Ông không mỉm cười.
‘Uh-oh.“Ôi.
I didn’t put salt in the sugar cellars again, did I?’Cháu lại cho muối vào hũ đường phải không ạ?”
He was twisting a tea towel between his two hands and looked more uncomfortable than I had ever seen him.Ông vặn vẹo chiếc khăn mù soa giữa hai bàn tay, trông ông bối rối hơn bao giờ hết.
I wondered, briefly, whether someone had complained about me.Trong một thoáng tôi tự hỏi không biết có phải có vị khách nào phàn nàn về tôi.
And then he motioned to me to sit down.Thế rồi ông bảo tôi ngồi xuống.
‘Sorry, Louisa,’ he said, after he had told me.“Xin lỗi, Louisa,” ông nói tiếp.
‘But I’m going back to Australia.“Nhưng chú sắp trở lại Úc.
My Dad’s not too good, and it looks like the castle is definitely going to start doing its own refreshments.Sức khỏe bố chú không tốt lắm, mà có vẻ như tòa lâu đài cũng đang bắt đầu những ngày an dưỡng của chính nó rồi.
The writing’s on the wall.’Thời khắc suy tàn sắp đến.”
I think I sat there with my mouth actually hanging open.Tôi nghĩ khi ấy tôi đã ngồi đơ ra với cái miệng há hốc.
And then Frank had handed me the envelope, and answered my next question before it left my lips.Rồi Frank đưa cho tôi chiếc phong bì, và trả lời câu tôi toan hỏi thước khi nó kịp thoát khỏi môi tôi.
‘I know we never had, you know, a formal contract or anything, but I wanted to look after you.“Chú biết chúng ta chưa bao giờ ký hợp đồng chính thức hay gì cả, nhưng chú muốn chăm sóc cháu.
There’s three months’ money in there.Trong đó là ba tháng lương.
We close tomorrow.’Từ mai chúng ta đóng cửa.”
‘Three months!’ Dad exploded, as my mother thrust a cup of sweet tea into my hands.“Ba tháng!” Bố tôi la toáng lên, trong khi mẹ tôi dúi một tách trà ngọt vào tay tôi.
‘Well, that’s big of him, given she’s worked like a ruddy Trojan in that place for the last six years.’“Ôi chao, ông ta mới phóng khoáng làm sao, vì con bé đã làm việc như trâu như ngựa ở đó suốt sáu năm liền cơ mà.”
‘Bernard.’ Mum shot him a warning look, nodding towards Thomas.“Bernard.” Mẹ tôi ném cho bố một cái nhìn cảnh cáo, rồi gật đầu với Thomas.
My parents minded him after school every day until Treena finished work.Bố mẹ tôi chăm sóc thằng bé sau mỗi chiều tan học cho tới khi Treena xong việc.
‘What the hell is she supposed to do now?“Giờ thì con bé phải làm việc gì đây hả trời?
He could have given her more than a day’s bloody notice.’Đáng lẽ ông ta phải cho nó hơn một ngày chuẩn bị sau cái thông báo chết toi đó chứ.”
‘Well … she’ll just have to get another job.’“Ờ thì... con bé đi tìm việc khác là được chứ sao.”
‘There are no bloody jobs, Josie.“Chẳng có việc cóc khô nào cả, Josie.
You know that as well as I do.Em biết rõ không thua gì anh mà.
We’re in the middle of a bloody recession.’Chúng ta đang trong một cuộc khủng hoảng tồi tệ.”
Mum shut her eyes for a moment, as if composing herself before she spoke.Mẹ nhắm mắt lại một chốc, như thể để tự trấn an bản thân, rồi nói tiếp.
‘She’s a bright girl.“Nó là đứa thông minh sáng láng.
She’ll find herself something.Nó sẽ tìm được cho mình việc gì đó.
She’s got a solid employment record, hasn’t she?Nó có hồ sơ lao động đáng tin cậy phải không nào?
Frank will give her a good reference.’Frank sẽ nói tốt cho con bé.”
‘Oh, fecking marvellous …“Ôi tuyệt làm sao...
“Louisa Clark is very good at buttering toast, and a dab hand with the old teapot.”’‘Louisa Clark rất giỏi phủ bơ cho bánh mì nướng, và có tài xoay xở với bình trà cũ rích.’.”
‘Thanks for the vote of confidence, Dad.’“Cảm ơn vì sự khích lệ của bố.”
‘I’m just saying.’“Bố chỉ nói thế thôi.”
