Hermes Trismegistus, Quyển 1

HERMES TRISMEGISTUS, HIS FIRST BOOK HERMES TRISMEGISTUS, QUYỂN MỘT
1. O MY SON, write this First Book, both for Humanity’s sake, and for Piety towards god. Hỡi con ta, hãy viết nên Quyển sách Thứ nhất này, vì Nhân loại, và vì lòng Sùng kính đối với Thượng Đế.
2. For there can be no Religion more true or just, than to know the things that are; and to acknowledge thanks for all things, to Him that made them, which thing I shall not cease continually to do. Bởi không có tôn giáo nào chân chính hay công bằng hơn việc nhận biết vạn vật hiện hữu, và tỏ lòng biết ơn đối với Đấng đã tạo ra chúng, một điều mà ta sẽ không ngừng thực hành.
3. What then should a man do, O Father, to lead his life well; seeing there is nothing here true? Vậy thưa Cha, con người nên làm gì để sống một đời ngay thẳng, khi mà ở đây chẳng có gì là chân thực?
4. Be Pious and Religious, O my Son; for he that doth so, is the best and highest Philosopher, and without Philosophy it is impossible ever to attain to the height and exactness of Piety and Religion. Hãy Sùng kính và Mộ đạo, hỡi con ta. Bởi người nào làm được như vậy chính là bậc Triết gia cao quý nhất. Và nếu không có Triết học, sẽ không bao giờ có thể đạt tới đỉnh cao và sự thuần khiết của lòng Sùng kính và Mộ đạo.
5. But he that shall learn and study the things that are, and how they are ordered and governed, and by whom, and for what cause, or to what end. Will acknowledge thanks to the Workman, as to a good Father, an excellent Nurse, and a faithful Steward, and he that gives thanks shall be Pious or Religious, and he that is Religious shall know both where the truth is, and what it is, and learning that he will be yet more and more Religious. Nhưng người nào học hỏi và nghiên cứu về vạn vật hiện hữu, về cách chúng được sắp đặt và cai quản ra sao, bởi ai, và vì nguyên nhân gì, hay nhằm mục đích nào, người ấy sẽ biết ơn Đấng Tạo Tác như một người Cha lành, một người Mẹ nuôi tuyệt vời, và một người Quản gia trung thành. Và người biết ơn sẽ trở nên Sùng kính hay Mộ đạo; và người Mộ đạo sẽ biết chân lý ở đâu và là gì; và khi học được điều đó, lòng mộ đạo của họ sẽ ngày càng thêm sâu sắc.
6. For never, O my Son, shall, or can that soul, which, while it is in the body, lightens and lifts up itself to know and comprehend that which is good and true, slide back to the contrary. Bởi vì, hỡi con ta, linh hồn nào khi còn ở trong thân xác đã tự mình thắp sáng và vươn lên để nhận biết và thấu hiểu điều thiện và chân lý, thì sẽ không bao giờ, và không thể nào trượt ngã về nẻo đối nghịch.
For it is infinitely enamoured thereof, and forgetteth all evils; and when it hath learned and known its Father and Progenitor, it can no more apostatize or depart from that good. Bởi nó đã say mê vô hạn điều đó, và quên đi mọi xấu xa; và một khi đã biết và nhận ra Cha và Đấng Khởi Sinh của mình, nó không thể nào bội giáo hay lìa xa điều thiện lành ấy nữa.
7. And let this, O Son, be the end of Religion and Piety; whereunto thou art once arrived, thou shalt both live well and die blessedly, whilst thy soul is not ignorant wither it must return, and fly back again. Và hỡi con, hãy để đây là đích đến của Tôn giáo và lòng Sùng kính; một khi con đã đạt tới đó, con sẽ sống một đời ngay thẳng và chết trong an lành, vì linh hồn con không còn vô minh về nơi nó phải trở về, nơi nó sẽ bay về nương náu.
