29 – Hai bài thi của Thất Nương và Bát Nương lúc ban sơ mới khai Đạo.

Q.5/29: HAI BÀI THI CỦA THẤT NƯƠNG VÀ BÁT NƯƠNG LÚC BAN SƠ MỚI KHAI ĐẠO. Q.5/29: TWO POEMS BY THE SEVENTH AND EIGHTH LADY IMMORTALS FROM WHEN THE WAY WAS FIRST OPENED.
Đền Thánh đêm 30/8 năm Nhâm Thìn (1952) Great Divine Temple on the night of the 30th day of the 8th lunar month of the year of the Dragon (1952)
Hôm nay Bần Đạo giảng hai bài thi của Thất và Bát Nương lúc ban sơ mới khai Đạo, trong hai bài thi ấy cả Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên Hội Thánh và con cái của Ngài chẳng luận Nam, Nữ suy gẫm rồi sẽ thấy lời tiên tri kết liễu ngày nay một cách lạ thường, nhứt là đêm nay Bần Đạo giảng cho mấy em Luật Sự Hiệp Thiên Đài lãnh sứ mạng đi cùng các nơi cầm cân công bình Thiêng Liêng của Đạo. Today, I will preach on two poems by the Seventh and Eighth Lady Immortals from when the Way was first opened. In these two poems, if the entire Divine Body of the Supreme Being—that is, the Sacerdotal Council and His children, both male and female—ponders them, they will see the prophecies fulfilled today in a remarkable way. This is especially so tonight, as I preach for the younger siblings of the Law Section of the Heavenly Union Palace who have received the mission to go to various places holding the Divine Scale of Justice of the Way.
Vả chăng chơn lý của Đạo Cao Đài đã tỏ cho toàn thể nhơn sanh đều hiểu lời tiên tri của Phật Giáo đã nói: Qua cuối Hạ nguơn Đức Chí Tôn đến để mở Hội Long Hoa đặng lập vị cho Đức Di Lặc Vương Phật. Indeed, the true principle of the Cao Đài Religion has revealed to all humanity the meaning of the Buddhist prophecy that says: At the end of the Lower Cycle, the Supreme Being will come to open the Long Hoa Assembly to establish the position for the Maitreya King Buddha.
Nhưng khi ấy cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Ngọc Hư Cung cầu xin Đức Ngài để cho các Đấng ấy đảm đương phận sự thay thế cho Ngài. But at that time, all the Deities, Saints, Immortals, and Buddhas at the Jade Void Palace pleaded with His Holiness to allow them to take on the duty on His behalf.
Vì cớ cho nên Ngài không đi, Ngài không có đến tức nhiên Ngài không có giáng trần tái kiếp. For that reason, He did not go; He did not come, meaning He did not descend to the mortal world to be reincarnated.
Từ thử đến giờ, Bần Đạo chưa hề biết nói đến sứ mạng Thiêng Liêng của Bần Đạo, là vì Đức Chí Tôn không đi, nên mới có Hộ Pháp của Ngài đến. From the beginning until now, I have never spoken of my own Divine Mission. It is because the Supreme Being did not go that His Hộ Pháp had to come.
Hộ Pháp của Ngài đến, cốt yếu thay thế cho Ngài đặng lập vị cho Đức Phật Di Lặc Vương Phật mở Hội Long Hoa, tức nhiên sứ mạng của Hộ Pháp là cầm cân công bình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó, nắm cả tâm lý tinh thần nơi mặt địa cầu này đặng hòa giải hầu sửa đương tâm đức tinh thần của nhơn loại, tức nhiên là Ngài đến trước khi mở Hội Long Hoa tạo Tiên, Phật tâm đức từ trong cửa Thánh của họ đặng họ từ từ bước đến phẩm vị của họ tại mặt thế này. His Hộ Pháp came, essentially to act on His behalf to establish the position for the Maitreya King Buddha and open the Long Hoa Assembly. That is, the mission of the Hộ Pháp is to hold the Divine Scale of Justice entrusted by the Supreme Being, to grasp the entire psychology and spirit of this earth in order to reconcile and reform the hearts and minds and virtues of humanity. That is, He came before the opening of the Long Hoa Assembly to create Immortal and Buddha-like hearts and virtues from within their holy gates so that they may gradually step toward their rank in this world.
