Quyển 4, Chìa Khóa

THE FOURTH BOOK, CALLED THE KEY QUYỂN BỐN, CHÌA KHÓA
YESTERDAY’S Speech, O Asclepius, I dedicated to thee; this day it is fit to dedicate to Tat, because it is an Epitome of those general Speeches which were spoken to him. Bài giảng hôm qua, hỡi Asclepius, ta đã dành cho ngươi; hôm nay, thiết nghĩ nên dành cho Tat, vì đây là bản tóm lược những bài giảng tổng quát đã nói với con.
2. God therefore, and the Father, and the Good, O Tat, have the same Nature, or rather also the same Act and operation. Vậy nên, này Tat, Thượng Đế, Cha, và cái Thiện có cùng một Bản thể, hay đúng hơn, là cùng một Hành động và sự vận hành.
3. For there is one name or appellation of Nature or Increase, which concerneth things changeable, and another about things unchangeable, and about things unmoveable, that is to say, Things Divine and Humane; every one of that which himself will have so to be; but action or operation is of another thing, or elsewhere, as we have taught in other things, Divine and Humane, which must here also be understood. Vì có một tên gọi dành cho Bản thể hay Sự Tăng trưởng, liên quan đến những gì có thể thay đổi; và một tên gọi khác cho những gì bất biến, những gì bất động, tức là cõi Thiêng liêng và cõi Nhân sinh; mỗi thứ theo cách mà chính nó muốn; nhưng hành động hay sự vận hành lại là của một cái khác, hay ở một nơi khác, như ta đã giảng trong các bài khác về cõi Thiêng liêng và Nhân sinh, điều này cũng cần được hiểu ở đây.
4. For his Operation or Act is his will, and his Essence, to will all things to be. Vì Sự Vận hành hay Hành động của Ngài chính là ý chí của Ngài, và Bản thể của Ngài, là mong muốn vạn vật hiện hữu.
5. For what is God, and the Father, and the Good, but the Being of all things that yet are not, and the existence itself of those things that are? Bởi Thượng Đế, Cha, và cái Thiện là gì, nếu không phải là Sự Tồn tại của vạn vật chưa hiện hữu, và là chính sự hiện hữu của những gì đang có?
6. This is God, this is the Father, this is the Good, whereunto no other thing is present or approacheth. Đó chính là Thượng Đế, là Cha, là cái Thiện, không có gì khác có mặt hay đến gần được.
7. For the World, and the Sun, which is also a Father by Participation, is not for all that equally the cause of Good, and of Life, to living creatures. Bởi Thế giới, và Mặt trời, dù cũng là một người cha qua sự dự phần, cũng không hoàn toàn là nguyên nhân của cái Thiện và Sự sống cho các sinh vật.
And if this be so, he is altogether constrained by the Will of the Good, without which it is not possible either to be, or to be begotten or made. Và nếu vậy, nó hoàn toàn bị ràng buộc bởi Ý chí của cái Thiện, mà nếu không có nó, không thể tồn tại, được sinh ra, hay được tạo thành.
8. But the Father is the cause of his Children, who hath a will both to sow and nourish that which is good by the Sun. Nhưng Cha mới là nguyên nhân của con cái mình, Ngài có ý muốn gieo trồng và nuôi dưỡng điều thiện lành thông qua Mặt trời.
9. For Good is always active or busy in making; and this cannot be in any other but in him that taketh nothing, and yet willeth all things to be; for I will not say, O Tat, making them; for he that maketh is defective in much time, in which sometimes he maketh not, as also of quantity and quality; for sometimes he maketh those things that have quantity and quality, and sometimes the contrary. Vì cái Thiện luôn năng động hay bận rộn trong việc tạo tác; và điều này không thể có ở bất kỳ ai khác ngoài Đấng không nhận gì cả, nhưng lại muốn vạn vật hiện hữu. Vì ta sẽ không nói rằng Ngài “tạo ra” chúng, hỡi Tat; bởi người tạo tác thì thiếu sót trong nhiều lúc, khi y không tạo ra gì, và cũng thiếu sót về số lượng và chất lượng; vì đôi khi y tạo ra những thứ có số lượng và chất lượng, và đôi khi lại ngược lại.
10. But God is the Father, and the Good, in being all things; for he both will be this and is it, and yet all this for himself (as is true) in him that can see it. Nhưng Thượng Đế là Cha, và là cái Thiện, trong việc là vạn vật; vì Ngài vừa muốn là cái này vừa là chính nó, nhưng tất cả những điều này (như sự thật) đều là vì chính Ngài, đối với người có thể thấy được.