I knew the real reason for Dad’s anxiety.Tôi biết nguyên nhân sâu xa sự căng thẳng của bố.
They relied on my wages.Bố mẹ sống dựa vào đồng lương của tôi.
Treena earned next to nothing at the flower shop.Treena chẳng kiếm được là bao từ cửa hàng hoa.
Mum couldn’t work, as she had to look after Granddad, and Granddad’s pension amounted to almost nothing.Mẹ không làm được gì vì bà còn phải chăm sóc ông ngoại, và tiền trợ cấp của ông ngoại cũng không đáng kể.
Dad lived in a constant state of anxiety about his job at the furniture factory.Bố sống trong trạng thái lo lắng triền miên cho công việc ở xưởng sản xuất đồ gỗ gia dụng.
His boss had been muttering about possible redundancies for months.Mấy tháng nay ông chủ của bố cứ lầm rầm về khả năng thừa nhân sự.
There were murmurings at home about debts and the juggling of credit cards.Ở nhà thì lại có tiếng lầm rầm về nợ nần và chuyện duy trì thẻ tín dụng.
Dad had had his car written off by an uninsured driver two years previously, and somehow this had been enough for the whole teetering edifice that was my parents’ finances to finally collapse.Hai năm trước bố đã bán hạ giá chiếc xe của ông cho một tay tài xế không có bảo hiểm, và chẳng hiểu sao chuyện đó đủ khiến cho toàn bộ cái cơ ngơi đang lung lay là tài chính của bố mẹ tôi cuối cùng cũng sụp đổ.
My modest wages had been a little bedrock of housekeeping money, enough to help see the family through from week to week.Từ đó đồng lương nhỏ nhoi của tôi là khoản tiền chính eo hẹp dành cho chi tiêu trong nhà, đủ để giúp gia đình sống đắp đổi qua ngày.
‘Let’s not get ahead of ourselves.“Chúng ta đừng nói trước điều gì cả.
She can head down to the Job Centre tomorrow and see what’s on offer.Ngày mai con bé có thể đi thẳng xuống Trung tâm giới thiệu việc làm để xem có việc gì đang cần người không.
She’s got enough to get by for now.’ They spoke as if I weren’t there.Giờ thì nó phải chịu đựng đủ rồi đấy.” Họ nói chuyện cứ như thể tôi không ở đó.
‘And she’s smart.“Con bé rất thông minh cơ mà.
You’re smart, aren’t you, love?Con thông minh lắm, phải không con yêu?
Perhaps she could do a typing course.Có lẽ con bé sẽ học một khóa đánh máy.
Go into office work.’Đi làm việc văn phòng.”
I sat there, as my parents discussed what other jobs my limited qualifications might entitle me to.Tôi ngồi đó, trong khi bố mẹ tôi bàn luận xem bằng cấp hạn chế như tôi thì có thể làm được việc gì.
Factory work, machinist, roll butterer.Công nhân, thợ máy, người đánh bơ.
For the first time that afternoon I wanted to cry.Lần đầu tiên trong buổi chiều hôm đó, tôi muốn khóc.
Thomas watched me with big, round eyes, and silently handed me half a soggy biscuit.Thomas nhìn tôi chăm chú với đôi mắt to tròn và lẳng lặng đưa cho tôi một chiếc bánh quy.
‘Thanks, Tommo,’ I mouthed silently, and ate it.“Cảm ơn Tommo,” tôi thì thào khe khẽ, rồi ăn cái bánh.
He was down at the athletics club, as I had known he would be.Anh đang ở dưới đường, tôi biết rõ như thế.
Mondays to Thursdays, regular as a station timetable, Patrick was there in the gym or running in circles around the floodlit track.Từ thứ Hai tới thứ Năm, đều đặn như giờ tàu chạy, Patrick không ở trong phòng tập thể hình thì cũng chạy vòng vòng quanh con đường tràn ánh sáng.
I made my way down the steps, hugging myself against the cold, and walked slowly out on to the track, waving as he came close enough to see who it was.Tôi bước xuống bậc tam cấp, khoanh tay ôm người cho đỡ lạnh, chầm chậm bước ra đường, vẫy vẫy khi anh tới đủ gần để nhận ra tôi.
‘Run with me,’ he puffed, as he got closer.“Chạy với anh,” anh nói hổn hển khi tiến lại gần hơn.
His breath came in pale clouds.Hơi thở của anh tạo thành đám khói mờ mờ.
