CHƯƠNG XVII. Luận về cách khảo nghiệm và tìm ra Công năng của vạn vật qua sự thân hữu và xung khắc.

CHAP. XVII. CHƯƠNG XVII.
How by enmity and friendship the vertues of things are to be tryed, and found out. Luận về cách khảo nghiệm và tìm ra Công năng của vạn vật qua sự thân hữu và xung khắc.
In the next place it is requisite that we consider that all things have a friendliness, and enmity amongst themselves, and every thing hath something that it fears & dreads, that is an enemy, and destructive to it. Tiếp theo, ta cần phải suy xét rằng vạn vật đều có sự thân hữu và xung khắc với nhau. Mỗi vật đều có thứ mà mình sợ hãi, e ngại, xem là kẻ thù và có thể hủy diệt mình;
And on the contrary something that it rejoyceth, and delighteth in, and is strengthened by. ngược lại, cũng có thứ mà mình vui mừng, hân hoan, và được bồi bổ sức mạnh nhờ vào đó.
So in the Elements, fire is an enemy to Water, and Aire to Earth, but yet they agree among themselves. Như trong các Nguyên tố, Lửa xung khắc với Nước, và Khí xung khắc với Đất, nhưng chúng lại hòa hợp với nhau.
And again, in Celestiall bodies, Mercury, Jupiter, the Sun and Moon are friends to Saturne; Mars, and Venus enemies to him. Một lần nữa, trong các thiên thể, sao Thủy, sao Mộc, Mặt Trời và Mặt Trăng là bằng hữu của sao Thổ; sao Hỏa và sao Kim lại là kẻ thù của sao Thổ.
All the Planets besides Mars are friends to Jupiter; also all besides Venus hate Mars; Mọi hành tinh ngoài sao Hỏa đều là bằng hữu của sao Mộc, và cũng vậy, mọi hành tinh ngoài sao Kim đều ghét sao Hỏa.
Jupiter, and Venus love the Sun, Sao Mộc và sao Kim yêu mến Mặt Trời;
Mars, Mercury, and the Moon are enemies to him, Sao Hỏa, sao Thủy và Mặt Trăng là kẻ thù của Mặt Trời;
all besides Saturne love Venus; Mọi hành tinh ngoài sao Thổ đều yêu mến sao Kim.
Jupiter, Venus, and Saturne are friends to Mercury, Sao Mộc, sao Kim và sao Thổ là bằng hữu của sao Thủy;
the Sun, Moon, and Mars his enemies. Mặt Trời, Mặt Trăng và sao Hỏa là kẻ thù của vị tinh tú này.
Jupiter, Venus, Saturne are friends to the Moon, Sao Mộc, sao Kim và sao Thổ là bằng hữu của Mặt Trăng;
Mars, and Mercury her enemies. Sao Hỏa và sao Thủy là kẻ thù của Mặt Trăng.
There is another kind of enmity amongst the Stars, viz. when they have opposite houses; as Saturne to the Sun and Moon, Jupiter to Mercury, Mars to Venus. Còn có một loại xung khắc khác giữa các Tinh tú, đó là khi chúng có các cung nhà đối lập nhau; như sao Thổ với Mặt Trời và Mặt Trăng, sao Mộc với sao Thủy, sao Hỏa với sao Kim.
And their enmity is stronger, whose exaltations are opposite: as of Saturne, and the Sun; of Jupiter, and Mars; of Venus, and Mercury. Và sự xung khắc lại càng mạnh mẽ hơn ở những tinh tú có vị trí vượng địa đối lập nhau: như sao Thổ và Mặt Trời; sao Mộc và sao Hỏa; sao Kim và sao Thủy.
But their friendship is the strongest, who agree in nature, quality, substance, and power; as Mars with the Sun, as Venus with the Moon, as Jupiter with Venus. Nhưng tình thân hữu lại mạnh mẽ nhất ở những tinh tú hòa hợp về bản chất, phẩm tính, thực thể và quyền năng; như sao Hỏa với Mặt Trời, như sao Kim với Mặt Trăng, như sao Mộc với sao Kim.
As also their friendship whose exaltation is in the house of another, as that of Saturne with Venus, of Jupiter with the Moon, of Mars with Saturn, of the Sun with Mars, of Venus with Jupiter, of the Moon with Venus. Tình thân hữu cũng mạnh mẽ ở những cặp tinh tú có vị trí vượng địa nằm trong cung nhà của nhau, như sao Thổ với sao Kim, sao Mộc với Mặt Trăng, sao Hỏa với sao Thổ, Mặt Trời với sao Hỏa, sao Kim với sao Mộc, và Mặt Trăng với sao Kim.
And of what sort the friendships, and enmities of the superiours be, such are the inclinations of things subjected to them in these inferiour. Và mối thân hữu hay xung khắc ở các cõi trên ra sao, thì các thiên hướng của vạn vật chịu sự chi phối của chúng ở cõi hạ giới này cũng như vậy.
