Lời nói đầu

PREFACE LỜI NÓI ĐẦU
JUDICIOUS READER,
This Book may justly challenge the first place for antiquity, from all the Books in the World, being written some hundreds of years before Moses his time, as I shall endeavour to make good.
Gửi bạn đọc minh triết,
Cuốn sách này có thể tự tin khẳng định vị thế là tác phẩm cổ xưa nhất trên thế gian, bởi nó ra đời hàng trăm năm trước thời Moses, một điều mà tôi sẽ nỗ lực chứng minh.
The Original (as far as is known to us) is Arabic, and several Translations thereof have been published, as Greek, Latin, French, Dutch, etc., but never English before. Nguyên tác, theo những gì chúng ta được biết, là tiếng Ả Rập, và nhiều bản dịch của nó đã được xuất bản, như tiếng Hy Lạp, La Tinh, Pháp, Hà Lan v.v., nhưng đây là lần đầu tiên có bản tiếng Anh.
It is pity the Learned Translator [Dr. Everard] had not lived, and received himself, the honour, and thanks due to him from the Englishmen for his good will to, and pains for them, in translating a Book of such infinite worth, out of the Original, into their Mother-tongue. Thật đáng tiếc khi vị dịch giả uyên bác [Tiến sĩ Everard] đã không còn sống để tự mình nhận lấy niềm vinh dự và lời cảm ơn xứng đáng từ người dân Anh cho thiện chí và công sức của ông, khi đã dịch một cuốn sách mang giá trị vô hạn từ nguyên tác sang tiếng mẹ đẻ của họ.
Concerning the Author of the Book itself, Four things are considerable, viz., His Name, Learning, Country, and Time. Về tác giả của cuốn sách, có bốn điểm đáng lưu tâm: Tên gọi, Học vấn, Quê hương và Thời đại của ông.
1. The name by which he was commonly styled, is Hermes Trismegistus, i.e., Mercurius ter Maximus, or, The thrice greatest Intelligencer. Tên gọi mà người đời thường biết đến ông là Hermes Trismegistus, tức Mercurius ter Maximus, hay Người Truyền Tri Thức Ba Lần Vĩ Đại.
And well might he be called Hermes, for he was the first Intelligencer in the World (as we read of) that communicated Knowledge to the sons of Men, by Writing, or Engraving. Ông thật xứng với tên gọi Hermes, vì ông là Người Truyền Tri đầu tiên trên thế giới (theo ghi chép) đã truyền đạt Tri thức cho con người bằng Chữ viết hay Chạm khắc.
He was called Ter Maximus, for some Reasons, which I shall afterwards mention. Ông được gọi là Ter Maximus (vĩ đại gấp ba) vì một vài lý do mà tôi sẽ đề cập sau.
2. His Learning will appear, as by his Works; so by the right understanding the Reason of his Name. 3. Học vấn của ông sẽ tự hiển lộ qua các tác phẩm, cũng như qua việc thấu hiểu căn nguyên tên gọi của ông.
For his Country, he was King of Egypt. Về quê hương, ông là Vua của Ai Cập.
4. For his Time, it is not without much Controversy, betwixt those that write of this Divine, ancient Author, what time he lived in. Về thời đại, việc xác định vị tác giả thần thánh và cổ xưa này đã sống vào thời nào vẫn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi giữa những người viết về ông.
Some say he lived after Moses his time, giving this slender Reason for it, viz., Because he was named Ter Maximus: for being preferred [Franciscus Flussas] (according to the Egyptian Customs) being chief Philosopher, to be chief of the Priesthood: and from thence, to be chief in Government, or King. Một số người cho rằng ông sống sau thời Moses và đưa ra một lý do khá yếu ớt, rằng ông được gọi là Ter Maximus vì đã được đề bạt [Franciscus Flussas] (theo phong tục Ai Cập) từ vị trí triết gia trưởng lên chức trưởng tế, rồi từ đó trở thành người đứng đầu triều đình, tức là Vua.
