Quyển 13: Về Giác Quan Và Trí Tuệ

THE THIRTEENTH BOOK, OF SENSE AND UNDERSTANDING QUYỂN THỨ MƯỜI BA: VỀ GIÁC QUAN VÀ TRÍ TUỆ
YESTERDAY, Asclepius, I delivered a perfect Discourse, but now I think it necessary, in suite of that, to dispute also of Sense. Này Asclepius, hôm qua ta đã trình bày một bài giảng luận trọn vẹn, và hôm nay, ta nghĩ rằng cần phải bàn tiếp về Giác quan.
2. For Sense and Understanding seem to differ, because the one is material and the other essential. Bởi vì Giác quan và Trí tuệ dường như khác biệt nhau: một bên thuộc về vật chất, một bên thuộc về bản thể.
3. But unto me, they appear to be both one, or united, and not divided in men, I mean. Nhưng với ta, chúng dường như là một, hợp nhất và không hề tách rời – ít nhất là ở con người.
4. For in other living Creatures, Sense is united into Nature, but in men to Understanding. Vì ở các sinh vật khác, Giác quan hợp nhất với Tự nhiên, còn ở con người, Giác quan hợp nhất với Trí tuệ.
5. But the Mind differs from Understanding, as much a God from Divinity. Tuy nhiên, Tâm thức lại khác với Trí tuệ, cũng như Thượng Đế khác với Thần tính.
6. For Divinity is… from under God, and Understanding from the Mind, being the Sister of the Word or Speech, and they the Instruments one of another. Bởi Thần tính được sinh ra từ Thượng Đế, còn Trí tuệ được sinh ra từ Tâm thức. Trí tuệ là người chị em của Ngôn từ, và chúng là công cụ của nhau.
7. For neither is the Word pronounced without Understanding, neither is Understanding manifested without the Word. Vì không có Ngôn từ nào được thốt ra mà không cần Trí tuệ, và cũng không có Trí tuệ nào được biểu lộ mà không cần Ngôn từ.
8. Therefore, Sense and Understanding do both flow together into a man, as if they were infolded one within another. Do đó, Giác quan và Trí tuệ cùng chảy vào trong con người, quyện vào nhau như hình với bóng.
9. For neither is it possible without Sense to Understand, nor can we have Sense without Understanding. Bởi vì không có Giác quan thì không thể có Trí tuệ, và không có Trí tuệ thì cũng chẳng thể có Giác quan.
10. And yet it is possible (for the time being), that the Understanding may understand without Sense, as they that fancy visions in their Dreams. Dù vậy, vẫn có khả năng (trong một khoảnh khắc) Trí tuệ có thể thấu hiểu mà không cần đến Giác quan, giống như khi người ta thấy những ảo ảnh trong giấc mơ.
11. But it seems unto me, that both the operations are in the Visions of Dreams, and that the Sense is stirred up out of sleep, into awakening. Nhưng với ta, dường như cả hai hoạt động này đều diễn ra trong những ảo ảnh của giấc mơ, và Giác quan được đánh thức từ giấc ngủ để trở lại trạng thái tỉnh táo.
12. For Man is divided into a Body and a Soul, when both parts of the Sense accord one with another, then is the Understanding childed, or brought forth by the Mind pronounced. Con người được chia thành Thân xác và Linh hồn. Khi cả hai phần của Giác quan hòa hợp với nhau, thì Trí tuệ sẽ được Tâm thức sinh ra và biểu đạt thành lời.
13. For the Mind brings forth all Intellections or Understandings, Good ones when it receiveth good seed from God, and the contrary, when it receives them from Devils. Bởi Tâm thức sinh ra mọi nhận thức và trí tuệ. Nó sinh ra những điều tốt đẹp khi nhận được hạt giống tốt lành từ Thượng Đế, và ngược lại, khi nó nhận hạt giống từ quỷ dữ.
14. For there is not part of the World void of the Devil, which entering in privately, sowed the seed of his own proper operation, and the mind did make pregnant, or did bring forth that which was sown. Adulteries, Murders, Striking of Parents, Sacrileges, Impieties, Stranglings, throwing down headlong, and all other things, which are the works of Evil Demons. Bởi không có nơi nào trong trần thế này mà không có bóng dáng của ác quỷ. Chúng len lỏi gieo vào đó hạt giống của những hành vi xấu xa của riêng mình, và tâm thức đã thụ thai rồi sinh ra những gì được gieo: Ngoại tình, Giết chóc, Hành hung cha mẹ, Báng bổ thần thánh, Bất kính, Siết cổ, Xô người từ trên cao xuống, và tất cả những việc làm khác của loài Ác ma.