11. For all things else are for this, it is the property of Good, to be known. Vì mọi thứ khác đều tồn tại vì mục đích này, rằng được biết đến là đặc tính của cái Thiện.
This is the Good, O Tat. Đó là cái Thiện, hỡi Tat.
12. Tat. Thou hast filled us, O Father, with a sight both good and fair, and the eye of my mind is almost become more holy by the sight or Spectacle. Tat: Thưa Cha, Người đã cho chúng con được chiêm ngưỡng một cảnh tượng vừa tốt lành vừa tươi đẹp, và con mắt tâm trí của con gần như đã trở nên thiêng liêng hơn bởi cảnh tượng đó.
13. Trism. I wonder not at it, for the sight of Good is not like the beam of the Sun, which being of a fiery shining brightness, maketh the eye blind by his excessive Light, that gazeth upon it; rather the contrary, for it enlighteneth, and so much increaseth the light of the eye, as any man is able to receive the influence of this intelligible clearness. Trismegistus: Ta không ngạc nhiên, vì cảnh tượng của cái Thiện không giống như tia nắng Mặt trời, vốn có ánh sáng rực lửa làm chói mắt kẻ nhìn vào nó; ngược lại, nó soi sáng và làm tăng thêm ánh sáng cho con mắt, tùy theo mức độ con người có thể đón nhận được ảnh hưởng của sự trong sáng có thể lĩnh hội này.
14. For it is more swift and sharp to pierce, and innocent or harmless withal, and full of immortality; and they are capable, and can draw any store of this spectacle and sight, do many times fall asleep from the Body, into this most fair and beauteous Vision; which thing Celius and Saturn our Progenitors obtained unto. Vì nó nhanh hơn và sắc bén hơn để xuyên thấu, lại vô hại, và tràn đầy sự bất tử. Những người có khả năng đón nhận được cảnh tượng này nhiều lần chìm vào giấc ngủ lìa khỏi Thân xác, để đến với Thị kiến tuyệt đẹp này; điều mà Celius và Saturn, các Tiên tổ của chúng ta, đã đạt được.
15. Tat. I would we also, O Father, could do so. Tat: Thưa Cha, con mong chúng con cũng có thể làm được như vậy.
16. Trism. I would we could, O Son; but for the present we are less intent to the Vision, and cannot yet open the eyes of our mind to behold the incorrputible and incomprehensible Beauty of that Good; but then we shall see it, when we have nothing at all to say of it. Trismegistus: Ta cũng mong vậy, hỡi con; nhưng hiện tại, chúng ta chưa đủ tập trung vào Thị kiến, và chưa thể mở mắt tâm trí để chiêm ngưỡng Vẻ đẹp bất hoại và khôn tả của cái Thiện ấy. Nhưng rồi chúng ta sẽ thấy được nó, khi ta không còn gì để nói về nó nữa.
17. For the knowledge of it is a Divine Silence, and the rest of all the senses; for neither can he that understands that, understand anything else, nor he that sees that, see anything else, nor hear any other thing, nor in sum move the Body. Vì sự hiểu biết về nó là một Sự Im lặng Thiêng liêng, và là sự ngơi nghỉ của mọi giác quan; bởi người hiểu được nó thì không thể hiểu điều gì khác, người thấy được nó thì không thể thấy điều gì khác, không nghe điều gì khác, và tóm lại là không thể cử động Thân xác.
18. For shining steadfastly upon and round the whole mind, it enlighteneth all the Soul; and loosing it from the Bodily senses and motions, it draweth it from the Body, and changeth it wholly into the Essence of God. Vì khi tỏa sáng vững chắc trên và quanh toàn bộ tâm trí, nó soi sáng cả linh hồn; và giải thoát linh hồn khỏi các giác quan và chuyển động của Thân xác, nó kéo linh hồn ra khỏi Thân xác, và biến đổi hoàn toàn thành Bản thể của Thượng Đế.
19. For it is possible for the Soul, O Son, to be deified while yet it lodgeth in the Body of Man, if it contemplate the beauty of the Good. Vì linh hồn có thể được thần thánh hóa, hỡi con, ngay cả khi còn ở trong thân xác con người, nếu nó chiêm nghiệm vẻ đẹp của cái Thiện.