But if this be all their ground, you must excuse my dissent from then, and that for this reason, Because according to the most learned of his followers [Geber, Paracelsus: Henricus Nollius in Theoria Philosophia Hermeticae, tractatu priimo.], he was called Ter Maximus; for having perfect, and exact Knowledge of all things contained in the World; which things he divided into Three Kingdoms (as he calls them), viz., Mineral, Vegetable, Animal; which Three, he did excel in the right understanding of; also, because he attained to, and transmitted to Posterity (although in an Ænigmatical, and obscure style) the Knowledge of the Quintessence of the whole Universe (which Universe, as I said before, he divided into Three Parts) otherwise called, The great Elixir of the Philosophers; which is the Receptacle of all Celestial and Terrestrial Virtues; which Secret, many ignorantly deny, many have chargeably sought after, yet few, but some, yea, and the Englishmen have happily found [Ripley, Bacon, Norton, etc.]. Nhưng nếu đó là toàn bộ cơ sở của họ, xin miễn cho tôi không đồng tình, bởi lẽ: Theo những bậc uyên bác nhất trong số các môn đồ của ông [Geber, Paracelsus: Henricus Nollius trong Theoria Philosophia Hermeticae, tractatu priimo.], ông được gọi là Ter Maximus vì đã sở hữu một tri thức hoàn mỹ và chuẩn xác về vạn vật trong thế gian; những vật mà ông chia thành Ba Giới (như cách ông gọi), gồm: Khoáng vật, Thực vật, và Động vật; và ông đã vượt trội trong việc thấu hiểu cả ba giới này. Hơn nữa, ông được gọi như vậy vì đã đạt tới và truyền lại cho hậu thế (dù bằng văn phong bí ẩn và khó hiểu) Tri thức về Tinh hoa của toàn Vũ trụ (mà Vũ trụ này, như tôi đã nói, được ông chia làm ba phần), còn có tên gọi khác là Đại Linh dược của các Triết gia; đây là nơi hội tụ mọi năng lực của Trời và Đất; một Bí mật mà nhiều kẻ ngu muội chối bỏ, bao người tốn kém truy cầu, nhưng rất ít người tìm thấy, dù vậy vẫn có, vâng, cả những người Anh [Ripley, Bacon, Norton, v.v.] cũng đã may mắn sở hữu.
The Description of this great Treasure, is said to be found engraved upon a Smaragdine Table, in the Valley of Ebron, after the Flood. Lời mô tả về kho báu vĩ đại này được cho là đã được tìm thấy khắc trên một phiến Ngọc lục bảo tại thung lũng Ebron, sau trận Đại hồng thủy.
So that the Reason before alleged to prove this Author to live after Moses, seem invalid: neither doth it any way appear, that he lived in Moses his time, although it be the opinion of some, as of John Functius, who saith in his Chronology, That he lived Twenty-one years before the Law was given by Moses in the Wilderness; But the Reasons that he, and others give, are far weaker than those that I shall give, for his living before Moses his time. Do đó, lý do nêu trên nhằm chứng minh vị tác giả này sống sau Moses dường như không đứng vững; cũng không có bằng chứng nào cho thấy ông sống cùng thời với Moses, mặc dù đó là ý kiến của một số người, như John Functius, người đã viết trong cuốn Niên đại ký của mình rằng ông sống hai mươi mốt năm trước khi Luật pháp được Moses ban bố trên sa mạc. Nhưng những lý do mà ông ta và những người khác đưa ra yếu hơn nhiều so với những lý do tôi sẽ trình bày để chứng minh ông sống trước thời Moses.
My reasons for that are these:— Lý do của tôi là:
First, Because it is received amongst the Ancients, that he was the first that invented the Art of communicating Knowledge to the World, by Writing or Engraving. Thứ nhất, người xưa công nhận rằng ông là người đầu tiên phát minh nghệ thuật truyền bá tri thức cho thế gian bằng chữ viết hay chạm khắc.