8. For this only, O Son, is the way to Truth, which our Progenitors travelled in; and by which making their journey, they at length attained to the good. Vì đây là con đường duy nhất dẫn đến Chân lý, hỡi con, con đường mà các Tiền nhân của chúng ta đã đi qua; và nhờ cuộc hành trình ấy, cuối cùng họ đã đạt đến điều thiện.
It is a venerable way and plain, but hard and difficult for the soul to go in that is in the body. Đó là một con đường trang trọng và giản dị, nhưng lại gian truân và khó khăn cho linh hồn khi còn ở trong thân xác.
9. For first must it war against its own self, and after much strife and dissention, it must be overcome of the part; for the contention is of one against two, whilst it flies away, and they strive to hold and detain it. Bởi trước hết, nó phải chiến đấu với chính bản thân mình, và sau nhiều cuộc xung đột và phân tranh, một bên phải giành được chiến thắng. Vì cuộc tranh đấu là giữa một chống lại hai, khi bên này tìm cách bay đi, còn hai bên kia cố sức níu giữ và cầm tù nó lại.
10. But the victory of both is not like, for the one hasteth to that which is Good, but the other is a neighbour to the things that are Evil; and that which is Good desireth to be set at liberty, but the things that are Evil love bondage and Slavery. Nhưng chiến thắng của hai phe không giống nhau; vì một bên vội vã đến với Thiện, còn bên kia lại kề cận với những điều Xấu xa; và điều Thiện thì khao khát được tự do, còn những điều Xấu xa lại yêu thích sự trói buộc và Nô lệ.
11. And if the two parts be overcome, they become quiet, and are content to accept of it as their Ruler; but if the one be overcome of the two, it is by them led and carried to be punished by its being and continuance here. Và nếu hai phần kia bị khuất phục, chúng sẽ trở nên yên lặng và bằng lòng chấp nhận một phần làm kẻ cai trị mình. Nhưng nếu một phần bị hai phần kia khuất phục, nó sẽ bị chúng dẫn dắt và mang đi trừng phạt bằng việc phải tồn tại và lưu lại nơi đây.
12. This is, O Son, the Guide in the way that leads thither; for thou must first forsake the Body before thy end, and get the victory in this contention and strifeful life, and when thou hast overcome, return. Hỡi con, đây là người Dẫn lối trên con đường đưa đến đó; vì con phải từ bỏ Thân xác trước khi đến cuối đời, và giành chiến thắng trong cuộc đời đầy tranh đấu và xung đột này, và khi đã thắng, hãy trở về.
13. But now, O my Son, I will by Heads run through the things that are. Còn bây giờ, hỡi con ta, ta sẽ lướt qua vạn vật theo từng đề mục.
Understand thou what I say, and remember what thou hearest. Con hãy hiểu những gì ta nói, và ghi nhớ những gì con nghe.
14. All things that are moved, only that which is not is immoveable. Mọi thứ đều chuyển động; chỉ thứ không tồn tại mới bất động.
15. Every body is changeable. Mọi thân xác đều biến đổi.
16. Not every body is dissolveable. Không phải mọi thân xác đều có thể bị phân rã.
17. Some bodies are dissolveable. Một số thân xác có thể bị phân rã.
18. Every living being is not mortal. Mọi sinh vật không phải đều hữu tử.
19. Nor every living thing is immortal. Mọi sinh vật cũng không phải đều bất tử.
20. That which may be dissolved is also corruptible. Thứ có thể bị phân rã cũng có thể bị mục rữa.
21. That which abides always is unchangeable. Thứ tồn tại vĩnh viễn thì bất biến.
22. That which is unchangeable is eternal. Thứ bất biến thì vĩnh hằng.
23. That which is always made is always corrupted. Thứ luôn được tạo ra thì luôn bị mục rữa.
24. That which is made but once is never corrupted, neither becomes any other thing. Thứ chỉ được tạo ra một lần thì không bao giờ mục rữa, cũng không trở thành thứ gì khác.