Ngày giờ nào nhơn sanh đã tiến bước, Bần Đạo chỉ nói một người mà thôi, đạt được Phật Vị thì ngày ấy Hội Long Hoa mới mở, mà Hội Long Hoa chưa mở thì Đức Di Lặc Vương chưa có đến, nghe cho rõ rồi nhớ, phải chăng là chung tâm cả thảy Thánh Thể và con cái của Ngài thấy cái trường Đời tức nhiên nhơn quần xã hội đương ly loạn, mà chính trong một quốc dân Đức Chí Tôn đến đặng lựa chọn một phần làm Thánh Thể của Ngài tức là nước Việt Nam đương nhiên, mà ngày giờ này cũng bị đảo lộn loạn ly hỗn loạn, mà lẽ dĩ nhiên là hễ không có hỗn loạn thì tức không có bình trị. The day humanity has progressed—I am only speaking of one person—to achieve the rank of a Buddha, only on that day will the Long Hoa Assembly open. And as long as the Long Hoa Assembly has not opened, the Maitreya King has not yet come. Listen clearly and remember this. Is it not so that the entire Divine Body and His children all see that the Temporal field—that is, human society—is in turmoil and chaos? And it is precisely within a nation that the Supreme Being came to select a portion to be His Divine Body, which is the nation of Vietnam, and at this time it too is overturned, in turmoil, and chaos. But it is a matter of course that if there is no chaos, there is no peace and order.
Chúng ta đã thấy luật thiên nhiên tương đối kia muốn cho nước đục được trong, phải đánh cho nó đảo lộn đi rồi nó mới lóng phèn nước mới trong lại được. We have seen in that law of natural opposites that to make murky water clear, you must stir it up so it is overturned, and then it will settle and the water will become clear again.
Cuộc thế đương thời là vậy đó. Bây giờ vận mạng nước nhà Nam cũng thế ấy, phải có loạn mới có bình trị, cũng như chúng ta thấy giờ này đạo lý đã xuất hiện, và nhờ đạo lý ấy họ mới nhìn nhận Hội Thánh chúng ta, mà chúng ta có sợ sệt chi chăng? The worldly situation today is just like that. Now the destiny of our nation of Nam is the same; there must be chaos before there can be peace and order. Just as we see at this hour that the doctrine has appeared, and thanks to that doctrine they now recognize our Sacerdotal Council. But should we have any fear?
Bần Đạo nói: Chẳng hề khi nào biết sợ, Bần Đạo quả quyết như thế. I say: I have never known fear, I affirm it as such.
Đây là cái bằng cớ mà con cái của Đức Chí Tôn đã thấy rõ, từ khi mở Đạo đã gặp khó khăn ấy rồi. Bần Đạo chưa hề sợ ai làm khó hết. This is the proof that the children of the Supreme Being have clearly seen; since the founding of the Way we have encountered these difficulties. I have never feared anyone making things difficult.
Càng hỗn loạn ấy Bần Đạo cũng mở tầm mắt xem coi và đợi kết liễu của nó. Bần Đạo chẳng hề khi nào khủng khiếp, tại sao lại khủng khiếp chớ! In the midst of that chaos, I also open my eyes to watch and await its conclusion. I am never terrified. Why should I be terrified?
Đức Chí Tôn biểu mình hiến trọn Tam Bửu của mình tức là mảnh thân phàm, trí não và linh hồn mình cho Ngài, thì mảnh xác thân của ta đây đã làm tế vật cho Ngài, thì dầu chết dầu sống vì thời thế nào cũng không sao, vì rằng: Dầu ta đương sống với Đời mà đã chết với Đời còn sống cốt là sống vì Đạo, có gì phòng sợ, cái gì mà khủng khiếp? The Supreme Being told us to offer our entire Three Treasures to Him, which is our mortal body, our mind, and our soul. So this fleshly body of ours has already been made a sacrificial victim for Him, so whether we live or die due to the circumstances does not matter, because: Though we are living with the World, we have already died to the World; our remaining life is essentially a life for the Way. What is there to fear? What is there to be terrified of?
Khủng khiếp là điều bạc nhược của chúng ta đó. Terror is our own weakness.
Cái trường đời còn đảo ngược thì Bần Đạo càng có phương thế đem cái sứ mạng của mình làm cho nó có mực thước. As long as the temporal field is still overturned, the more I have the means to use my mission to bring it to a standard measure.
Trái ngược lại Bần Đạo cầu cho như thế, cái hổn loạn ấy nó khởi từ lúc ban sơ. On the contrary, I pray for it to be so. That chaos started from the very beginning.
Đức Chí Tôn đến đặng đem mối Đạo đưa cho con cái của Ngài, tức nhiên là các phần tử Thánh Thể của Ngài đầu tiên mà Ngài đã đến kiếm. The Supreme Being came to bring the thread of the Way and gave it to His children, who were the first elements of His Divine Body that He came to seek.