Now if so, then in all probability he was before Moses; for it is said of Moses that he was from his childhood [Acts vii.22] skilled in all the Egyptian Learning, which could not well have been without the help of Literature, which we never read of any before that invented by Hermes [Chapter x.]. Nay nếu vậy, thì rất có khả năng ông đã sống trước Moses; vì người ta nói rằng Moses [Công vụ Tông đồ 7:22] từ thuở nhỏ đã thông thạo mọi học thuật của người Ai Cập, điều này khó có thể đạt được nếu không có sự trợ giúp của chữ nghĩa, một thứ mà ta chưa từng thấy ai phát minh ra trước Hermes [Chương X].
Secondly, he is said by himself, to be the son of Saturn and by others to be the Scribe of Saturn. Thứ hai, chính ông tự nhận là con trai của Saturn, và những người khác thì cho rằng ông là người ghi chép của Saturn.
Now Saturn according to Historians, lived in the time of Sarug, Abraham’s great Grand-Father [Sanchoniathon]. Mà Saturn, theo các nhà sử học, đã sống cùng thời với Sarug, ông cố của Abraham [Sanchoniathon].
I shall but take in Suidas his judgment, and so rest satisfied, that he did not live only before, but long before Moses; His words are these, Credo Mercurium Trismegistum sapientem Egyptium floruisse ante Pharaonem [Suidas]. Tôi chỉ xin lấy nhận định của Suidas để kết lại, và từ đó vững tin rằng ông không chỉ sống trước mà còn rất lâu trước thời Moses. Lời của Suidas như sau: Credo Mercurium Trismegistum sapientem Egyptium floruisse ante Pharaonem.
In this Book, though so very old, is contained more true knowledge of God and Nature, than in all the Books in the World besides, except only Sacred Writ; And they that shall judiciously read it, and rightly understand it, may well be excused from reading many Books; the Authors of which, pretend so much to the knowledge of the Creator, and Creation. Trong cuốn sách này, dù vô cùng cổ xưa, lại hàm chứa nhiều tri thức chân chính về Thượng Đế và Tự nhiên hơn tất cả các sách khác trên đời cộng lại, ngoại trừ Thánh Kinh. Và những ai đọc nó một cách minh triết và thấu hiểu đúng đắn có thể được miễn việc đọc vô số sách khác, mà các tác giả của chúng chỉ tự cho là mình biết nhiều về Đấng Sáng Tạo và sự Sáng thế.
If God ever appeared in any man, he appeared in him, as it appears by this Book. Nếu Thượng Đế từng hiện diện nơi một người trần thế nào, thì Ngài đã hiện diện nơi ông, như cuốn sách này đã tỏ rõ.
That a man who had not the benefit of his Ancestors’ knowledge, being as I said before, The first inventor of the Art of Communicating Knowledge to Posterity by writing, should be so high a Divine, and so deep a Philosopher, seems to be a thing more of God than of Man; and therefore it was the opinion of some That he came from Heaven, not born upon Earth [Goropius Becanus]. Việc một con người không được hưởng lợi từ kiến thức của tổ tiên, lại là người, như tôi đã nói, phát minh ra nghệ thuật truyền đạt tri thức cho hậu thế bằng chữ viết, mà lại có thể trở thành một nhà thần học uyên bác đến vậy và một triết gia sâu sắc đến thế, dường như là một điều thuộc về Thượng Đế hơn là về Con người; và do đó, một số người cho rằng ông đến từ Thiên đàng, chứ không phải sinh ra trên Trái đất [Goropius Becanus].
There is contained in this Book, that true Philosophy, without which, it is impossible ever to attain to the height, and exactness of Piety, and Religion. Trong sách này hàm chứa triết lý chân chính ấy, mà nếu không có nó, ta không thể nào đạt tới đỉnh cao và sự thuần khiết của lòng sùng kính và tôn giáo.
