CHƯƠNG XXV. Bàn về những vật Thổ tinh (Saturnine), hay những vật nằm dưới quyền năng của sao Thổ.

CHAP. XXV. What things are Saturnine, or under the power of Saturne. CHƯƠNG XXV. Bàn về những vật Thổ tinh (Saturnine), hay những vật nằm dưới quyền năng của sao Thổ.
Saturnine things, amongst Elements, are Earth, and also Water: Các vật Thổ tinh (Saturnine), trong các Nguyên tố, bao gồm Đất và cả Nước.
Amongst humors, black Choller that is moist, as well natural, as adventitious, adust Choller is excepted. Trong các thể dịch là hắc đởm (dịch mật đen) ẩm ướt, cả loại tự nhiên lẫn loại phát sinh, ngoại trừ hắc đởm do cháy.
Amongst tasts, soure, tart, and dead. Trong các vị nếm là vị chua, vị chát, và vị nhạt thếch.
Amongst Metals, Lead, and Gold, by reason of its weight, and the golden Marcasite. Trong các kim loại là Chì, và Vàng vì trọng lượng của nó, cùng với khoáng Marcasite vàng.
Amongst stones, the Onix, the Ziazaa, the Camonius, the Saphir, the brown Jasper, the Chalcedon, the Loadstone, and all dark, weighty, earthy things. Trong các loại đá là đá Onyx (mã não đen), đá Ziazaa, Camonius, Lam ngọc (Sapphire), Ngọc thạch bích nâu, Chalcedon (Ngọc tủy), Đá nam châm, và mọi vật tối màu, nặng, mang tính đất.
Amongst Plants, and Trees the Daffodill, Dragon-wort, Rue, Cummin, Hellebor, the tree from whence Benzoine comes, Mandrake, Opium, and those things which stupifie, and those things which are never sown, and never bear fruit, and those which bring forth berries of a dark colour, and black fruit, as the black Fig-tree, the Pine-tree, the Cypress-tree, and a certain tree used at burials, which never springs afresh with berries, rough, of a bitter tast, of a strong smell, of a black shadow, yielding a most sharp pitch, bearing a most unprofitable fruit, never dies with age, deadly, dedicated to Pluto, as is the Hearb pas-flower, with which they were wont Anciently to strow the graves before they put the dead bodies into them, wherefore it was lawfull to make their Garlands at feasts with all Hearbs, and Flowers besides pas-flowers, because it was mournfull, and not conducing to mirth. Trong các loài thực vật và cây cối là cây Thủy tiên, cây Ngải rồng, cây Cửu lý hương (Rue), Thì là Ai Cập, cây Lệ đằng (Hellebore), cây cho ra An tức hương (Benzoine), cây Mandrake (khoai ma), thuốc phiện, và những thứ gây mê muội. Cùng với đó là những loài không bao giờ được gieo trồng và không bao giờ ra quả, những loài cho quả mọng màu sẫm và trái cây màu đen, như cây vả đen, cây thông, cây bách, và một loại cây thường được dùng trong tang lễ, loại cây không bao giờ trổ lại quả mọng, thô ráp, có vị đắng, mùi nồng, bóng cây đen kịt, cho ra loại nhựa sắc nhất, sinh ra thứ quả vô dụng nhất, không bao giờ chết vì tuổi già, mang tính chết chóc, được dâng hiến cho Pluto (thần Âm phủ). Cây hoa Pas-flower cũng thuộc loại này; người xưa thường dùng loài hoa này để rải lên mộ trước khi đặt thi hài vào, vì thế, người ta được phép làm vòng hoa trong các bữa tiệc với mọi loại thảo mộc và hoa, ngoại trừ hoa Pas-flower, vì nó mang vẻ sầu muộn và không mang lại niềm vui.
Also all creeping Animals, living apart, and solitary, nightly, sad, contemplative, dull, covetous, fearfull, melancholly, that take much pains, slow, that feed grosly, and such as eat their young. Mọi loài động vật bò trườn, sống tách biệt và cô độc, hoạt động về đêm, buồn bã, trầm ngâm, chậm chạp, tham lam, sợ hãi, u sầu, làm việc cực nhọc, di chuyển chậm, ăn uống thô thiển, và những loài ăn thịt chính con non của mình cũng được coi là Thổ tinh.
Of these kinds therefore are the Mole, the Asses, the Wolf, the Hare, the Mule, the Cat, the Camel, the Bear, the Hog, the Ape, the Dragon, the Basilisk, the Toad, all Serpents, and creeping things, Scorpions, Pismires, and such things as proceed from putrefaction in the Earth, in Water, or in the ruines of houses, as Mice, and many sorts of Vermin. Thuộc những loại này có chuột chũi, lừa, sói, thỏ rừng, la, mèo, lạc đà, gấu, lợn, vượn, rồng, Basilisk, cóc, mọi loài rắn và loài bò trườn, bọ cạp, kiến, và những sinh vật sinh ra từ sự thối rữa trong đất, trong nước, hoặc trong những tàn tích của nhà cửa, như chuột và nhiều loại sâu bọ.
Amongst birds those are Saturnine, which have long necks, and harsh voices, as Cranes, Estriches, and Peacocks, which are dedicated to Saturn, and Juno. Trong các loài chim, những loài có cổ dài và giọng kêu chói tai là Thổ tinh, như sếu, đà điểu, và công, loài vật được dâng hiến cho sao Thổ và nữ thần Juno.
Also the scrich-Owle, the horn-Owle, the Bat, the Lapwing, the Crow, the Quaile, which is the most envious bird of all. Cùng với đó là cú rít, cú sừng, dơi, chim te te, quạ, và chim cút, loài chim đố kỵ nhất trong tất cả.
Amongst fishes, the Eel, living apart from all other fish; the Lamprey, the Dog-fish, which devours her young, also the Tortoise, Oisters, Cockles, to which may be added Sea-spunges, and all such things as come of them. Trong các loài cá, cá chình, loài sống tách biệt khỏi mọi loài cá khác, được xem là Thổ tinh. Cùng với cá mút đá, cá nhám gai (dog-fish), loài cá ăn thịt con non của chính mình, cũng như rùa, hàu, và sò. Có thể kể thêm bọt biển, và mọi thứ sinh ra từ chúng.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.