‘I’ve got four laps to go.’“Anh còn phải chạy bốn vòng nữa.”
I hesitated just a moment, and then began to run alongside him.Tôi ngần ngừ một thoáng, rồi bắt đầu chạy bên cạnh anh.
It was the only way I was going to get any kind of conversation out of him.Đó là cách duy nhất giúp tôi có thể trò chuyện đôi lời với anh.
I was wearing my pink trainers with the turquoise laces, the only shoes I could possibly run in.Tôi đang đi đôi giày màu hồng với dây buộc màu xanh ngọc, đôi giày duy nhất tôi đủ tiền mua.
I had spent the day at home, trying to be useful.Cả ngày hôm nay tôi ở nhà, cố gắng tỏ ra có ích.
I’m guessing it was about an hour before I started to get under my mother’s feet.Nhưng chắc chỉ được một giờ đồng hồ là tôi ríu chân mẹ.
Mum and Granddad had their routines, and having me there interrupted them.Mẹ và ông ngoại tôi có nhịp sống riêng, thế nên sự có mặt của tôi làm họ vướng víu.
Dad was asleep, as he was on nights this month, and not to be disturbed.Bố thì đang ngủ, vì tháng này phải làm đêm, nên không bị quấy quả.
I tidied my room, then sat and watched television with the sound down and when I remembered, periodically, why I was at home in the middle of the day I had felt an actual brief pain in my chest.Tôi dọn phòng riêng, rồi bật ti-vi thật nhỏ để xem, chốc chốc khi nhớ ra vì sao mình lại ở nhà giữa buổi ngày thế này, tôi lại cảm thấy ngực mình đau nhói.
‘I wasn’t expecting you.’“Anh không nghĩ lại thấy em cơ đấy.”
‘I got fed up at home.“Em chán ở nhà rồi.
I thought maybe we could do something.’Em đã nghĩ biết đâu chúng ta có thể làm gì đó.”
He looked sideways at me.Anh nhìn nghiêng qua tôi.
There was a fine film of sweat on his face.Anh khéo léo khoác lên vẻ mặt dịu dàng.
‘The sooner you get another job, babe, the better.’“Em yêu, em tìm được việc khác càng sớm càng tốt đấy.”
‘It’s all of twenty-four hours since I lost the last one.“Em mới mất việc cũ cả thảy có hai mươi tư giờ thôi mà.
Am I allowed to just be a bit miserable and floppy?Em có được phép buồn bã u sầu một chút xíu không?
You know, just for today?’Anh biết đấy, chỉ trong hôm nay thôi?”
‘But you’ve got to look at the positive side.“Nhưng em phải nhìn vào mặt tích cực.
You knew you couldn’t stay at that place forever.Em đã biết em không thể làm ở chỗ đó mãi mà.
You want to move upwards, onwards.’ Patrick had been named Stortfold Young Entrepreneur of the Year two years previously, and had not yet quite recovered from the honour.Em phải tiến lên, tiến tới.” Hai năm trước Patrick được khen thưởng Doanh nhân trẻ Stortfold tiêu biểu, đến giờ vẫn chưa thoát khỏi cái bóng vinh quang đó.
He had since acquired a business partner, Ginger Pete, offering personal training to clients over a 40-mile area, and two liveried vans on the HP.Từ ngày ấy, anh yêu cầu Ginger Pete, một cộng sự, đưa ra chương trình huấn luyện thể hình cho khách hàng trong vòng bán kính 40 dặm cùng hai xe tải chuyên dụng hỗ trợ.
He also had a whiteboard in his office, on which he liked to scrawl his projected turnover with thick black markers, working and reworking the figures until they met with his satisfaction.Trong văn phòng của anh còn có bảng trắng, anh thích dùng bút dạ màu đen thật đậm nguệch ngoạc lên đó doanh số dự kiến, sửa đi sửa lại những con số đó cho tới khi chúng khiến anh hài lòng mới thôi.
I was never entirely sure that they bore any resemblance to real life.Tôi chẳng bao giờ dám chắc mười mươi rằng chúng có giống với thực tế tí nào hay không.
‘Being made redundant can change people’s lives, Lou.’ He glanced at his watch, checking his lap time.“Mất việc nhiều khi có thể thay đổi cuộc đời của người ta đấy Lou ạ.” Anh liếc đồng hồ, kiểm tra ô đếm giờ.
‘What do you want to do?“Em muốn làm gì?
You could retrain.Em có thể học nghề.
