I. SỰ RA ĐỜI

I
BIRTH
I
SỰ RA ĐỜI
Strange, indeed, that people who have implicit faith in life after death should imagine the soul to be new at birth. Quả thật lạ lùng thay khi những người có đức tin tuyệt đối vào cuộc sống sau cái chết lại hình dung rằng linh hồn chỉ mới được hình thành khi con người ta sinh ra.
They do not reason deeply enough. Họ suy luận chưa đủ sâu sắc.
If the soul lives after death it must, of necessity, live before birth, as the circle of immortality is not complete unless the living come from the “dead” as well as pass to them. Nếu linh hồn vẫn sống sau cái chết, thì tất yếu, nó phải sống trước khi sinh ra, bởi vòng tròn bất diệt sẽ không thể hoàn hảo nếu người đang sống không đến từ cõi “chết” cũng như sẽ đi về phía đó.
The soul has lived before, and is merely awakened when it comes to earth, being borne from another state to continue its development. Linh hồn đã từng sống trước đây, và chỉ được đánh thức khi đến với trái đất, được đưa từ một trạng thái khác sang để tiếp tục quá trình phát triển của mình.
Physical birth clothes the soul with a body of flesh, and countless people think this body the real man. Sự ra đời về mặt thể xác khoác lên linh hồn một cơ thể bằng xương bằng thịt, và vô số người lầm tưởng cơ thể này là con người thật.
“I am tired,” “I am hungry,” “I am sick,” etc.; are common yet erroneous expressions, for it is the body clamoring for rest, food or attention. Những câu nói như “Tôi mệt,” “Tôi đói,” “Tôi ốm,” v.v… tuy phổ biến nhưng lại sai lầm, vì thực chất đó là cơ thể đang gào thét đòi nghỉ ngơi, thức ăn hoặc sự chăm sóc.
And in this article we are confining our statements to man, the spirit; therefore, there need be no conflict with the theories entertained as to his physical origin. Trong bài viết này, chúng tôi giới hạn các nhận định của mình vào con người ở khía cạnh tinh thần; do đó, không cần phải xung đột với các lý thuyết về nguồn gốc thể xác của con người.
There are scores of volumes on anthropology, and every theory supported by an imposing list of authorities. Có hàng tá sách viết về nhân chủng học, và mọi lý thuyết đều được chống lưng bởi một danh sách hùng hậu các chuyên gia uy tín.
Questions most frequently asked pertaining to Birth we shall try to answer in this chapter. Trong chương này, chúng tôi sẽ cố gắng giải đáp những câu hỏi thường gặp nhất liên quan đến Sự Ra Đời.
[p. 10] Those who believe that man’s ancestry is animal usually ask this question: “At what stage of evolution did man come into possession of a soul, and evolve from an animal into a human being?” [tr. 10] Những ai tin rằng tổ tiên của loài người là động vật thường hỏi: “Ở giai đoạn tiến hóa nào con người bắt đầu sở hữu linh hồn, và tiến hóa từ một con vật thành một con người?”
Man has always been man and a human being. Con người vẫn luôn là con người và là một nhân loại.
But it was many ages before the soul spoke and the man heard, and in appearance resembled the brute more than the present form of humanity. Nhưng phải mất nhiều thời đại để linh hồn cất tiếng và con người mới nghe thấy, và trong vẻ bề ngoài, con người thuở ấy giống dã thú hơn là hình hài nhân loại hiện nay.
But no one, regardless of animal propensities or aspect, ever was or is devoid of soul. Tuy nhiên, không một ai, bất kể khuynh hướng hay diện mạo có phần thú tính đến đâu, đã từng hay đang thiếu vắng linh hồn.
Man is a child of God, not an offspring of a monkey. Con người là con của Thượng Đế, không phải hậu duệ của loài khỉ.
Both his origin and destiny are spiritual. Cả nguồn gốcđịnh mệnh của con người đều thuộc về tâm linh.