25. Firstly, God; secondly, the World; thirdly, Man. Thứ nhất, Thượng Đế; thứ hai, Thế giới; thứ ba, Con người.
26. The World for Man; Man for God. Thế giới vì Con người; Con người vì Thượng Đế.
27. Of the Soul; that part which is sensible is mortal, but that part which is reasonable is immortal. Về Linh hồn: phần cảm tính thì hữu tử, nhưng phần lý tính thì bất tử.
28. Every Essence is immortal. Mọi Tinh chất đều bất tử.
29. Every Essence is unchangeable. Mọi Tinh chất đều bất biến.
30. Everything that is, is double. Mọi thứ tồn tại đều có hai mặt.
31. None of the things that are stand still. Không thứ nào trong vạn vật đứng yên.
32. Not all things are moved by a soul, but everything that is, is moved by a soul. Không phải vạn vật đều được chuyển động bởi một linh hồn, nhưng mọi thứ tồn tại đều được chuyển động bởi một linh hồn.
33. Everything that suffers is sensible; everything that is sensible, suffereth. Mọi thứ chịu đau khổ đều có cảm giác; mọi thứ có cảm giác đều chịu đau khổ.
34. Everything that is sad, rejoiceth also; and is a mortal living creature. Mọi thứ buồn bã cũng biết hân hoan; và là một sinh vật hữu tử.
35. Not everything that joyeth is also sad, but is an eternal living thing. Không phải mọi thứ hân hoan đều cũng buồn bã, mà là một sinh vật vĩnh hằng.
36. Not every body is sick; every body that is sick is dissolveable. Không phải mọi thân xác đều mắc bệnh; mọi thân xác mắc bệnh đều có thể bị phân rã.
37. The mind in God. Tâm trí ở trong Thượng Đế.
38. Reasoning (or disputing or discoursing) in Man. Lý luận ở trong Con người.
39. Reason in the Mind. Lý trí ở trong Tâm trí.
40. The Mind is void of suffering. Tâm trí không phải chịu đau khổ.
41. No thing in a body true. Không có gì trong một thân xác là chân thực.
42. All that is incorporeal, is void of Lying. Mọi thứ vô hình đều không có Dối trá.
43. Everything that is made is corruptible. Mọi thứ được tạo ra đều có thể bị mục rữa.
44. Nothing good upon Earth; nothing evil in Heaven. Không có gì tốt lành trên Trái đất; không có gì xấu xa trên Thiên đàng.
45. God is good; Man is evil. Thượng Đế là thiện; Con người là ác.
46. Good is voluntary, or of its own accord. Thiện là tự nguyện, hay tự nó sinh ra.
47. Evil is involuntary, or against its will. Ác là bất đắc dĩ, hay đi ngược lại ý muốn.
48. The gods choose good things, as good things. Các vị thần chọn điều thiện, vì chúng là điều thiện.
49. Time is a Divine thing. Thời gian là một thứ thiêng liêng.
50. Law is humane. Luật pháp là của con người.
51. Malice is the nourishment of the World. Oán thù là dưỡng chất của Thế gian.
52. Time is the corruption of Man. Thời gian là sự mục rữa của Con người.
53. Whatsoever is in Heaven is unalterable. Bất cứ điều gì ở Thiên đàng đều không thể thay đổi.
54. All upon Earth is alterable. Mọi thứ trên Trái đất đều có thể thay đổi.
55. Nothing in Heaven is servanted; nothing upon Earth free. Không có gì ở Thiên đàng phải phục tùng; không có gì trên Trái đất được tự do.
56. Nothing unknown in Heaven; nothing known upon Earth. Không có gì ở Thiên đàng là không được biết; không có gì trên Trái đất là được biết.
57. The things upon Earth communicate not with those in Heaven. Những thứ trên Trái đất không giao tiếp với những thứ ở Thiên đàng.