I’m sure they do a grant for people like you.’Anh tin rằng họ sẽ làm được rất nhiều cho những người như em.”
‘People like me?’“Người như em?”
‘People looking for a new opportunity.“Những người đang tìm kiếm cơ hội mới.
What do you want to be?Em muốn trở thành người thế nào?
You could be a beautician.Em có thể chăm sóc sắc đẹp.
You’re pretty enough.’ He nudged me as we ran, as if I should be grateful for the compliment.Em đủ xinh đấy.” Anh thúc tay tôi khi chúng tôi chạy, như thể tôi phải thấy biết ơn về lời khen ngợi đó.
‘You know my beauty routine.“Anh biết nhịp điệu làm đẹp của em mà.
Soap, water, the odd paper bag.’ Patrick was beginning to look exasperated.Xà phòng, nước, túi giấy quê cục.” Patrick đang bắt đầu tỏ vẻ chán ngán.
I was starting to lag behind.Tôi dần dần tụt lại phía sau.
I hate running.Tôi ghét chạy.
I hated him for not slowing down.Tôi ghét anh không chịu chạy chậm lại.
‘Look … shop assistant.“Nghe này... nhân viên bán hàng.
Secretary.Thư ký.
Estate agent.Nhân viên đại lý nhà đất.
I don’t know … there must be something you want to do.’Anh không biết nữa... phải có việc gì đó em muốn làm chứ.”
But there wasn’t.Nhưng đâu có.
I had liked it in the cafe.Tôi đã rất thích làm việc ở quán cà-phê.
I liked knowing everything there was to know about The Buttered Bun, and hearing about the lives of the people who came through it.Tôi thích biết mọi thứ cần phải biết ở quán Bánh Bơ, thích nghe về cuộc đời của những người ghé qua đó.
I had felt comfortable there.Tôi đã rất thoải mái khi ở đấy.
‘You can’t mope around, babe.“Em không thể chán nản hoài được, em yêu.
Got to get over it.Phải vượt qua chứ.
All the best entrepreneurs fight their way back from rock bottom.Mọi doanh nhân hàng đầu đều tìm được cho mình con đường vươn lên sau bước thăng trầm.
Jeffrey Archer did it.Jeffrey Archer làm được.
So did Richard Branson.’ He tapped my arm, trying to get me to keep up.Richard Branson cũng thế.” Anh vỗ vào cánh tay tôi, cố thúc tôi chạy theo cho kịp.
‘I doubt if Jeffrey Archer ever got made redundant from toasting teacakes.’ I was out of breath.“Em nghi ngờ liệu đã bao giờ Jeffrey Archer mất việc nướng bánh ngọt chưa.” Tôi thở không ra hơi.
And I was wearing the wrong bra.Tôi đang mặc áo lót không phù hợp.
I slowed, dropped my hands down on to my knees.Tôi chạy chậm lại, thõng hai tay trên đầu gối.
He turned, running backwards, his voice carrying on the still, cold air.Anh quay người, chạy giật lùi, giọng anh mang theo không khí tĩnh mịch lạnh ngắt.
‘But if he had …“Nhưng giả sử ông ấy từng...
I’m just saying.Anh nói thế thôi.
Sleep on it, put on a smart suit and head down to the Job Centre.Quên chuyện kia đi, mặc một bộ quần áo tươm tất, đi thẳng tới Trung tâm giới thiệu việc làm.
Or I’ll train you up to work with me, if you like.Hoặc anh sẽ huấn luyện em để làm việc với anh, nếu em thích.
You know there’s money in it.Em biết việc đó cũng hái ra tiền đấy.
And don’t worry about the holiday.Và đừng lo lắng về kỳ nghỉ.
I’ll pay.’Anh sẽ trả.”
I smiled at him.Tôi mỉm cười với anh.
He blew a kiss and his voice echoed across the empty stadium.Anh hôn gió, giọng anh vang vọng khắp đường chạy vắng vẻ.
‘You can pay me back when you’re back on your feet.’“Em có thể trả lại anh khi em đã ổn định trở lại.”
I made my first claim for Jobseeker’s Allowance.Nỗ lực đầu tiên của tôi là tìm kiếm Trợ cấp cho người tìm việc.