According to this Philosophy, I call him a Philosopher, that shall learn and study the things that are, and how they are ordered, and governed, and by whom, and for what cause, or to what end; and he that doth so, will acknowledge thanks to, and admire the Omnipotent Creator, Preserver, and Director of all these things. Theo triết lý này, tôi gọi là triết gia người nào học hỏi và nghiên cứu vạn vật hiện hữu, cùng cách chúng được sắp đặt và vận hành ra sao, bởi ai, và vì nguyên do gì, hay nhằm mục đích nào; và người nào làm được như vậy sẽ biết ơn và ngưỡng vọng Đấng Tạo Hóa, Đấng Bảo Tồn, và Đấng Dẫn Dắt Toàn Năng của vạn vật.
And he that shall be thus truly thankful, may truly be called Pious and Religious: and he that is Religious, shall more and more know where and what the Truth is: And learning that, he shall yet be more and more Religious. Và người nào có được lòng biết ơn chân thật ấy, người ấy có thể thực sự được gọi là người sùng kính và mộ đạo; và người mộ đạo sẽ ngày càng biết rõ hơn Chân lý ở đâu và là gì: Và khi học được điều đó, lòng mộ đạo của họ sẽ lại càng thêm sâu sắc.
The glory and splendour of Philosophy, is an endeavoring to understand the chief Good, as the Fountain of all Good: Now how can we come near to, or find out the Fountain, but by making use of the Streams as a conduct to it? Sự huy hoàng và vinh quang của Triết học nằm ở nỗ lực thấu hiểu thế nào là Tận Thiện, như là Cội Nguồn của mọi điều thiện lành. Vậy làm sao ta có thể tiếp cận hay tìm ra Cội Nguồn, nếu không men theo những dòng chảy để được dẫn lối?
The operations of Nature, are Streams running from the Fountain of Good, which is God. Những vận hành của Tự nhiên chính là những dòng chảy tuôn ra từ Cội Nguồn thiện lành, tức là Thượng Đế.
I am not of the ignorant, and foolish opinion of those that say, The greatest Philosophers are the greatest Atheists: as if to know the works of God, and to understand his goings forth in the Way of Nature, must necessitate a man to deny God. Tôi không chung quan điểm dốt nát và khờ dại với những ai cho rằng, các triết gia vĩ đại nhất lại là những kẻ vô thần vĩ đại nhất; cứ như thể việc biết về các công trình của Thượng Đế và thấu hiểu những bước chân của Ngài trên Con đường Tự nhiên lại nhất thiết buộc con người phải chối bỏ Thượng Đế.
The [Job] Scripture disapproves of this as a sottish tenet, and experience contradicts it: For behold! Kinh Thánh [Sách Gióp] bác bỏ đây là một giáo điều ngu xuẩn, và kinh nghiệm cũng chứng thực điều ngược lại. Bởi vì, hãy xem!
Here is the greatest Philosopher, and therefore the greatest Divine. Đây là triết gia vĩ đại nhất, và do đó, cũng là nhà thần học uyên bác nhất.
Read understandingly this ensuing Book (and for thy help thou mayest make use of that voluminous Commentary written upon it [Hanbal Offeli Alabar] ) then it will speak more for its Author, than can be spoken by any man, at least by me. Hãy đọc và thấu tỏ cuốn sách này (và để được trợ giúp, bạn có thể tham khảo pho bình chú đồ sộ được viết về nó [Hanbal Offeli Alabar]), khi ấy, chính tác phẩm sẽ tự nói lên giá trị của tác giả, hơn bất kỳ lời lẽ nào của người khác, và chắc chắn hơn cả tôi.
Thine in the love of Truth, J.F. Thân ái trong tình yêu Chân lý, J.F.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.