58. All things in Heaven are unblameable; all things upon Earth are subject to reprehension. Mọi thứ ở Thiên đàng đều không thể chê trách; mọi thứ trên Trái đất đều phải chịu chỉ trích.
59. That which is immortal is not mortal; that which is mortal is not immortal. Thứ bất tử không phải là hữu tử; thứ hữu tử không phải là bất tử.
60. That which is sown is not always begotten; but that which is begotten always is sown. Thứ được gieo không phải lúc nào cũng được sinh ra; nhưng thứ được sinh ra thì luôn luôn được gieo.
61. Of a dissolveable body, there are two times; one for sowing to generation, one from generation to death. Với một thân xác có thể phân rã, có hai thời kỳ: một là từ gieo mầm đến sinh trưởng, một là từ sinh trưởng đến cái chết.
62. Of an everlasting Body, the time is only from the Generation. Với một thân xác vĩnh hằng, thời kỳ chỉ có một, là từ lúc Sinh trưởng.
63. Dissolveable Bodies are increased and diminished. Những thân xác có thể phân rã thì tăng lên và giảm đi.
64. Dissolveable matter is altered into contraries; to wit, Corruption and Generation, but Eternal matter into itself, and its like. Vật chất có thể phân rã thì biến đổi thành những cái đối nghịch; tức là, Sự mục rữa và Sự sinh trưởng, nhưng vật chất Vĩnh hằng thì biến đổi thành chính nó, và những thứ giống nó.
65. The Generation of Man is corruption; the Corruption of Man is the beginning of Generation. Sự sinh trưởng của Con người là sự mục rữa; sự mục rữa của Con người là khởi đầu của Sự sinh trưởng.
66. That which offsprings or begetteth another, is itself an offspring or begotten by another. Thứ sinh ra một thứ khác, bản thân nó cũng được sinh ra bởi một thứ khác.
67. Of things that are, some are in bodies, some in their IDEAS. Trong những thứ hiện hữu, một số tồn tại trong các thân xác, một số trong các Ý NIỆM của chúng.
68. Whasoever things belong to operation or working, are in a body. Bất cứ điều gì thuộc về sự vận hành hay tác động, đều ở trong một thân xác.
69. That which is immortal, partakes not of that which is mortal. Thứ bất tử không dự phần vào thứ hữu tử.
70. That which is mortal cometh not into a Body immortal; but that which is immortal cometh into that which is mortal. Thứ hữu tử không đi vào một Thân xác bất tử; nhưng thứ bất tử lại đi vào thứ hữu tử.
71. Operation or Workings are not carried upwards, but descend downwards. Sự vận hành hay tác động không được đưa lên trên, mà đi xuống dưới.
72. Things upon Earth, do nothing advantage those in Heaven; but all things in Heaven do profit and advantage all things upon Earth. Những thứ trên Trái đất không mang lại lợi ích gì cho những thứ ở Thiên đàng; nhưng mọi thứ ở Thiên đàng đều mang lại lợi ích và lợi thế cho mọi thứ trên Trái đất.
73. Heaven is capable, and a fit receptacle of everlasting Bodies; the Earth of corruptible Bodies. Thiên đàng là nơi chứa đựng vừa vặn các Thân xác vĩnh hằng; Trái đất là nơi chứa đựng các Thân xác có thể mục rữa.
74. The Earth is brutish; the Heaven is reasonable or rational. Trái đất thì thú tính; Thiên đàng thì lý tính hay có trí tuệ.
75. Those things that are in Heaven are subjected or placed under it, but the things on earth are placed upon it. Những thứ ở Thiên đàng được đặt dưới nó; nhưng những thứ trên Trái đất được đặt trên nó.