I attended a 45-minute interview, and a group interview, where I sat with a group of twenty or so mismatched men and women, half of whom wore the same slightly stunned expression I suspected I did, and the other half the blank, uninterested faces of people who had been here too many times before.Tôi tham gia một cuộc phỏng vấn 45 phút, một cuộc phỏng vấn nhóm, trong đó tôi ngồi với một nhóm khoảng hai mươi người cả đàn ông và đàn bà chẳng tương hợp với nhau, một nửa số họ có cùng vẻ mặt hơi thảng thốt mà tôi ngờ là giống với nét mặt tôi, nửa khác là những người có bộ mặt vô hồn vô cảm vì họ đã tới đây quá nhiều lần rồi.
I wore what my Dad deemed my ‘civilian’ clothes.Tôi mặc bộ đồ mà bố tôi gọi là “đồ bình dân.”
As a result of these efforts, I had endured a brief stint filling in on a night shift at a chicken processing factory (it had given me nightmares for weeks), and two days at a training session as a Home Energy Adviser.Hệ quả của những nỗ lực đó, tôi đã phải chịu đựng làm trọn một ca đêm ở lò giết mổ gà (việc này khiến tôi gặp ác mộng ròng rã suốt mấy tuần liền), và hai ngày theo khóa tập huấn làm Người tư vấn sức khỏe tại nhà.
I had realized pretty quickly that I was essentially being instructed to befuddle old people into switching energy suppliers, and told Syed, my personal ‘adviser’ that I couldn’t do it.Chẳng mấy chốc tôi nhận ra rằng về cơ bản tôi đang được đào tạo để chăm sóc người già, thế nên tôi nói với Syed, “người tư vấn” của cá nhân tôi rằng tôi không làm được việc đó.
He had been insistent that I continue, so I had listed some of the practices that they had asked me to employ, at which point he had gone a bit quiet and suggested we (it was always ‘we’ even though it was pretty obvious that one of us had a job) try something else.Anh ta khăng khăng bảo tôi tiếp tục, vậy là tôi liệt kê ra một loạt việc người ta sẽ bắt tôi làm, nghe tôi nói thế thì anh im lặng một lát rồi gợi ý rằng chúng tôi (luôn là “chúng tôi” dù khá rõ ràng là người kia trong chúng tôi đã có việc làm) sẽ thử công việc khác.
I did two weeks at a fast food chain.Tôi làm hai tuần trong một chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh.
The hours were okay, I could cope with the fact that the uniform made my hair static, but I found it impossible to stick to the ‘appropriate responses’ script, with its ‘How can I help you today?’ and its ‘Would you like large fries with that?’ I had been let go after one of the doughnut girls caught me debating the varying merits of the free toys with a four-year-old.Khoảng thời gian đó cũng ổn, tôi có thể đối phó được chuyện chiếc mũ đồng phục làm tóc tôi cứng đơ, nhưng tôi không chịu nổi cứ phải bám chặt vào kịch bản “những lời đáp phù hợp”, với những câu như “Hôm nay tôi có thể giúp gì cô?” và “Anh có muốn phần khoai tây chiên cỡ lớn với món đó không?” Tôi đã bị cho thôi việc sau khi một tràng những cô nàng bán bánh vòng bắt gặp tôi đang bàn tán về bao nhiêu giá trị khác nhau của đồ chơi trí tuệ với một đứa trẻ bốn tuổi.
What can I say?Tôi có thể nói gì được đây?
She was a smart four-year-old.Nó là một cô bé bốn tuổi rất thông minh.
I also thought the Sleeping Beauties were sappy.Tôi thì cũng có cùng ý nghĩ là những nàng công chúa ngủ trong rừng thật là ngớ ngẩn.
Now I sat at my fourth interview as Syed scanned through the touch screen for further employment ‘opportunities’.Giờ tôi đang ngồi tham dự cuộc phỏng vấn thứ tư, Syed lướt suốt màn hình máy tính cảm ứng để tìm thêm “cơ hội” việc làm.
Even Syed, who wore the grimly cheerful demeanour of someone who had shoehorned the most unlikely candidates into a job, was starting to sound a little weary.Ngay cả Syed, luôn mang thái độ vô cùng vui vẻ của một người đã giúp những ứng viên khó tìm việc nhất có công việc, cũng đang bắt đầu nói giọng hơi chán nản.
‘Um …“À...
Have you ever considered joining the entertainment industry?’Cô đã bao giờ nghĩ tới chuyện tham gia công nghiệp giải trí chưa?”
‘What, as in pantomime dame?’“Sao cơ, như diễn viên kịch câm ấy hả?”
‘Actually, no.“Thật ra không phải thế.
But there is an opening for a pole dancer.Nhưng có một vị trí trống cần vũ nữ múa cột.