20. Tat. How does thou mean deifying, Father? Tat: Thưa Cha, “thần thánh hóa” nghĩa là sao ạ?
21. Trism. There are differences, O Son, of every Soul. Trismegistus: Mọi linh hồn đều có sự khác biệt, hỡi con.
22. Tat. But how dost thou again divide the changes? Tat: Nhưng Cha lại phân chia những sự biến đổi ấy như thế nào?
23. Trism. Hast thou not heard in the general Speeches, that from one Soul of the universe are all those Souls which in the world are tossed up and down, as it were, and severally divided? Trismegistus: Con chưa từng nghe trong các bài giảng tổng quát rằng từ một linh hồn duy nhất của vũ trụ mà ra tất cả các linh hồn trôi nổi trong thế gian, như thể bị phân chia ra sao?
Of these Souls there are many changes, some into a more fortunate estate, and some quite the contrary; for they which are of creeping things are changed into those of watery things; and those of things living in the water, to those of things living upon the Land; and Airy ones are changed into men, and human Souls, that lay hold of immortality, are changed into Demons. Trong số những linh hồn này có nhiều sự biến đổi, một số đến trạng thái may mắn hơn, một số thì ngược lại; những linh hồn của loài bò sát biến thành của loài dưới nước, những linh hồn của loài dưới nước biến thành của loài trên cạn; loài trên không biến thành con người, và linh hồn con người nào nắm bắt được sự bất tử thì biến thành các Á thần.
24. And so they go on into the Sphere or Region of the fixed Gods; for there are two choirs or companies of Gods, one of them that wander, and another of them that are fixed; And so this is the perfect glory of the Soul. Và cứ thế họ tiến vào Vùng của các vị Thần bất động; vì có hai đoàn Thần, một đoàn lang thang và một đoàn bất động. Và đó chính là vinh quang hoàn hảo của linh hồn.
25. But the Soul entering into the body of a Man, if it continue evil, shall neither taste of immortality, nor is partaker of the Good. Nhưng linh hồn khi nhập vào thân xác con người, nếu vẫn giữ bản chất xấu xa, sẽ không được nếm trải sự bất tử, cũng không được dự phần vào cái Thiện.
26. But being drawn back the same way, it returneth into creeping things; And this is the condemnation of an Evil Soul. Nhưng khi bị kéo lùi lại cùng con đường, nó trở về với loài bò sát. Và đây là sự đọa đày của một linh hồn Xấu xa.
27. And the wickedness of a Soul is ignorance; for the Soul that knows nothing of the things that are, neither the Nature of them, nor that which is good, but is blinded, rusheth and dasheth against the bodily passions; and unhappy as it is, and not knowing itself, it serveth strange bodies and evil ones, carrying the Body as a burden, and not ruling but ruled: And this is the mischief of the Soul. Và sự xấu xa của linh hồn là sự vô minh; vì linh hồn không biết gì về vạn vật hiện hữu, không biết bản chất của chúng, cũng không biết điều thiện là gì, mà bị mù quáng, lao vào các đam mê của thân xác; và bất hạnh thay, vì không biết chính mình, nó phục tùng những thân xác xa lạ và xấu xa, mang Thân xác như một gánh nặng, không cai trị mà bị cai trị.
Và đây là tai ương của linh hồn.
28. On the contrary, the virtue of the soul is Knowledge; for he that knows is both good and religious, and already Divine. Ngược lại, đức hạnh của linh hồn là Tri thức; vì người có tri thức thì vừa thiện lương vừa sùng kính, và đã trở nên thiêng liêng rồi.
29. Tat. But who is such a one, O Father? Tat: Nhưng ai là người như vậy, thưa Cha?
30. Trism. He that neither speaks nor hears many things; for he, O Son, that heareth two speeches, or hearings, fighteth in the shadow. Trismegistus: Là người không nói nhiều, cũng không nghe nhiều. Vì hỡi con, kẻ nào nghe hai lời tranh luận, sẽ chiến đấu trong bóng tối.
31. For God, and the Father, and Good, is neither spoken nor heard. Vì Thượng Đế, Cha, và cái Thiện không thể được nói ra hay nghe thấy.
32. This being so in all things that are, are the Senses, because they cannot be without them. Điều này đúng với mọi thứ hiện hữu; chúng là các Giác quan, vì không thể tồn tại nếu không có chúng.
33. But Knowledge differs much from Sense; for Sense is of things that surmount it, but Knowledge is the end of Sense. Nhưng Tri thức khác xa Giác quan; vì Giác quan thuộc về những thứ vượt trên nó, còn Tri thức là mục đích cuối cùng của Giác quan.