Ngài tự đưa cái hỗn loạn ấy, cái khó khăn ấy khởi đương trong gia đình Thánh Thể của Ngài là mỗi phần tử ấy, Bần Đạo trông lại đàn anh của chúng ta cho đến Bần Đạo đây cũng vậy, đem thân vào cửa Thánh của Ngài thì thấy khổ nhọc khó khăn biết bao nhiêu. He Himself brought that chaos, that difficulty, and it started within the family of His Divine Body, in each of those elements. I look back at our elder brothers, and at myself here as well, and upon entering His holy gate, how much hardship and difficulty we have seen.
Nói đến sứ mạng yếu trọng của mình hôm nay thì cũng thế đó. To speak of our important mission today, it is also the same.
Trong gia đình có hỗn loạn, có thống khổ thì tới xã hội nhơn quần cũng vậy, cớ sao xã hội có như thế? When there is chaos and suffering in the family, so too will it be in human society. Why is society like this?
Phương pháp ấy cốt để cho toàn cả nhơn quần xã hội thấy đặng khó khăn thống khổ tức phải thọ khổ rồi mới thắng khổ. That method is essentially to let the whole of human society see the difficulty and suffering, for one must suffer hardship before one can overcome hardship.
Bài thi của Bát Nương lúc ban sơ nói về nỗi khó khăn khởi đương của nền Tôn giáo của Ngài mà Ngài đã gánh vác, đã đảm đương, thấy cái khó khăn ấy Bần Đạo lại e sợ cho phần tử Hiệp Thiên Đài làm không đặng mà thối chí ngã lòng. The poem by the Eighth Lady Immortal in the beginning spoke of the initial difficulties of His Religion that He had shouldered and taken on. Seeing those difficulties, I grew afraid that the members of the Heavenly Union Palace would not be able to do it and would lose heart and become discouraged.
Buổi nọ Bát Nương đến kêu Bà Nữ Chánh Phối Sư của chúng ta, Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu là bạn thân của Đức Cao Thượng Phẩm, làm một bài thi mình thương Đạo kêu nói ngay Bà Nữ Chánh Phối Sư một điều, để Bần Đạo đọc rồi cả thảy nghe câu văn cũng ngộ nghĩnh, cho kêu Bà Nữ Chánh Phối Sư lại: At that time, the Eighth Lady Immortal came and called for our Female Principal Archbishop. The Female Principal Archbishop Hương Hiếu was a close friend of The Venerable Cao Thượng Phẩm. She composed a poem expressing love for the Way, speaking directly to the Female Principal Archbishop. Let me read it, and all will hear how peculiar the words are, as she called for the Female Principal Archbishop:
Bài Thi
Mua vải dùm em để phất diều,
Treo văn trước mõ mới là kêu.
Cánh sườn cột nẹp cân cho đúng,
Lèo lái so dây gióng đặng đều.
Luồng gió ồ ào vừa thổi dậy,
Mấy anh tỉnh mỉnh phóng lên kêu.
Chín từng lồng lộng bay cho thấu,
Thì hiểu Hiệp Thiên nghĩa ít nhiều.
Poem
Buy fabric for me, brother, to let a kite arise,
Adorn its “mouth” with scriptures, and then its voice will cry.
The wings and ribs, the frame must be bound true,
The bridle lines adjusted, balanced through and through.
When a great, rushing wind begins to rise,
The wise and skillful launch it, hear its soaring cries.
Let it fly on, piercing the Nine Vast Spheres on high,
Then you will grasp the meaning of Hiệp Thiên, by and by.
Đức Hộ Pháp giải nghĩa từ câu. Nhứt câu: “Treo văn trước mõ mới là kêu” Ngài nói thêm ý chỉ nói văn mà thôi chớ không phải võ. His Holiness Hộ Pháp explains it line by line. The first line: “‘Hang the writing before the bell, only then will it call’.” He adds that the intention is only to speak of literary/civil means, not martial means.
Khi đến viếng Hội Thánh Ngoại Giáo nơi Tần Quốc Kiêm Biên xong việc, Đức Quyền Giáo Tông và Bần Đạo tính về Tòa Thánh, Bát Nương muốn cầm lại. Giáng làm Bài Thi như vầy: After visiting the Foreign Missionary Council in Tần Quốc (Cambodia) and finishing their work, His Holiness the Acting Pope and I planned to return to the Holy See. The Eighth Lady Immortal wanted to keep us there. She descended and composed this Poem:
Dường đợi Thanh Loan đến Hớn Đài,
Tửu Tiên chưa phỉ tỉnh cùng say.
Nghe danh Ông Tắc, Y lìa ruộng,
Lóng tiếng Vua Nghiêu, Thuấn bỏ cày.
Ái vật Thành Thang quên dở ná,
Thương dân Hạ Võ mặc hài gai.
Ngóng mưa đã đợi ba thu mãn,
Cứu chúng hờn ai chẳng trổ tài.