Several, in fact.’Đúng hơn là mấy vị trí.”
I raised an eyebrow.Tôi nhướng mày.
‘Please tell me you are kidding.’“Xin hãy nói với tôi là anh đang đùa đi.”
‘It’s thirty hours a week on a self-employed basis.“Ba mươi giờ một tuần tùy chọn thời điểm.
I believe the tips are good.’Tôi tin là tiền boa sẽ cao.”
‘Please, please tell me you have not just advised me to get a job that involves parading around in front of strangers in my underwear.’“Làm ơn, làm ơn nói với tôi là không phải anh đang tư vấn cho tôi làm một công việc mà tôi phải mặc đồ lót lượn lờ trước mặt người lạ.”
‘You said you were good with people.“Cô nói cô cởi mở với mọi người.
And you seem to like … theatrical … clothing.’ He glanced at my tights, which were green and glittery.Và trông cô có vẻ... lòe loẹt... quần áo.” Anh liếc nhìn xuống chiếc quần bó của tôi, nó mang màu xanh đính kim sa.
I had thought they would cheer me up.Tôi đã nghĩ nó sẽ làm tôi vui vẻ lên.
Thomas had hummed the theme tune from The Little Mermaid at me for almost the whole of breakfast.Thomas đã ngâm nga bản nhạc nền của phim hoạt hình Nàng tiên cá để trêu chọc tôi gần như suốt giờ ăn sáng.
Syed tapped something into his keyboard.Syed gõ gì đó lên bàn phím.
‘How about “adult chat line supervisor”?’“Thế ‘người giám sát phòng chat dành cho người lớn’ thì sao?”
I stared at him.Tôi nhìn anh trân trân.
He shrugged.Anh ta nhún vai.
‘You said you liked talking to people.’“Cô bảo cô thích nói chuyện với mọi người mà.”
‘No.“Không.
And no to semi-nude bar staff.Và không làm tiếp viên quán bar bán khỏa thân.
Or masseuse.Hay nhân viên mát-xa.
Or webcam operator.Hay người điều chỉnh webcam.
Come on, Syed.Thôi nào, Syed.
There must be something I can do that wouldn’t actually give my dad a heart attack.’Phải có việc gì đó tôi có thể làm mà thực sự không khiến bố tôi lên cơn đau tim chứ.”
This appeared to stump him.Điều này có vẻ làm anh ta bế tắc.
‘There’s not much left outside flexi-hour retail opportunities.’“Chẳng còn gì nhiều ngoài những cơ hội bán hàng thời gian tự do.”
‘Night-time shelf stacking?’ I had been here enough times now to speak their language.“Việc xếp hàng trên giá siêu thị buổi tối thì sao?” Tôi đã làm việc đó nhiều lần nên rất thành thạo.
‘There’s a waiting list.“Có cả một danh sách chờ ở đây.
Parents tend to go for it, because it suits the school hours,’ he said apologetically.Phụ huynh có xu hướng thích làm việc đó, vì nó trùng với giờ tới trường của con cái,” Anh ta nói giọng có lỗi.
He studied the screen again.Rồi anh ta lại nghiên cứu màn hình.
‘So we’re really left with care assistant.’“Thế thì chúng ta thực sự chỉ còn lại việc chăm sóc thôi.”
‘Wiping old people’s bottoms.’“Rửa đít cho người già.”
‘I’m afraid, Louisa, you’re not qualified for much else.“Louisa ạ, tôi e là cô không đủ tiêu chuẩn làm gì khác.
If you wanted to retrain, I’d be happy to point you in the right direction.Nếu cô muốn được học nghề, tôi sẽ rất vui lòng chỉ cho cô định hướng đúng.
There are plenty of courses at the adult education centre.’Có rất nhiều khóa học ở trung tâm giáo dục dành cho người lớn.”
‘But we’ve been through this, Syed.“Nhưng chúng ta đã nói rõ chuyện này rồi mà, Syed.
If I do that, I lose my Jobseeker money, right?’Nếu tôi làm thế, tôi sẽ mất tiền trợ cấp người tìm việc, phải không?”
‘If you’re not available for work, yes.’“Đúng thế, vì cô không còn rảnh rang để sẵn sàng làm việc.”
We sat there in silence for a moment.Chúng tôi ngồi im lặng một lát.
I gazed at the doors, where two burly security men stood.Tôi nhìn ra cửa, nơi có hai anh chàng bảo vệ lực lưỡng đang đứng.