34. Knowledge is the gift of God; for all Knowledge is unbodily, but useth the Mind as an instrument, as the Mind useth the Body. Tri thức là món quà của Thượng Đế; vì mọi Tri thức đều vô hình, nhưng dùng Tâm trí làm công cụ, như Tâm trí dùng Thân xác.
35. Therefore, both intelligible and material things, go both of them into bodies; for, of contraposition, that is, setting one against another, and contrariety, all things must consist. Do đó, cả những thứ có thể lĩnh hội và những thứ vật chất đều đi vào các thân xác; vì vạn vật phải được cấu thành từ sự đối lập và tương phản.
And it is impossible it should be otherwise. Và không thể khác được.
36. Tat. Who, therefore, is this Material God? Tat: Vậy, ai là vị Thần Vật chất này?
37. Trism. The fair and beautiful World, and yet it is not good; for it is material, and easily passible, nay, it is the first of all passible things; and the second of the things that are, and needy or wanting somewhat else. Trismegistus: Là Thế giới tươi đẹp, nhưng nó không thiện; vì nó là vật chất và dễ bị tác động, hơn nữa, nó là thứ đầu tiên trong số các vật dễ bị tác động, và là thứ hai trong số các vật hiện hữu, và cần đến những thứ khác.
And it was once made, and is always, and is ever in generation, and made, and continually makes, or generates things that have quantity and quality. Nó đã từng được tạo ra một lần, và luôn luôn tồn tại, luôn ở trong quá trình sinh sôi, được tạo ra và liên tục tạo ra những thứ có số lượng và chất lượng.
38. For it is moveable, and every material motion is generation; but the intellectual stability moves the material motion after this manner. Vì nó có thể chuyển động, và mọi chuyển động vật chất đều là sự sinh sôi; nhưng sự ổn định của trí tuệ lại thúc đẩy chuyển động vật chất theo cách này.
39. Because the World is a Sphere, that is, a head, and above the head there is nothing material, as beneath the feet there is nothing intellectual. Bởi vì Thế giới là một quả cầu, tức là một cái đầu, và phía trên đầu không có gì là vật chất, cũng như phía dưới chân không có gì là trí tuệ.
40. The whole Universe is material: The Mind is the head, and it is moved spherically, that is, like a head. Toàn bộ Vũ trụ là vật chất: Tâm trí là cái đầu, và nó chuyển động hình cầu, tức là như một cái đầu.
41. Whatsoever, therefore, is joined or united to the Membrane or Film of the head, wherin the Soul is, is immortal, and as in the Soul of a made Body, hath its Soul full of the Body; but those that are further from that Membrane, have the Body full of Soul. Do đó, bất cứ thứ gì nối với màng não, nơi có linh hồn, đều là bất tử, và như trong linh hồn của một thân xác được tạo ra, linh hồn đó chứa đầy Thân xác; nhưng những thứ ở xa màng đó hơn, lại có Thân xác chứa đầy linh hồn.
42. The whole is a living wight, and therefore consisteth of material and intellectual. Toàn thể là một sinh vật sống, và do đó bao gồm cả vật chất và trí tuệ.
43. And the World is the first and Man the second living wight after the World, but the first of things that are mortal; and therefore hath whatsoever benefit of the Soul all the other have: And yet for all this, he is not only not good, but flatly evil, as being mortal. Và Thế giới là sinh vật sống đầu tiên, Con người là sinh vật sống thứ hai sau Thế giới, nhưng là sinh vật hữu tử đầu tiên; và do đó có được mọi lợi ích của linh hồn mà các sinh vật khác có. Tuy vậy, Con người không chỉ không thiện, mà còn hoàn toàn xấu xa, vì là sinh vật hữu tử.
44. For the World is not good, as it is moveable; nor evil, as it is immortal. Thế giới không thiện, vì nó có thể chuyển động; cũng không ác, vì nó bất tử.
45. But man is evil, both as he is moveable, and as he is mortal. Nhưng Con người ác, vừa vì có thể chuyển động, vừa vì hữu tử.
46. But the Soul of Man is carried in this manner, The Mind is in Reason, Reason in the Soul, The Soul in the Spirit, The Spirit in the Body. Linh hồn con người được vận hành như sau: Tâm trí ở trong Lý trí, Lý trí trong Linh hồn, Linh hồn trong Thần khí, Thần khí trong Thân xác.