“Does the soul enter the body at conception, during gestation, or at birth?” “Linh hồn nhập vào cơ thể lúc thụ thai, trong thời kỳ thai nghén, hay lúc sinh ra?”
There is a wide divergence of opinion on this subject. Có nhiều ý kiến khác biệt về chủ đề này.
The truth is the union of soul and body begins at the time of conception, but is complete only at the moment of birth. Sự thật là sự kết hợp giữa linh hồn và cơ thể bắt đầu vào thời điểm thụ thai, nhưng chỉ hoàn tất vào khoảnh khắc chào đời.
The soul is related to the body as a cause to an effect, and is the matrix from which the body is formed. Linh hồn liên quan đến cơ thể như một nguyên nhân đối với kết quả, và là cái khuôn mẫu từ đó cơ thể được hình thành.
The cry when uttered by the infant announces that memory and thought have united, and that he is now numbered among the living. Tiếng khóc khi đứa trẻ cất lên báo hiệu rằng ký ứctư tưởng đã hợp nhất, và rằng đứa trẻ giờ đây đã được tính vào hàng ngũ những người đang sống.
But it is only by growth and gradual development that he learns the use of his earthly instruments, the brain and the body. Nhưng chỉ thông qua sự lớn lên và phát triển dần dần, đứa trẻ mới học được cách sử dụng các công cụ trần thế của mình, đó là bộ não và cơ thể.
“Were all souls created at the same time?” “Có phải tất cả các linh hồn đều được tạo ra cùng một lúc không?”
There is no age to the soul. Linh hồn không có tuổi.
It was never born; it can never die. Nó chưa bao giờ được sinh ra; nó cũng không bao giờ chết đi.
It is part of the Deity and partakes of His Nature, changeless, eternal and indestructible. Nó là một phần của Thượng Đế và mang bản chất của Ngài: bất biến, vĩnh cửukhông thể hủy diệt.
When occult students say: “He (or she) is a very old soul,” they have reference to experience and wisdom. Khi các học viên huyền bí học nói: “Ông ấy (hoặc bà ấy) là một linh hồn rất già dặn,” họ đang ám chỉ đến kinh nghiệm và sự khôn ngoan.
On earth the soul acquires experience through its entanglement with matter. Trên trái đất, linh hồn thu nhận kinh nghiệm thông qua sự ràng buộc với vật chất.
And it is [p. 11] truly amazing how some people can live so long and learn so little! Và [tr. 11] thật đáng kinh ngạc khi một số người có thể sống rất lâu mà lại học được quá ít!
Knowledge and truth are never forced on anyone and individuals can either hasten or retard their progression. Kiến thức và chân lý không bao giờ bị ép buộc lên bất kỳ ai, và các cá nhân có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ của chính mình.
Some souls evolve slowly, others rapidly, and the choice and consequences are theirs. Một số linh hồn tiến hóa chậm chạp, số khác lại nhanh chóng, sự lựa chọn và hậu quả đều thuộc về họ.
Alas, years do not necessarily make a man wiser, only older. Than ôi, năm tháng không nhất thiết làm cho một người khôn ngoan hơn, mà chỉ làm họ già đi thôi.
Mysterious as are the ways of Deity, we do know that He operates through and with immutable and natural laws. Dù đường lối của Thượng Đế có bí ẩn đến đâu, chúng ta biết rằng Ngài vận hành thông qua và cùng với các quy luật tự nhiên bất biến.
Consequently, how, when and where one is born is in accordance with law, and not an accident. Do đó, việc một người sinh ra như thế nào, khi nào và ở đâu đều tuân theo quy luật, chứ không phải là ngẫu nhiên.
“Oh, why was I ever born?” we often hear people lament. “Ôi, tại sao tôi lại sinh ra trên đời này?” chúng ta thường nghe mọi người than vãn như vậy.
The answer is: “Most likely they desired it, or else needed the lessons of the flesh.” Câu trả lời là: “Rất có thể họ đã khao khát điều đó, hoặc giả là họ cần những bài học của xác phàm.”