76. Heaven is the first element. Thiên đàng là nguyên tố đầu tiên.
77. Providence is Divine order. Thiên mệnh là trật tự thiêng liêng.
78. Necessity is the Minister or Servant of Providence. Sự tất yếu là kẻ phụng sự của Thiên mệnh.
79. Fortune is the carriage or effect of that which is without order; the Idol of operation, a lying Fantasie or opinion. Vận may là kết quả của những gì nằm ngoài trật tự; là thần tượng của sự vận hành, một ảo tưởng dối lừa.
80. What is God? Thượng Đế là gì?
The immutable or unalterable good. Là điều thiện bất biến.
81. What is man? Con người là gì?
An unchangeable evil. Là một cái ác không thể thay đổi.
82. If thou perfectly remember these Heads, thou canst not forget those things which in more words I have largely expounded unto thee; for these are the contents or Abridgment of them. Nếu con ghi nhớ trọn vẹn những đề mục này, con sẽ không thể quên những điều ta đã diễn giải dài dòng hơn cho con; vì đây là nội dung hay tóm lược của chúng.
83. Avoid all conversation with the multitude or common people; for I would not have thee subject to Envy, much less to be ridiculous unto the many. Hãy tránh mọi giao du với đám đông hay kẻ phàm tục; vì ta không muốn con phải chịu sự ghen ghét, và càng không muốn con trở thành trò cười cho số đông.
84. For the like always takes to itself that which is like, but the unlike never agrees with the unlike. Vì cái giống nhau luôn tìm đến cái giống nó, nhưng cái khác biệt không bao giờ hòa hợp với cái khác biệt.
Such discourses as these have very few Auditors, and peradventure very few will have, but they have something peculiar unto themselves. Những bài luận như thế này có rất ít người nghe, và có lẽ sẽ mãi chỉ có một số ít, nhưng chúng có một điều gì đó rất riêng.
85. They do rather sharpen and whet evil men to their maliciousness; therefore, it behoveth to avoid the multitude, and take heed of them as not understanding the virtue and power of the things that are said. Chúng lại càng mài sắc sự hiểm ác của những kẻ xấu xa; do đó, con phải tránh xa đám đông, và hãy cẩn trọng với họ như những kẻ không hiểu được đức hạnh và sức mạnh của những điều được nói ra.
Ý Cha là sao ạ?
86. How does thou mean, O Father? 87. This O Son: the whole nature and Composition of those living things called Men, is very prone to Maliciousness, and is very familiar, and as it were nourished with it, and therefore is delighted with it; now this wight, if it shall come to learn or know that the world was once made, and all things are done according to Providence or Necessity, Destiny or Fate, bearing rule over all, will he not be much worse than himself, despising the whole, because it was made? Là thế này, hỡi con: toàn bộ bản chất và cấu tạo của những sinh vật gọi là Người rất dễ nghiêng về Hiểm ác, rất gần gũi với nó, và như thể được nó nuôi dưỡng, và vì thế mà vui thích với nó. Nay loại sinh vật ấy, nếu nó biết rằng thế gian đã từng được tạo ra, và mọi thứ đều diễn ra theo Thiên mệnh hay Sự tất yếu, do Định mệnh hay Số phận cai trị tất cả, liệu nó có trở nên tệ hại hơn chính nó, khinh miệt vạn vật, chỉ vì chúng đã được tạo ra không?
And if he may lay the cause of Evil upon Fate or Destiny, he will never abstain from any evil work. Và nếu nó có thể đổ lỗi cho Định mệnh hay Số phận về sự Xấu xa, nó sẽ không bao giờ ngưng làm bất kỳ điều ác nào.
88. Wherefore we must look warily to such kind of people, that being in ignorance they may be less evil for fear of that which is hidden and kept secret. Vì vậy, chúng ta phải thận trọng với loại người như vậy, để khi còn trong vô minh, họ sẽ bớt xấu xa hơn vì nỗi sợ trước những gì còn ẩn giấu và được giữ kín.
The End of THE FIRST BOOK OF HERMES…. HẾT QUYỂN MỘT CỦA HERMES….
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.