15. And the seeds of God are few, but great and Fair, and Good, Virtue, and Temperance, and Piety. Còn hạt giống của Thượng Đế thì ít ỏi, nhưng lại vĩ đại, đẹp đẽ và tốt lành: đó là Đức hạnh, Tiết độ và Lòng sùng kính.
16. And the Piety is the knowledge of God, whom whosoever knoweth, being full of all good things, hath Divine Understanding, and not like the many. Và Lòng sùng kính chính là sự tri nhận về Thượng Đế. Bất cứ ai biết được Ngài, khi đã tràn đầy vạn vật tốt lành, sẽ sở hữu một Trí tuệ Thiêng liêng, không giống như số đông.
17. And therefore they that have that knowledge, neither please the multitude, nor the multitude them, but they seem to be mad, and to move laughter, hated and despised, and many times also murdered. Vì vậy, những người có được sự tri nhận ấy không làm hài lòng đám đông, và đám đông cũng chẳng ưa gì họ. Họ bị xem là điên rồ, là trò cười, bị căm ghét, khinh miệt, và nhiều khi còn bị sát hại.
18. For we have already said, That wickedness must dwell here, being in her own region. Vì chúng ta đã nói rồi, sự xấu xa phải tồn tại ở nơi đây, trong chính lãnh địa của nó.
19. For her region is the Earth, and not the World, as some will sometimes say, Blaspheming. Lãnh địa của nó là Trái Đất, chứ không phải toàn bộ Vũ trụ, như một số kẻ báng bổ vẫn lầm tưởng.
20. But the Godly or God-worshipping Man, laying hold on knowledge, will despise or tread under all these things, for though they be evil to other men, yet to him all things are good. Nhưng người sùng kính, khi nắm giữ được sự tri nhận, sẽ coi thường và vượt lên trên tất cả những điều này. Bởi dù chúng là xấu xa đối với người khác, thì với người ấy, vạn vật đều tốt đẹp.
21. And upon mature consideration, he refers all things to knowledge, and that which is most to be wondered at, he alone makes Evil things good. Và bằng sự suy xét chín chắn, người ấy quy mọi sự về với tri thức. Điều đáng kinh ngạc nhất là: chỉ riêng người ấy mới có thể biến điều xấu thành điều tốt.
22. But I return again to my Discourse of Sense. Nhưng giờ ta xin quay lại bài giảng luận về Giác quan.
23. It is, therefore, a thing proper to man, to communicate and conjoin Sense and Understanding. Việc kết nối và hợp nhất Giác quan với Trí tuệ là một điều đặc trưng của con người.
24. But every man, as I said before, doth not enjoy Understanding, for one man is material, another Essential. Nhưng không phải ai cũng sở hữu Trí tuệ, như ta đã nói. Có người thuộc về vật chất, có người thuộc về bản thể.
25. And he that is material with wickedness, as I said, received from the Devils the seed of Understanding, but they that are with the Good essentially, are eared with God. Kẻ thuộc về vật chất, chìm trong cái ác, đã nhận hạt giống Trí tuệ từ loài quỷ dữ. Còn những người thuộc về bản thể, sống trong cái thiện, thì được Thượng Đế chăm lo.
26. For God is the workman of all things, and when he worketh, he useth Nature. Bởi Thượng Đế là người thợ tạo tác ra vạn vật, và khi Ngài làm việc, Ngài sử dụng Tự nhiên.
27. He maketh all things good like himself. Ngài tạo ra mọi thứ tốt đẹp giống như chính Ngài.
28. But these things that are made good, are in the use of operation, unlawful. Nhưng những thứ được tạo ra này, khi đi vào vận hành, lại có thể trở nên bất chính.
29. For the Motion of the World, stirring up Generations, makes Qualities; infesting some with evilness, and purifying some with good. Bởi sự Chuyển động của Vũ trụ, khi khuấy động các thế hệ, đã tạo ra những Đặc tính khác nhau; nó gieo rắc sự xấu xa vào một số, và thanh lọc một số khác bằng sự tốt lành.