These dispositions therefore of friendship, and enmity are nothing else but certain inclinations of things of the one to another, desiring such, and such a thing if it be absent, and to move towards it, unless it be hindered, and to acquiess in it when it is obtained, shunning the contrary, and dreading the approach of it, and not resting in, or being contented with it. Do đó, những tính khí thân hữu và xung khắc này không là gì khác ngoài những thiên hướng nhất định của vạn vật đối với nhau, khao khát một vật nào đó khi vắng mặt, và vận động về phía vật đó trừ khi bị cản trở, rồi an yên trong vật đó khi đã thủ đắc được; đồng thời lại né tránh, sợ hãi sự tiếp cận của cái đối nghịch, không bao giờ yên ổn hay hài lòng với sự hiện diện của cái đó.
Heraclitus therefore being guided by this opinion, professed that all things were made by enmity & friendship. Heraclitus, được dẫn dắt bởi quan điểm này, đã tuyên bố rằng vạn vật được tạo ra bởi sự xung khắc và thân hữu.
Now the inclinations of Friendship are such in Vegetables and Minerals, as is that attractive inclination, which the Loadstone hath upon Iron, and the Emrald upon riches, and favour; the Jasper upon the birth of any thing, and the Stone Achates upon Eloquence. Bấy giờ, các thiên hướng Thân hữu trong thế giới Thảo mộc và Khoáng vật cũng tương tự như khuynh hướng thu hút mà Đá nam châm có đối với Sắt, Ngọc lục bảo đối với sự giàu sang và ân huệ, Ngọc thạch bích đối với sự sinh nở, và đá Achates đối với tài hùng biện.
In like manner there is a kind of Bituminous Clay that draws Fire, and leaps into it, wheresoever it sees it. Tương tự, có một loại đất sét chứa dầu hắc có thể hút Lửa, và lao vào ngọn lửa ở bất cứ nơi nào nó thấy.
Even so doth the root of the Hearb Aproxis draw Fire from afar off. Rễ của loài thảo mộc Aproxis cũng có thể hút lửa từ xa.
Also the same inclination there is betwixt the male palme, and female: whereof when the bough of one shall touch the bough of the other, they fold themselves into mutual embraces, neither doth the female bring forth fruit without the male. Cũng có một thiên hướng tương tự giữa cây chà là đực và cây chà là cái; khi cành của cây này chạm vào cành của cây kia, chúng sẽ quấn quýt lấy nhau, và cây cái sẽ không ra quả nếu không có cây đực.
And the Almond tree, when she is alone is less fruitfull. Cây hạnh nhân khi đứng một mình cũng kém sai quả.
The Vines love the Elme, and the Olive-tree, and myrtle love one the other: also the Olive-tree, and Fig tree. Nho yêu cây du, và cây ô-liu với cây sim yêu mến nhau; cây ô-liu và cây vả cũng vậy.
Now in Animals there is amity betwixt the Blackbird, and Thrush, betwixt the Crow, and Heron, betwixt Peacocks, and Pigeons, Turtles, and Parrats. Trong thế giới Động vật, có tình thân hữu giữa chim sáo và chim hoét, giữa quạ và diệc, giữa công và bồ câu, chim cu và vẹt.
Whence Sappho writes to Phaon. Do đó, Sappho đã viết cho Phaon rằng:
To Birds unlike oftimes joyned are white Doves; Cặp bồ câu trắng đâu nhất thiết phải cùng loài,
Also the Bird that’s green, black Turtle loves. Vẹt xanh yêu mến chim cu đen cũng là lẽ thường tình.
Again, the Whale, and the little Fish his guide are friendly. Lại nữa, cá voi và con cá nhỏ dẫn đường cho nó cũng rất thân thiện.
Neither is this amity in Animals amongst themselves, but also with other things, as with Metals, Stones, and Vegetables. Tình thân hữu này không chỉ có giữa các loài động vật với nhau, mà còn với các vật khác như kim loại, đá, và thảo mộc.
So the Cat delights in the Hearb Nip, by rubbing her self upon which she is said to conceive without a male; and there be Mares in Cappadocia, that expose themselves to the blast of the wind, and by the attraction thereof conceive. Mèo ưa thích loài thảo mộc Nepeta (cỏ mèo), và người ta nói rằng khi chà xát thân mình vào loài cỏ này, mèo cái có thể thụ thai mà không cần con đực; và ở Cappadocia có những con ngựa cái tự phơi mình trước gió, và nhờ sức hút của gió mà thụ thai.
So Frogs, Toads, Snakes, and all manner of creeping poisonous things delight in the Plant called Pas-flower, of whom, as the Physitians say, if any one eat, he shall dye with laughing. Các loài ếch, cóc, rắn và mọi loài bò sát có độc đều ưa thích loài thực vật được gọi là hoa Pas-flower, loài hoa mà các y sĩ nói rằng nếu ai ăn phải sẽ cười đến chết.