Others insist: “I didn’t ask to be born!” Những người khác khăng khăng: “Tôi đâu có xin được sinh ra!”
They probably did, only they don’t remember it. Có lẽ họ đã xin, chỉ là họ không nhớ mà thôi.
Most of us imbibed too freely of Lethe water, forgetfulness ensued and, temporarily, memory of our heavenly home has been mercifully dimmed. Hầu hết chúng ta đã uống quá nhiều nước sông Lethe (sông Quên), sự lãng quên theo sau và, tạm thời, ký ức về quê nhà thiên thượng của chúng ta đã được làm mờ đi một cách đầy thương xót.
Most souls are not rebellious at coming to earth, but when told their time of birth has arrived have submitted; even though some would probably have preferred remaining on the other side for a season. Hầu hết các linh hồn không chống đối việc đến trái đất, nhưng khi được thông báo rằng giờ sinh của họ đã điểm, họ đã chấp thuận; mặc dù một số có lẽ muốn ở lại bên kia thế giới thêm một thời gian nữa.
Plato tells us: “The soul knows all things, learning is only recollection.” Plato nói với chúng ta: “Linh hồn biết mọi thứ, học hỏi chỉ là sự hồi tưởng.”
He discovered that latent knowledge of mathematics and the sciences could be elicited from unlearned men. Ông phát hiện ra rằng kiến thức tiềm ẩn về toán học và khoa học có thể được khơi gợi từ những người thất học.
In other words, the soul exists prior to the body and has opportunities for acquiring knowledge and skill. Nói cách khác, linh hồn tồn tại trước cơ thể và có cơ hội để thu nhận kiến thức và kỹ năng.
These it brings to earth in the form of latent capacities and potential [p. 12] aptitudes. Những điều này linh hồn mang xuống trái đất dưới dạng các năng lực tiềm tàngtư chất sẵn có [tr. 12].
Whenever an individual possesses an extraordinary endowment of creative powers, a native ability or aptitude for literature, art or the sciences, we can be absolutely certain it is prior knowledge. Bất cứ khi nào một cá nhân sở hữu năng lực sáng tạo phi thường, một khả năng bẩm sinh hay năng khiếu về văn học, nghệ thuật hoặc khoa học, chúng ta có thể hoàn toàn chắc chắn đó là kiến thức có từ trước.
The preparatory work was done by the person himself before birth, on other planes of existence, and are not gifts of God as erroneously called. Công việc chuẩn bị đã được thực hiện bởi chính người đó trước khi sinh ra, trên các cõi giới tồn tại khác, chứ không phải là những món quà của Thượng Đế như người ta thường gọi một cách sai lầm.
Deity has no favorites, nor does He promiscuously shower unearned powers on anyone. Thượng Đế không có con cưng, và Ngài cũng không ban phát bừa bãi những quyền năng không do nỗ lực mà có cho bất kỳ ai.
While education undoubtedly excites, exercises and determines the application of talent, it never has nor can produce a genius such as Pope, much less a Shakespeare or a Milton. Mặc dù giáo dục chắc chắn kích thích, rèn luyện và định hình việc áp dụng tài năng, nhưng nó chưa bao giờ và cũng không thể tạo ra một thiên tài như Pope, chứ đừng nói đến một Shakespeare hay một Milton.
Nor does genius arise from heredity, for different members of the same family with the same training in every respect will develop different talents. Thiên tài cũng không nảy sinh từ di truyền, bởi các thành viên khác nhau trong cùng một gia đình với cùng một sự giáo dục về mọi mặt sẽ phát triển những tài năng khác nhau.
One can be a genius, the other most mediocre, although gifted children are sometimes born in families capable of providing the requisite organization and facilities for its cultivation. Một người có thể là thiên tài, người kia lại hết sức tầm thường, mặc dù những đứa trẻ tài năng đôi khi được sinh ra trong các gia đình có khả năng cung cấp cơ cấu và điều kiện cần thiết cho sự vun trồng tài năng ấy.