30. And the World, Asclepius, hath a peculiar Sense and Understanding, not like to Man's, nor so various or manifold, but a better and more simple. Và này Asclepius, Vũ trụ cũng có giác quan và trí tuệ của riêng nó, không giống của con người, không đa dạng phức tạp bằng, mà cao hơn và đơn giản hơn.
31. For the Sense and Understanding of the World is One, in that it makes all things, and unmakes them again into itself, for it is the Organ of Instrument of the Will of God. Giác quan và trí tuệ của Vũ trụ là Một. Nó tạo ra vạn vật rồi lại phân rã vạn vật trở về chính nó, bởi nó là cơ quan, là công cụ cho Ý chí của Thượng Đế.
32. And it is so organized or framed, and made for an Instrument by God, that receiving all Seeds into itself from God, and keeping them in itself, it maketh all things effectually, and dissolving them, reneweth all things. Nó được Thượng Đế tổ chức và tạo ra để làm một công cụ, để tiếp nhận tất cả hạt giống từ Ngài, giữ chúng trong lòng mình, tạo tác vạn vật một cách hiệu quả, và khi phân rã chúng, lại làm mới vạn vật.
33. And therefore like a good Husbandman of Life, when things are dissolved or loosened, he affords, by the casting of Seed, renovation to all things that grow. Vì vậy, giống như một người nông dân tài ba của sự sống, khi vạn vật phân rã, Ngài lại ban cho chúng sự tái sinh bằng cách gieo mầm.
34. There is nothing that it (the World) doth not beget or bring forth alive, and by its Motion, it makes all things alive. Không có gì mà Vũ trụ không sinh ra trong sự sống. Bằng chuyển động của mình, nó khiến vạn vật trở nên sống động.
35. And it is at once, both the Place and the Workman of Life. Và nó vừa là Nơi chốn, vừa là Người thợ của Sự sống.
36. But the Bodies are from the Matter, in a different manner, for some are of Earth, some of Water, some of Air, some of Fire, and all are compounded, but some are more compounded, and some are more simple. Nhưng các cơ thể vật chất thì đến từ Vật chất, theo những cách khác nhau. Một số từ Đất, một số từ Nước, một số từ Khí, một số từ Lửa, và tất cả đều là hợp chất. Nhưng một số phức tạp hơn, một số lại đơn giản hơn.
37. They that are compounded, are the heavier, and they that are less, are the higher. Những gì phức tạp thì nặng nề hơn, những gì đơn giản hơn thì ở trên cao hơn.
38. And the swiftness of the Motion of the World, makes the varieties of the qualities of Generation, for the Spiration of Influence being most frequent, extendeth unto the Bodies' qualities, with infulness, which is of Life. Và sự vận động nhanh chóng của Vũ trụ tạo ra sự đa dạng về đặc tính của các thế hệ. Bởi luồng sinh khí tuôn chảy liên tục đã truyền vào các cơ thể những đặc tính tràn đầy sức sống.
39. Therefore, God is the Father of the World, but the World is Father of the things in the World. Vì vậy, Thượng Đế là Cha của Vũ trụ, nhưng Vũ trụ lại là cha của vạn vật trong nó.
40. And the World is the Son of God, but things in the World, are the Sons of the World. Vũ trụ là Con của Thượng Đế, nhưng vạn vật trong nó lại là con của Vũ trụ.
41. And, therefore, it is well called … the World, that is, an Ornament, because it adorneth and beautifieth all things with the Variety of Generation, and indeficiency of Life, which the unweariedness of Operation, and the swiftness of Necessity, with the mingling of Elements, and the order of things done. Và vì thế, nó được gọi một cách đúng đắn là "Vũ trụ" (Cosmos), nghĩa là một "Trang sức", bởi nó tô điểm và làm đẹp cho vạn vật bằng sự đa dạng của các thế hệ, sự sống bất tận, sự vận hành không mệt mỏi, tốc độ tất yếu, sự hòa trộn của các nguyên tố và trật tự của vạn vật.
42. Therefore, it is necessarily and proper called … the World. Do đó, việc gọi nó là "Vũ trụ" là hoàn toàn cần thiết và xác đáng.