I wondered if they had got the job through the Job Centre.Tôi tự hỏi có phải họ tìm được công việc đó qua Trung tâm giới thiệu việc làm này.
‘I’m not good with old people, Syed.“Tôi không giỏi chăm sóc người già đâu Syed.
My granddad lives at home since he had his strokes, and I can’t cope with him.’Ông tôi sống cùng nhà kể từ khi bị tai biến, tôi không xoay xở được với ông.”
‘Ah.“A!
So you have some experience of caring.’Thế là cô đã có chút kinh nghiệm chăm sóc.”
‘Not really.“Không hẳn.
My mum does everything for him.’Mẹ tôi làm mọi thứ cho ông.”
‘Would your mum like a job?’“Mẹ cô có thích một công việc giống vậy không?”
‘Funny.’“Buồn cười.”
‘I’m not being funny.’“Có gì buồn cười đâu.”
‘And leave me looking after my granddad?“Còn để tôi chăm sóc ông tôi ư?
No thanks.Không đâu, cảm ơn.
That’s from him, as well as me, by the way.Ông tôi sẽ bảo thế, mà phải nói là cả tôi cũng vậy.
Haven’t you got anything in any cafes?’Anh có việc gì ở quán cà-phê không?”
‘I don’t think there are enough cafes left to guarantee you employment, Louisa.“Tôi không nghĩ là còn đủ quán cà-phê để đảm bảo việc làm cho cô, Louisa.
We could try Kentucky Fried Chicken.Chúng ta có thể thử làm ở quán gà rán Kentucky.
You might get on better there.’Ở đó cô kiếm được tốt hơn đấy.”
‘Because I’d get so much more out of offering a Bargain Bucket than a Chicken McNugget?“Bởi vì phục vụ gà rán thì tôi sẽ nhận được nhiều hơn phục vụ bánh đùi gà hay sao?
I don’t think so.’Tôi không nghĩ thế đâu.”
‘Well, then perhaps we’ll have to look further afield.’“À, thế thì có lẽ chúng ta sẽ phải tìm việc ra xa xa.”
‘There are only four buses to and from our town.“Chỉ có bốn chuyến xe buýt lên xuống từ thị trấn nhà tôi.
You know that.Anh biết rồi đấy.
And I know you said I should look into the tourist bus, but I rang the station and it stops at 5pm.Và tôi biết anh đã bảo tôi nên xem xét tới xe buýt du lịch, nhưng tôi đã gọi cho nhà ga thì biết năm giờ chiều là hết chuyến rồi.
Plus it’s twice as expensive as the normal bus.’Vả lại giá vé đắt gấp đôi xe buýt bình thường.”
Syed sat back in his seat.Syed ngả lưng ra ghế.
‘At this point in proceedings, Louisa, I really need to make the point that as a fit and able person, in order to continue qualifying for your allowance, you need –’“Thế thì thế này, Louisa ạ, tôi thực sự phải nói rõ rằng với tư cách một người phù hợp và được phép nhận tiền trợ cấp, để tiếp tục đủ tiêu chuẩn nhận khoản tiền đó, cô cần...”
‘– to show that I’m trying to get a job.“... thể thiện rằng tôi đang nỗ lực tìm việc.
I know.’Tôi biết chứ.”
How could I explain to this man how much I wanted to work?Làm sao tôi giải thích được với người đàn ông này tôi muốn làm việc tới mức nào?
Did he have the slightest idea how much I missed my old job?Anh ta có láng máng hiểu dù chỉ một chút xíu tôi nhớ công việc cũ ra sao hay không?
Unemployment had been a concept, something droningly referred to on the news in relation to shipyards or car factories.Thất nghiệp với tôi vốn chỉ là một khái niệm, một thứ được nhắc đến bai bải trên bản tin về các xưởng đóng tàu và nhà máy sản xuất ô-tô.
I had never considered that you might miss a job like you missed a limb – a constant, reflexive thing.Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng con người ta có thể nhớ công việc như nhớ chân tay mình - một thứ gắn bó máu thịt như thân thể.
I hadn’t thought that as well as the obvious fears about money, and your future, losing your job would make you feel inadequate, and a bit useless.Tôi đã không nghĩ rằng mất việc không chỉ mang lại nỗi lo sợ hiện hữu về tiền bạc và tương lai, mà còn khiến ta thấy bản thân thiếu khả năng, hơi vô dụng.