The Tortoise also when he is hunted by the Adder, eats Origanum, and is thereby strengthened: and the Stork, when he hath eat Snakes, seeks for a remedy in Origanum: and the Weesell, when he goes to fight with the Basilisk, eats Rue, whence we come to know that Origanum, and Rue are effectuall against poison. Con rùa khi bị rắn săn đuổi, liền ăn lá kinh giới cay và nhờ đó mà mạnh mẽ hơn; con hạc, sau khi ăn rắn, cũng tìm đến lá kinh giới cay như một phương thuốc giải độc; con chồn, khi chuẩn bị chiến đấu với Basilisk, liền ăn cây cửu lý hương (Rue). Từ đó chúng ta biết được rằng lá kinh giới cay và cây cửu lý hương có hiệu quả chống lại độc dược.
So in some Animals there is an imbred skil, and medicinall art; for when the Toad is wounded with a bite or poison of another Animall, he is wont to go to Rue, or Sage, and Rub the place wounded, and so escapes the danger of the poison. Trong một số loài vật, có một kỹ năng bẩm sinh và một nghệ thuật chữa bệnh. Khi con cóc bị một con vật khác cắn hoặc trúng độc, nó thường tìm đến cây cửu lý hương hoặc cây xô thơm, chà xát vào vết thương và nhờ vậy mà thoát khỏi nguy hiểm của nọc độc.
So men have learned many excellent remedies of diseases, & vertues of things from bruits; Con người cũng đã học được nhiều phương thuốc chữa bệnh tuyệt vời và các công năng của sự vật từ loài vật.
So Swallows have shewed us that Sallendine is very medicinable for the sight, with which they cure the eyes of their young, and the pye when she is sick, puts a Bay-leafe into her nest, and is recovered. Loài én đã cho chúng ta thấy rằng cây hoàng liên rất tốt cho thị lực, chúng dùng hoàng liên để chữa mắt cho con non. Chim ác khi bị bệnh, liền tha một chiếc lá nguyệt quế về tổ và khỏe lại.
In like manner, Cranes, Dawes, Partriges, Blackbirds purge their nauseous stomacks with the same, Tương tự, sếu, quạ gáy xám, gà gô, chim sáo đều thanh lọc dạ dày khó chịu của mình bằng lá nguyệt quế.
with which also Crows allay the poison of the Chameleon; Cũng với loại lá này, quạ có thể giải độc của tắc kè hoa.
and the Lyon, if he be feavorish, is recovered by eating of an Ape. Sư tử, nếu bị sốt, sẽ khỏi bệnh bằng cách ăn thịt một con vượn.
The Lapwing being surfetted with eating of Grapes, cures himself with Southernwood; Chim te te khi ăn quá nhiều nho, liền tự chữa trị bằng loài ngải đắng.
so the Harts have taught us that the Hearb Ditany is very good to draw out Darts; for they being wounded with an Arrow, cast it out by eating of this Hearb: Loài hươu đã dạy chúng ta rằng thảo mộc Ditany rất tốt để lấy mũi tên ra; khi bị tên bắn, chúng liền ăn loài thảo mộc này để đẩy mũi tên ra ngoài.
the same do Goats in Candy. Loài dê ở đảo Crete cũng làm như vậy.
So Hinds, a little before they bring forth, purge themselves with a certain Hearb called Mountain Osier. Hươu cái, ngay trước khi sinh con, tự thanh lọc cơ thể bằng một loài thảo mộc gọi là Mountain Osier.
Also they that are hurt with Spiders, seek a remedy by eating of Crabs: Những người bị nhện cắn tìm phương thuốc bằng cách ăn cua;
Swine also being hurt by Snakes cure themselves by eating of them; Lợn bị rắn cắn tự chữa bằng cách ăn chính những con rắn đó;
and Crows when they perceive they are poisoned with a kinde of French poison, seek for cure in the Oake; và quạ khi nhận thấy mình bị trúng một loại độc của Pháp, liền tìm cách chữa trị từ cây sồi;
Elephants, when they have swallowed a Chameleon help themselves with the wild olive. Voi, khi nuốt phải một con tắc kè hoa, liền tìm đến cây ô liu dại để tự cứu.
Bears being hurt with Mandrakes, escape the danger by eating of Pismires. Gấu bị thương vì cây Mandrake liền thoát nạn bằng cách ăn kiến.
Geese, Ducks, and such like watery fowle, cure themselves with the Hearb called will-sage. Ngỗng, vịt và các loài thủy cầm tương tự tự chữa bệnh bằng loài thảo mộc gọi là Will-sage.
Pigeons, Turtles, Hens, with the Hearb called Pellitory of the wall. Bồ câu, chim cu, gà mái chữa bệnh bằng loài thảo mộc Pellitory-of-the-wall.
Cranes with Bull-rushes. Sếu thì dùng đến cói lác.
Leopards cure themselves, being hurt, with the HEarb called Wolfes-bane, by mans dung: Báo hoa mai bị thương liền tự chữa bằng loài thảo mộc Wolfes-bane (cây ô đầu) hoặc bằng phân người.
Boars with Ivy, Lợn lòi thì dùng thường xuân,
Hinds with the Hearb called Cinnara. còn hươu thì dùng thảo mộc Cinnara.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.