47. The Spirit being diffused and going through the veins, and arteries, and blood, both moveth the living creature, and after a certain manner beareth it. Thần khí lan tỏa qua các tĩnh mạch, động mạch và máu, vừa làm sinh vật chuyển động, vừa nâng đỡ nó theo một cách nào đó.
48. Wherefore some also have thought the Soul to be blood, being deceived in Nature, not knowing that first the spirit must return into the Soul, and then the blood is congealed, and the veins and arteries emptied, and then the living thing dieth: And this is the death of the Body. Vì thế, một số người đã nghĩ linh hồn là máu, vì lầm tưởng về Bản chất, không biết rằng trước hết Thần khí phải trở về Linh hồn, rồi máu mới đông lại, tĩnh mạch và động mạch mới trống rỗng, và khi đó sinh vật mới chết: Và đây là cái chết của Thân xác.
49. All things depend of one beginning, and the beginning depends of that which is one and alone. Vạn vật đều phụ thuộc vào một khởi đầu, và khởi đầu lại phụ thuộc vào cái duy nhất và một mình.
50. And the beginning is moved, that it may again be a beginning; but that which is one, standeth and abideth, and is not moved. Và khởi đầu chuyển động để lại trở thành một khởi đầu; nhưng cái duy nhất thì đứng yên và tồn tại, không chuyển động.
51. There are therefore, these three, God the Father, and the Good, the World, and Man. Do đó, có ba thứ này: Thượng Đế là Cha và là cái Thiện, Thế giới, và Con người.
God hath the World, and the World hath Man; and the World is the Son of God, and Man as it were the offspring of the World. Thượng Đế sở hữu Thế giới, và Thế giới sở hữu Con người; Thế giới là Con của Thượng Đế, và Con người như là con cháu của Thế giới.
52. For God is not ignorant of Man, but knows him perfectly, and will be known by him. Vì Thượng Đế không không biết Con người, mà biết rõ về nó, và muốn được Con người biết đến.
This only is healthful to man, the knowledge of God: This is the return of Olympus; by this only the soul is made good, and not sometimes good, and sometimes evil, but of necessity Good. 53. Tat. Đây là điều duy nhất tốt lành cho Con người: sự hiểu biết về Thượng Đế. Đây là con đường trở về đỉnh Olympus; chỉ qua đó linh hồn mới trở nên thiện, chứ không phải lúc thiện lúc ác, mà tất yếu phải là Thiện.
What meaneth thou, O Father? Tat: Thưa Cha, ý Người là gì?
54. Trism. Consider, O Son, the Soul of a Child, when as yet it hath as yet received no dissolution of its body, which is not yet grown, but is very small: how then if it look upon itself, it sees itself beautiful, as not having been as yet spotted with the Passions of the Body, but as it were depending yet upon the soul of the World. Trismegistus: Hãy xem xét linh hồn một đứa trẻ, hỡi con, khi nó chưa nhận lấy sự tan rã của thân xác, vốn chưa lớn, còn rất nhỏ: khi đó nếu nhìn vào chính mình, nó sẽ thấy mình xinh đẹp, vì chưa bị hoen ố bởi các Đam mê của Thân xác, mà như thể còn phụ thuộc vào linh hồn của Thế giới.
55. But when the Body is grown, and distracteth the Soul, it engenders forgetfulness, and partakes no more of the Fair and the Good, and Forgetfulness is evilness. Nhưng khi Thân xác lớn lên và làm xao lãng Linh hồn, nó sinh ra sự quên lãng, và không còn dự phần vào cái Đẹp và cái Thiện nữa; và Quên lãng chính là sự xấu xa.
56. The like also happeneth to them that go out of the Body: For when the soul runs back into itself, the Spirit is contracted into the blood, and the Soul into the Spirit. Điều tương tự cũng xảy ra với những người lìa khỏi Thân xác: Khi linh hồn trở về với chính nó, Thần khí co lại vào trong máu, và Linh hồn co lại vào trong Thần khí.
But the Mind being made pure, and free from these clothings; and being Divine by Nature, taking a fiery body, rangeth abroad in every place, leaving the soul to judgment, and to the punishment it hath deserved. 57. Tat. Nhưng Tâm trí, khi đã được thanh lọc và thoát khỏi những lớp áo này; và vì bản chất thiêng liêng, khoác lên mình một thân xác rực lửa, sẽ đi khắp nơi, để lại linh hồn cho sự phán xét và hình phạt xứng đáng.