!
As if for the Luan bird, the Han Court holds its breath,
The Poet-Sage is lost, between drunken life and death.
At a word from the Master, the sage Yi left his field;
At the call of King Yao, the great Shun let his plow yield.
King Tang, in his mercy, let his hunting nets fall slack;
Great Yu, for his people, wore thorns upon his track.
For three long autumns now, we’ve yearned for saving rain;
Who is there to blame, when talent hides its hand from pain?
Đức Chí Tôn mới mở Đại Đạo thì Hội Thánh Ngoại Giáo đã cầu cơ, Bát Nương đến biểu chúng ta đem cả năng lực đặng cứu chúng sanh, sứ mạng cứu thế phải khổ hạnh khó khăn thế nào, nguy hiểm thế nào! When the Supreme Being had just opened the Great Way, the Foreign Missionary Council was already using spirit-writing. The Eighth Lady Immortal came and told us to use all our strength to save sentient beings. How difficult and arduous the mission of salvation is, how dangerous!
Bần Đạo để cho con cái Đức Chí Tôn suy gẫm hiểu cho thấu, tự hiểu lấy mình vì nó không phải khó kiếm hiểu. I leave it for the children of the Supreme Being to ponder and understand thoroughly, to understand for themselves, because it is not difficult to grasp.



×

Giải Thích Chi Tiết Bài Thơ

Bài thơ này là một tác phẩm hàm súc, sử dụng nhiều điển cố (những câu chuyện lịch sử, thần thoại Trung Hoa) để nói lên một tâm trạng chung: sự mong mỏi, chờ đợi một đấng minh quân, một bậc hiền tài xuất thế để cứu đời trong lúc loạn lạc, khổ đau. Toàn bài thơ là một lời than, một sự trăn trở về thời cuộc.

Phân Tích Từng Câu:

Dường đợi Thanh Loan đến Hớn Đài,
Tửu Tiên chưa phỉ tỉnh cùng say.

Nghĩa đen & Điển cố:
Thanh Loan: Là một loài chim thần thoại giống như phượng hoàng, nhưng là giống mái. Nó là biểu tượng của sự thánh thiện, của điềm lành, và của người phụ nữ tài đức, hiền hậu.
Hớn Đài (Đài Hán): Chỉ triều đình, cung điện nhà Hán, một triều đại thịnh trị.
Tửu Tiên (Tiên Rượu): Thường dùng để chỉ nhà thơ Lý Bạch, một bậc tài hoa lỗi lạc nhưng không gặp thời, phải mượn rượu để giải sầu.

Ý nghĩa: Hai câu này vẽ nên một bối cảnh chờ đợi. Giống như đang trông ngóng một điềm lành (chim Thanh Loan) đến với một triều đại huy hoàng (Hớn Đài), nhưng mãi vẫn chưa thấy. Người tài (Tửu Tiên) thì đang trong trạng thái nửa tỉnh nửa say, lòng chưa thỏa mãn, tài năng chưa có đất dụng võ. Nó thể hiện tâm trạng của một người hiền tài đang khắc khoải chờ đợi minh chủ xuất hiện, chờ thời cơ để ra giúp đời, nhưng thời cơ ấy vẫn chưa đến.