However, when a man has genius, he manifests his natural superiority in spite of the greatest obstacles arising from circumstances, heredity or education. Tuy nhiên, khi một người có tố chất thiên tài, anh ta sẽ bộc lộ sự ưu việt tự nhiên của mình bất chấp những trở ngại lớn nhất nảy sinh từ hoàn cảnh, di truyền hay giáo dục.
Neither birth nor any of its attendant conditions are ever accidental; the inequalities and injustices arise from the opportunities or lack of them when born. Không phải sự ra đời hay bất kỳ điều kiện kèm theo nào là ngẫu nhiên; sự bất bình đẳng và bất công nảy sinh từ những cơ hội hoặc sự thiếu hụt cơ hội khi sinh ra.
To be well-born appears to have many advantages, but history does not bear out that it is of the greatest importance. Được sinh ra trong gia đình quyền quý dường như có nhiều lợi thế, nhưng lịch sử không chứng minh rằng điều đó là quan trọng nhất.
One need only read the lives of illustrious men and women to learn that humbleness of birth and station have never been [p. 13] deterrents to fame and success. Chỉ cần đọc tiểu sử của những người đàn ông và phụ nữ lừng lẫy để biết rằng sự thấp kém về xuất thân và địa vị chưa bao giờ là [tr. 13] rào cản đối với danh tiếng và thành công.
The shining immortals with few exceptions labored under tremendous difficulties, yet despite them achieved glory and acclaim. Những bậc vĩ nhân bất tử sáng chói, ngoại trừ một số ít ngoại lệ, đều đã lao động dưới những khó khăn to lớn, nhưng bất chấp điều đó, họ vẫn đạt được vinh quang và sự tán dương.
How one begins life is not important, but how one ends it is. Cách một người bắt đầu cuộc sống không quan trọng, nhưng cách người đó kết thúc nó mới là quan trọng.
It is no disgrace to be born in the gutter, but it is a disgrace to die there. Không có gì nhục nhã khi sinh ra nơi cống rãnh, nhưng chết ở đó mới là điều nhục nhã.
It is only too obvious that all men are not born with equal mental capacities; for there is a wide disparity in the degree of knowledge and skill with which people are endowed. Rõ ràng là không phải tất cả mọi người đều sinh ra với năng lực trí tuệ ngang nhau; bởi có một sự chênh lệch lớn về mức độ kiến thức và kỹ năng mà mỗi người được phú cho.
One vast intellect like Newton’s fathoms the profundities of science, while the mind of another can scarcely grope its way through the daily occurrences of life. Một trí tuệ vĩ đại như Newton thấu hiểu những điều uyên thâm của khoa học, trong khi tâm trí của người khác hầu như khó có thể dò dẫm qua những sự việc xảy ra hàng ngày.
These differences do not arise from external circumstances, but from conditions prevailing before birth. Những khác biệt này không nảy sinh từ hoàn cảnh bên ngoài, mà từ các điều kiện hiện hữu trước khi sinh.
The same analogy is true when we leave this life. Sự tương đồng này cũng đúng khi chúng ta rời khỏi cuộc sống này.
As our status here was determined to a major degree by our innate intelligence and ability, our standing in the community to where we are going will likewise be governed by the amount of wisdom and experience acquired on earth. Cũng như địa vị của chúng ta ở đây được xác định phần lớn bởi trí thông minh và khả năng bẩm sinh, vị thế của chúng ta trong cộng đồng nơi chúng ta sắp đến cũng sẽ được quy định bởi lượng trí tuệ và kinh nghiệm đã tích lũy trên trái đất.
This is all we take with us. Đó là tất cả những gì chúng ta mang theo.
Entirely too much significance is given to the relative influence of heredity and environment. Người ta đã gán quá nhiều tầm quan trọng cho ảnh hưởng tương đối của di truyền và môi trường.