Why dost thou say so, O Father, that the Mind is separated from the Soul, and the Soul from the Spirit? Tat: Thưa Cha, tại sao Người lại nói rằng Tâm trí tách khỏi Linh hồn, và Linh hồn tách khỏi Thần khí?
When even now thou saidst that the Soul was the clothing or apparel of the Mind, and the Body of the Soul. Trong khi lúc nãy Người nói Linh hồn là áo khoác của Tâm trí, và Thân xác là áo khoác của Linh hồn.
58. Trism. O Son, he that hears must co-understand, and conspire in thought with him that speaks; yea, he must have his hearing swifter and sharper than the voice of the speaker. Trismegistus: Hỡi con, người nghe phải cùng hiểu, cùng suy nghĩ với người nói; hơn nữa, thính giác của y phải nhanh và nhạy bén hơn giọng nói của người nói.
59. The disposition of these clothings or Covers is done in an Earthly Body; for it is impossible that the Mind should establish or rest itself, naked, and of itself in an Earthly Body; neither is the Earthly Body able to bear such immortality: and therefore, that it might suffer so great virtue, the Mind compacted, as it were, and took to itself the passable Body of the Soul, as a covering or clothing. Sự sắp xếp các lớp áo này được thực hiện trong một Thân xác trần thế; vì không thể nào Tâm trí tự mình trần trụi mà yên vị trong một Thân xác trần thế; Thân xác trần thế cũng không thể chịu đựng được sự bất tử như vậy. Do đó, để có thể chịu đựng một đức hạnh lớn lao đến thế, Tâm trí đã như thể nén lại, và lấy thân xác dễ bị tác động của Linh hồn làm lớp vỏ bọc.
And the Soul being also in some sort Divine, useth the Spirit as her Minister or Servant; and the Spirit governeth the living things. Và Linh hồn, vì cũng phần nào thiêng liêng, nên dùng Thần khí làm người hầu; và Thần khí cai quản các sinh vật.
60. When therefore the Mind is separated, and departeth from the Earthly Body, presently it puts on its Fiery Coat, which it could not do, having to dwell in an Earthly Body. Vì vậy, khi Tâm trí tách ra và rời khỏi Thân xác trần thế, nó lập tức mặc vào chiếc áo Rực lửa của mình, điều mà nó không thể làm khi còn ở trong Thân xác trần thế.
61. For the Earth cannot suffer fire, for it is all burned of a small spark; therefore is the water poured round about the Earth, as a wall or defence, to withstand the flame of fire. Vì Đất không thể chịu đựng được lửa, chỉ một tia lửa nhỏ cũng đủ thiêu rụi tất cả; do đó, nước được đổ quanh Đất như một bức tường phòng thủ để chống lại ngọn lửa.
62. But the Mind being the most sharp or swift of all the Divine Cogitations, and more swift than all the Elements, hath the fire for its Body. Nhưng Tâm trí, là thứ nhanh nhạy nhất trong mọi Suy tư thiêng liêng, và nhanh hơn mọi nguyên tố, nên có lửa làm Thân xác của mình.
63. For the Mind, which is the Workman of all, useth the fire as his Instrument in his Workmanship; and he that is the Workman of all useth it to the making of all things, as it is used by Man to the making of Earthly things only, for the Mind that is upon Earth, void or naked of fire, cannot do the business of men, nor that which is otherwise the affairs of God. Vì Tâm trí, là Người Thợ của vạn vật, dùng lửa làm công cụ trong công trình của mình; và Người Thợ của vạn vật dùng lửa để tạo ra mọi thứ, cũng như con người chỉ dùng lửa để tạo ra những thứ trần thế. Vì Tâm trí trên Trái đất, nếu thiếu lửa, không thể làm việc của con người, cũng không thể làm việc của Thượng Đế.
64. But the Soul of Man, and yet not everyone, but that which is pious and religious, is Angelic and Divine. Nhưng linh hồn của con người, không phải tất cả, mà chỉ linh hồn sùng kính và mộ đạo, mới là Thiên thần và Thiêng liêng.
And such a soul, after it is departed from the body, having striven the strife of Piety, becomes either Mind or God. Và một linh hồn như vậy, sau khi lìa khỏi thân xác, đã trải qua cuộc chiến của lòng Sùng kính, sẽ trở thành Tâm trí hoặc Thượng Đế.
65. And the strife of piety is to know God, and to injure no Man; and this way it becomes Mind. Và cuộc chiến của lòng sùng kính là biết Thượng Đế, và không làm hại ai; và bằng cách này, nó trở thành Tâm trí.