That it would be harder to get up in the morning than when you were rudely shocked into consciousness by the alarm.Ta sẽ cảm thấy khó thức dậy mỗi sáng hơn cả khi bị đồng hồ báo thức đánh thức một cách phũ phàng.
That you might miss the people you worked with, no matter how little you had in common with them.Ta sẽ nhớ những người từng làm việc cùng mình, bất kể ta với họ có ít điểm chung ra sao.
Or even that you might find yourself searching for familiar faces as you walked the high street.Hoặc thậm chí có khi ta còn phát hiện ra mình đang tìm kiếm những gương mặt thân quen trong khi cuốc bộ trên phố đông.
The first time I had seen the Dandelion Lady wandering past the shops, looking as aimless as I felt, I had fought the urge to go and give her a hug.Lần đầu tiên nhìn thấy Quý bà Bồ công anh thẩn thơ đi qua quán cũ, trông cụ ngơ ngác như chính cảm giác trong lòng tôi lúc đó, tôi phải cố lắm mới kiềm chế được thôi thúc bước tới ôm cụ một cái.
Syed’s voice broke into my reverie.Giọng Syed phá tan khoảnh khắc mơ màng của tôi.
‘Aha.“Aha.
Now this might work.’Việc này có khi phù hợp đây.”
I tried to peer round at the screen.Tôi cố soi mắt vào màn hình.
‘Just come in.“Nhìn kỹ xem nào.
This very minute.Mục này nhỏ lắm.
Care assistant position.’Vị trí chăm sóc.”
‘I told you I was no good with –’“Tôi đã bảo anh là tôi không giỏi chăm sóc...”
‘It’s not old people.“Đây không phải người già.
It’s a … a private position.Đây là một... vị trí riêng.
To help in someone’s house, and the address is less than two miles from your home.Giúp việc trong nhà người ta, địa chỉ cách nhà cô khoảng ba cây số.
“Care and companionship for a disabled man.” Can you drive?’‘Chăm sóc và đồng hành với một người đàn ông khuyết tật.’ Cô biết lái xe không?”
‘Yes.“Có.
But would I have to wipe his –’Nhưng tôi có phải chùi...”
‘No bottom wiping required, as far as I can tell.’ He scanned the screen.“Không yêu cầu chùi đít, theo tôi thấy thì thế.” Anh ta lướt khắp màn hình.
‘He’s a … a quadriplegic.“Anh ta bị... bị liệt tứ chi.
He needs someone in the daylight hours to help feed and assist.Anh ta cần một người cho ăn và giúp việc ban ngày.
Often in these jobs it’s a case of being there when they want to go out somewhere, helping with basic stuff that they can’t do themselves.Thường thì với những việc như thế này, người làm cần có mặt khi họ muốn đi đâu đó ra ngoài, giúp đỡ những việc căn bản mà họ không thể tự làm.
Oh.Oa.
It’s good money.Nhiều tiền đấy.
Quite a lot more than the minimum wage.’Nhiều hơn lương tối thiểu nhiều.”
‘That’s probably because it involves bottom wiping.’“Có lẽ là vì công việc đòi hỏi phải chùi đít.”
‘I’ll ring them to confirm the absence of bottom wiping.“Tôi sẽ gọi cho họ để đảm bảo không có vụ chùi đít.
But if that’s the case, you’ll go along for the interview?’Nhưng nếu đó là yêu cầu bắt buộc, cô vẫn sẽ tới phỏng vấn chứ?”
He said it like it was a question.Anh nói câu đó như đặt câu hỏi.
But we both knew the answer.Nhưng cả hai chúng tôi đều biết câu trả lời.
I sighed, and gathered up my bag ready for the trip home.Tôi thở dài, rồi cầm túi lên chuẩn bị lên đường về nhà.
‘Jesus Christ,’ said my father.“Chúa ơi,” bố tôi thốt lên.
‘Can you imagine?“Các người có tưởng tượng nổi không?
If it wasn’t punishment enough ending up in a ruddy wheelchair, then you get our Lou turning up to keep you company.’Nếu kết cục cuộc đời phải ngồi trên một chiếc xe lăn kềnh càng chưa phải là một hình phạt đủ nặng, thì các người sẽ có Lou nhà tôi tới làm bạn với các người đây.”
‘Bernard!’ my mother scolded.“Bernard!” mẹ tôi gắt.
Behind me, Granddad was laughing into his mug of tea.Sau lưng tôi, ông ngoại cười khùng khục bên tách trà trên tay.