Some authorities have gone so far as to say heredity determines destiny; others maintain that environment is the controlling factor in an individual’s life. Một số chuyên gia đã đi xa đến mức nói rằng di truyền quyết định số phận; những người khác lại cho rằng môi trường là yếu tố kiểm soát cuộc đời một cá nhân.
There is no doubt these factors contribute to the formation of personality traits and habits, but there is a force stronger than either of these and that is character. Không nghi ngờ gì rằng những yếu tố này góp phần hình thành các đặc điểm tính cách và thói quen, nhưng có một lực lượng mạnh hơn cả hai điều này, đó là phẩm cách (character).
Character, or lack of it, is the determining power of life. Phẩm cách, hay sự thiếu vắng nó, là quyền năng quyết định của cuộc đời.
Many a strong, determined character has [p. 14] overcome the worst kind of heredity and unfavorable surroundings. Nhiều phẩm cách kiên định, mạnh mẽ đã [tr. 14] vượt qua loại di truyền tồi tệ nhất và những hoàn cảnh bất lợi.
All spiritual thinkers are convinced that the powers of the mind and soul are derived from their Celestial Progenitor. Tất cả các nhà tư tưởng tâm linh đều tin rằng sức mạnh của tâm trí và linh hồn được bắt nguồn từ Đấng Sinh Thành Thiên Thượng của họ.
There is slight reason for believing that mental and moral characteristics are inherited although many scientists make this claim. Có rất ít lý do để tin rằng các đặc điểm tinh thần và đạo đức là do di truyền mặc dù nhiều nhà khoa học khẳng định điều này.
Mozart did not inherit what neither of his parents possessed, nor does any genius. Mozart không thừa hưởng những gì mà cả cha mẹ ông đều không sở hữu, và bất kỳ thiên tài nào cũng vậy.
Every man is his own ancestor so far as mental and spiritual endowments are concerned. Mỗi người là tổ tiên của chính mình xét về các năng khiếu tinh thần và tâm linh.
Spirit is forever master and responsible for the incident of birth. Tinh thần mãi mãi là chủ nhân và chịu trách nhiệm cho sự kiện chào đời.
The belief that parents are the creators of their children is one of the greatest fallacies entertained by man, even some biologists. Niềm tin rằng cha mẹ là những người tạo ra con cái là một trong những ngộ nhận lớn nhất của con người, thậm chí của một số nhà sinh học.
God is the Architect of the soul, not parents, who fashion the body only. Thượng ĐếKiến Trúc Sư của linh hồn, không phải cha mẹ, những người chỉ tạo tác nên hình hài thể xác.
The individual is a sovereign unit and not at the mercy of his predecessors. Cá nhân là một đơn vị độc lập tối cao và không phụ thuộc vào lòng thương hại của những người đi trước.
He inherits himself, and gravitates to the right parents, environment, organism for the manifestation of his tendencies. Anh ta thừa hưởng chính bản thân mình, và bị thu hút về đúng cha mẹ, môi trường, cơ thể phù hợp cho sự biểu hiện các khuynh hướng của mình.
Every individual is integrated, a center himself from which he operates, is responsible and capable of selection and choice. Mỗi cá nhân là một chỉnh thể thống nhất, tự thân là một trung tâm hành động, có trách nhiệm và có khả năng tự lựa chọn, quyết định.
The lack of affinity between relatives puzzles many people of earth, for it is not uncommon for brothers and sisters, parents and offspring to feel deep antipathy toward one another. Sự thiếu hòa hợp giữa những người thân thích làm nhiều người trên trái đất bối rối, vì không hiếm khi anh chị em, cha mẹ và con cái cảm thấy ác cảm sâu sắc đối với nhau.
When parents and children meet for the first time on earth often there is but little affinity. Khi cha mẹ và con cái gặp nhau lần đầu tiên trên trái đất, thường chỉ có rất ít sự gắn kết.
Occasionally they are old friends brought together again through birth and then there will be genuine affection. Thỉnh thoảng họ là những người bạn cũ được đưa lại gần nhau qua sự ra đời và khi đó sẽ có tình cảm chân thành.