66. But the impious Soul abideth in its own offence, punished of itself, and seeking an earthly and humane body to enter into. Nhưng linh hồn bất kính sẽ ở lại trong sự xúc phạm của chính mình, bị chính mình trừng phạt, và tìm kiếm một thân xác trần thế để nhập vào.
67. For no other Body is capable of a Humane Soul, neither is it lawful for a Man’s Soul to fall into the Body of an unreasonable living thing: For it is the Law or Decree of God to preserve a Human Soul from so great a contumely and reproach. Vì không có thân xác nào khác có thể chứa đựng linh hồn con người, và cũng không được phép để linh hồn con người sa vào thân xác của một sinh vật vô tri. Vì luật lệ của Thượng Đế là bảo vệ linh hồn con người khỏi sự sỉ nhục lớn lao như vậy.
68. Tat. How then is the Soul of Man punished, O Father, and what is its greatest torment? Tat: Vậy, thưa Cha, linh hồn con người bị trừng phạt như thế nào, và sự tra tấn lớn nhất của nó là gì?
69. Herm. Impiety, O my Son; for what Fire hath so great a flame as it? Hermes: Là sự bất kính, hỡi con ta. Vì ngọn lửa nào có thể cháy dữ dội như nó?
Or what biting Beast doth so tear the Body as it doth the Soul? Hay con thú nào cắn xé Thân xác ghê gớm như nó cắn xé Linh hồn?
70. Or dost thou not see how many Evils the wicked Soul suffereth, roaring and crying out, I am burned, I am consumed, I know not what to say or do, I am devoured, unhappy wretch, of the evils that compass and lay hold upon me; miserable that I am, I neither hear nor see anything. Hay con không thấy linh hồn xấu xa phải chịu bao nhiêu điều Ác, gào thét rằng: “Ta bị thiêu đốt, ta bị thiêu rụi, ta không biết phải nói hay làm gì, ta bị nuốt chửng, hỡi kẻ bất hạnh, bởi những điều ác đang bao vây ta; khổ thay cho ta, ta chẳng nghe thấy cũng chẳng nhìn thấy gì.”
71. These are the voices of a punished and tormented Soul, and not as many; and thou, O Son, thinkest that the Soul going out of the Body grows brutish or enters into a Beast; which is a very great error, for the Soul punished after this manner. Đó là tiếng kêu của một linh hồn bị trừng phạt và tra tấn, chứ không phải như nhiều người nghĩ. Và con, hỡi con, nghĩ rằng linh hồn khi ra khỏi thân xác sẽ trở nên thú tính hay nhập vào một con thú, đó là một sai lầm rất lớn; vì linh hồn bị trừng phạt theo cách này.
72. For the Mind, when it is ordered or appointed to get a Fiery Body for the services of God, coming down into the wicked soul, torments it with the whips of Sins, wherewith the wicked Soul, being scorged, turns itself to Murders and Contumelies, and Blasphemies, and divers violences, and other things by which men are injured. Vì Tâm trí, khi được lệnh nhận lấy một Thân xác Rực lửa để phục vụ Thượng Đế, sẽ giáng xuống linh hồn xấu xa, tra tấn nó bằng những ngọn roi của Tội lỗi, và linh hồn xấu xa, khi bị đánh đòn, sẽ hướng đến những vụ Giết người, Sỉ nhục, Báng bổ, và các hình thức bạo lực khác, qua đó làm hại con người.
73. But into a pious soul, the mind entering, leads it into the Light of Knowledge. Nhưng khi Tâm trí vào trong một linh hồn sùng kính, nó sẽ dẫn dắt linh hồn đó đến Ánh sáng của Tri thức.
74. And such a Soul is never satisfied with singing praise to God, and speaking well of all men; and both in words and deeds always doing good, in imitation of her Father. Và một linh hồn như vậy sẽ không bao giờ ngừng ca ngợi Thượng Đế, nói tốt về mọi người; và cả trong lời nói và việc làm, luôn làm điều thiện, noi gương Cha mình.
75. Therefore, O Son, we must give thanks and pray that we may obtain a good mind. Do đó, hỡi con, chúng ta phải tạ ơn và cầu nguyện để có được một tâm trí thiện lành.
76. The Soul therefore may be altered or changed into the better, but into the worse it is impossible. Linh hồn có thể thay đổi để tốt hơn, nhưng không thể thay đổi để xấu đi.