Nghe danh Ông Tắc, Y lìa ruộng,
Lóng tiếng Vua Nghiêu, Thuấn bỏ cày.

Nghĩa đen & Điển cố:
Ông Tắc (Hậu Tắc) & Y (Y Doãn): Y Doãn là một hiền tài đang ẩn mình cày ruộng, nghe danh vua Thành Thang nhà Thương là một minh quân thì liền từ bỏ cuộc sống ẩn dật để ra phò tá.
Vua Nghiêu & Vua Thuấn: Là hai vị vua hiền trong truyền thuyết. Vua Nghiêu nghe tiếng vua Thuấn là người tài đức đang cày ruộng, đã tìm đến và nhường ngôi cho ông.

Ý nghĩa: Hai câu này đưa ra những tấm gương sáng trong lịch sử. Đó là những người hiền tài (Y Doãn, Thuấn) khi nghe tin có minh chủ (Thành Thang, Nghiêu) thì không ngần ngại từ bỏ cuộc sống cá nhân yên bình (“lìa ruộng”, “bỏ cày”) để dấn thân vì việc lớn. Điều này đặt ra một tiêu chuẩn: bậc hiền tài luôn sẵn sàng phụng sự khi gặp được vua hiền.

Ái vật Thành Thang quên dở ná,
Thương dân Hạ Võ mặc hài gai.

Nghĩa đen & Điển cố:
Ái vật Thành Thang: “Ái vật” nghĩa là yêu thương muôn loài. Vua Thành Thang nhà Thương ra lệnh mở một lối thoát cho chim thú khi đi săn, thể hiện lòng nhân từ vô hạn.
Hạ Võ mặc hài gai: Vua Võ nhà Hạ (Đại Vũ), người có công trị thủy, đã ba lần đi ngang qua nhà mà không ghé vào, dốc hết tâm sức lo việc cho dân, đến mức chân đi “hài gai” (dép cỏ), thân mình mệt mỏi, rã rời.

Ý nghĩa: Hai câu này ca ngợi những đức tính cần có của một đấng minh quân: lòng nhân từ bao la và tinh thần hy sinh quên mình, hết lòng vì dân vì nước.

Ngóng mưa đã đợi ba thu mãn,
Cứu chúng hờn ai chẳng trổ tài.

Nghĩa đen: “Ngóng mưa” là hình ảnh dân chúng đang chịu cảnh hạn hán, mong mỏi một cơn mưa để cứu vãn sự sống. “Ba thu mãn” tức là đã ba năm trôi qua, một thời gian dài đằng đẵng.

Ý nghĩa: Đây là hai câu kết, đúc kết lại toàn bộ tâm trạng của bài thơ.
“Ngóng mưa đã đợi ba thu mãn”: Ví cảnh dân chúng đang lầm than, khổ sở như trời đất đang hạn hán. Họ đã chờ đợi sự cứu giúp, chờ đợi một vị minh quân từ rất lâu.
“Cứu chúng hờn ai chẳng trổ tài”: Đây là một lời than mà cũng là một lời trách móc nhẹ nhàng, đầy day dứt. Có thể hiểu theo hai nghĩa:

1. (Trách người tài): Việc cứu giúp chúng sanh đang cấp bách, sao những người có tài năng lại không chịu ra tay (“chẳng trổ tài”)? Còn hờn giận ai, còn chờ đợi điều gì nữa?

2. (Than cho thời thế): Cần phải cứu vớt chúng sanh, nhưng hờn trách ai đây khi thời thế chưa tới, không có cơ hội cho người tài ra tay giúp đời?

Tổng Kết Ý Nghĩa

Bài thơ là một bức tranh về thời loạn lạc, nơi người dân thì lầm than (“ngóng mưa”), còn người tài thì khắc khoải chờ thời (“Tửu Tiên chưa phỉ”). Tác giả đã mượn những tấm gương trong lịch sử về vua hiền (Nghiêu, Thuấn, Thang, Võ) và tôi trung (Y Doãn, Thuấn) để nói lên khát vọng về một thế giới thái bình, nơi vua sáng tôi hiền, cùng nhau gánh vác việc thiên hạ. Câu kết là đỉnh điểm của sự trăn trở, một lời kêu gọi thầm lặng và thống thiết, mong mỏi người có tài đức hãy xuất hiện để cứu giúp chúng sanh đang trong cơn khốn khó.


Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.