Antagonistic [p. 15] souls, those who have violent hatred for each other have met before birth and accrued karma which they are now expiating. Những linh hồn đối nghịch [tr. 15], những người có lòng thù hận dữ dội với nhau đã gặp nhau từ trước khi sinh và tích tụ nghiệp quả (karma) mà giờ đây họ đang phải đền trả.
They have not been permitted to choose their environment, and this explains in some measure why you find such odd persons in groups where they do not seem to belong. Họ không được phép chọn môi trường của mình, và điều này giải thích phần nào lý do tại sao bạn thấy những người kỳ lạ trong các nhóm mà họ dường như không thuộc về.
They actually do not belong there, yet in order to have earthly expression take the opportunity open for birth, and come in an environment that is not the best for them. Họ thực sự không thuộc về nơi đó, nhưng để có được sự biểu đạt nơi trần thế, họ nắm lấy cơ hội mở ra để chào đời, và đến trong một môi trường không phải là tốt nhất cho họ.
We often see, in families of several children, one who has peculiar traits of character and personality entirely foreign to the others. Chúng ta thường thấy, trong những gia đình có nhiều con cái, một người có những nét tính cách và nhân cách đặc biệt hoàn toàn xa lạ với những người còn lại.
The soul in that body desired earthly expression and came to an alien family, where he is usually misunderstood. Linh hồn trong cơ thể đó khao khát sự biểu đạt trần thế và đã đến một gia đình xa lạ, nơi anh ta thường bị hiểu lầm.
Unfortunately, these odd persons seldom realize that this relationship exists only for the duration of earth-life, and that there are no deep, binding ties for such a one. Đáng tiếc thay, những người kỳ lạ ấy hiếm khi nhận ra rằng mối quan hệ này chỉ tồn tại trong suốt đời sống nơi trần thế, và rằng đối với những kẻ như vậy, không hề có những ràng buộc sâu sắc hay bền chặt.
The blood tie has no permanence or significance unless augmented with spiritual kinship. Mối liên hệ huyết thống không có tính vĩnh cửu hay ý nghĩa trừ khi được củng cố bằng mối quan hệ tâm linh.
Those who have relatives for whom they feel no affinity should make every effort to discharge whatever obligations were incurred by birth and relationship, thus obviating the necessity of future association. Những ai có thân quyến mà bản thân không cảm thấy sự gắn kết hay tương hợp nào, thì vẫn nên nỗ lực chu toàn mọi bổn phận gắn liến với việc sinh thành và các mối quan hệ gia đình; nhờ vậy có thể hóa giải, tránh phải tiếp tục ràng buộc hay tái ngộ trong tương lai.
While color and race begin on earth, they often persist for many years after the change called death, for the soul has learned to function through that particular channel. Dù màu da và chủng tộc bắt đầu từ đời sống trần gian, chúng vẫn có thể còn kéo dài khá lâu sau khi chết, vì linh hồn đã quen hoạt động qua hình thức tồn tại đó.
However, all race consciousness is gradually obliterated and the universal consciousness accepted. Tuy nhiên, mọi ý thức chủng tộc dần dần bị xóa bỏý thức đại đồng vũ trụ được chấp nhận.
[p. 16] There is no break in the chain of eternity and no interruption in the law of cause and effect. [tr. 16] Không có sự đứt gãy nào trong chuỗi xích vĩnh hằng và không có sự gián đoạn nào trong quy luật nhân quả.
Not chance but justice rules our life. Không phải may rủi mà là công lý cai trị cuộc sống của chúng ta.
The soul is not new at birth, and is not much older at death, and will be born many times in spirit that it may attain perfection. Linh hồn không mới khi sinh ra, và cũng không già đi nhiều khi chết, và sẽ được sinh ra nhiều lần trong tinh thần để có thể đạt đến sự hoàn hảo.
Man himself is the greatest mystery of all. Chính con người là bí ẩn lớn nhất trong tất cả.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.