43. For all living things, both the sense and the Understanding, cometh into them from without, inspired by that which compasseth them about, and continueth them. Đối với mọi sinh vật, cả giác quan lẫn trí tuệ đều đến từ bên ngoài, được truyền vào bởi những gì bao bọc và duy trì chúng.
44. And the World receiving it once from God as soon as it was made, has it still, whatever it once had. Và Vũ trụ, một khi đã nhận lãnh điều đó từ Thượng Đế ngay từ khi được tạo ra, vẫn giữ mãi những gì nó đã có.
45. But God is not as it seems to some who Blaspheme through superstition, without Sense, and without Mind, or Understanding. Nhưng Thượng Đế không phải không có Giác quan, không có Tâm thức hay Trí tuệ như một số kẻ sùng bái mê tín vẫn lầm tưởng và báng bổ.
46. For all things that are, O Asclepius, are in God, and made by him, and depend of him, some working by bodies, some moving by a Soul, like Essence, some quickening by a Spirit, and some receiving the things that are weary, and all very fitly. Này Asclepius, mọi sự hiện hữu đều ở trong Thượng Đế, được tạo ra bởi Ngài và phụ thuộc vào Ngài. Một số vận hành qua thân xác, một số chuyển động qua linh hồn, một số được thổi bùng sức sống bởi tinh thần, và một số đón nhận những gì đã mỏi mệt. Tất cả đều vô cùng hợp lý.
47. Or rather, I say, that he hath them not, but I declare the Truth, he is all things, not receiving them from without, but exhibiting them outwardly. Hay đúng hơn, ta xin nói rằng, Ngài không sở hữu chúng, mà ta xin tuyên bố sự thật là: Ngài chính là vạn vật. Ngài không nhận chúng từ bên ngoài, mà biểu lộ chúng ra từ chính mình.
48. And this is the Sense and Understanding of God, to move all things always. Và đây chính là Giác quan và Trí tuệ của Thượng Đế: làm cho vạn vật không ngừng chuyển động.
49. And there shall never be any time, when any of these things that are, shall fail, or be wanting. Và sẽ không bao giờ có một thời điểm nào mà bất cứ điều gì đang hiện hữu lại tàn lụi hay biến mất.
50. When I say the things that are, I mean God, for the things that are, God hath, and neither is there anything without him, nor he without anything. Khi ta nói "những gì đang hiện hữu", ta muốn nói đến Thượng Đế. Bởi vì những gì hiện hữu đều do Thượng Đế nắm giữ. Không có gì tồn tại bên ngoài Ngài, và Ngài cũng không tồn tại nếu thiếu vắng vạn vật.
51. These things, O Asclepius, will appear to be true, if thou understand them, but if thou understand them not, incredible. Này Asclepius, những điều này sẽ tỏ ra là chân thực, nếu con thấu hiểu chúng. Nhưng nếu con không thấu hiểu, chúng sẽ thật khó tin.
52. For to understand, is to believe, but not to believe, is not to understand; For my speech or words reach not unto the Truth, but the Mind is great, and being led or conducted for a while by Speech, is able to attain to the Truth. Bởi vì thấu hiểu chính là tin tưởng, và không tin tưởng tức là không thấu hiểu. Lời nói của ta không thể vươn tới được Chân lý, nhưng Tâm thức thì vĩ đại, và khi được Ngôn từ dẫn dắt, nó có thể đạt tới Chân lý.
53. And understanding all things round about, and finding them consonant, and agreeable to those things that were delivered, and interrupted by Speech, believeth, and in that good belief resteth. Và khi đã thấu hiểu vạn vật xung quanh, thấy chúng hòa hợp và tương đồng với những gì đã được Ngôn từ truyền đạt, Tâm thức sẽ tin tưởng, và an trú trong niềm tin tốt đẹp đó.
54. To them, therefore, that understand the things that have been said of God, they are credible, but to them that understand them not, incredible. Vì vậy, với những ai thấu hiểu những gì đã được nói về Thượng Đế, chúng thật đáng tin. Còn với những ai không thấu hiểu, chúng thật khó tin.
55. And let these, and thus many things, be spoken concerning Understanding and Sense. Và đó là tất cả những gì cần nói về Trí tuệ và Giác quan.
The End of the Thirteenth Book, Hết Quyển Thứ Mười Ba,
OF SENSE AND UNDERSTANDING. VỀ GIÁC QUAN VÀ TRÍ TUỆ.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.