77. But there is a communion of souls, and those of Gods, communicate with those men, and those of Men with those of Beasts. Nhưng có một sự giao cảm giữa các linh hồn: linh hồn của các vị Thần giao cảm với linh hồn con người, và linh hồn con người giao cảm với linh hồn các loài thú.
78. And the better always take of the worse, Gods of Men; Men of brute Beasts, but God of all: For He is the best of all, and all things are less than He. Và cái tốt hơn luôn lấy đi từ cái xấu hơn: các vị Thần từ con người, con người từ thú vật, nhưng Thượng Đế từ tất cả. Vì Ngài là tốt nhất, và vạn vật đều thấp hơn Ngài.
79. Therefore is the World subject unto God, Man unto the World, and unreasonable things to Man. Do đó, Thế giới phụ thuộc vào Thượng Đế, Con người vào Thế giới, và các loài vô tri vào Con người.
80. But God is above all and about all; and the beams of God are operations; and the beams of the World are Natures; and the beams of Man are Arts and Sciences. Nhưng Thượng Đế ở trên tất cả và bao trùm tất cả; các tia sáng của Thượng Đế là những sự vận hành; các tia sáng của Thế giới là những bản thể tự nhiên; và các tia sáng của Con người là nghệ thuật và khoa học.
81. And operations do act by the World, and upon Man by the natural beams of the World, but Natures work by the Elements, and Man by Arts and Sciences. Và các sự vận hành tác động qua Thế giới, và tác động lên Con người qua các tia sáng tự nhiên của Thế giới; còn các bản thể tự nhiên tác động qua các nguyên tố, và Con người tác động qua nghệ thuật và khoa học.
82. And this is the Government of the whole, depending upon the Nature of the One, and piercing or coming down by the one Mind, than which nothing is more Divine and more efficacious or operative; and nothing more uniting, or nothing is more One. Và đây là sự cai quản toàn thể, phụ thuộc vào Bản thể của Cái Một, và xuyên thấu hay giáng xuống qua một Tâm trí duy nhất, không có gì thiêng liêng và hiệu quả hơn thế, cũng không có gì hợp nhất hơn, hay không có gì là Một hơn.
The Communion of Gods to Men, and of Men to Gods. Sự giao cảm của các vị Thần với Con người, và của Con người với các vị Thần.
83. This is the Bonas Genius, or good Demon: blessed soul that is fullest of it! Đây là Thiên thần hộ mệnh, hay Á thần tốt lành: phúc thay cho linh hồn nào tràn đầy nó!
And unhappy soul that is empty of it. Và bất hạnh thay cho linh hồn nào trống rỗng nó.
84. Tat. And wherefore, Father? Tat: Và tại sao vậy, thưa Cha?
85. Trism. Know, Son, that every Soul hath the Good Mind; for of that it is we now speak, and not of that Minister of whom we said before, that he was sent from the Judgment. Trismegistus: Hãy biết rằng, hỡi con, mọi linh hồn đều có Tâm trí thiện; vì chúng ta đang nói về nó, chứ không phải về người hầu mà ta đã nói trước đây, được sai đến từ Sự Phán xét.
86. For the Soul without the Mind can neither say nor do anything; for many times the Mind flies away from the Soul, and in that hour the Soul neither seeth nor heareth, but is like an unreasonable thing; so great is the power of the Mind. Vì linh hồn không có Tâm trí không thể nói hay làm gì cả; vì nhiều khi Tâm trí bay khỏi Linh hồn, và trong giờ phút đó, Linh hồn không thấy không nghe, mà giống như một sinh vật vô tri; quyền năng của Tâm trí lớn lao đến thế.
87. But neither brooketh it an idle or lazy Soul, but leaves such an one fastened to the Body, and by it is pressed down. Nhưng nó cũng không dung thứ một linh hồn lười biếng, mà bỏ mặc linh hồn đó bị trói vào Thân xác, và bị Thân xác đè nặng.
88. And such a Soul, O Son, hath no Mind; wherefore neither must such a one be called a Man. Và một linh hồn như vậy, hỡi con, không có Tâm trí; do đó cũng không được gọi là một Con người.
89. For Man is a Divine living thing, and is not to be compared to any brute Beast that lives upon Earth, but to them that are above in Heaven, that are called Gods. Vì Con người là một sinh vật thiêng liêng, và không thể so sánh với bất kỳ con thú nào sống trên Trái đất, mà phải so với những đấng ở trên Trời, được gọi là các vị Thần.
90. Rather, if we shall be bold to speak the truth, he that is a Man indeed is above them, or at least they are equal in power, one to the other. Đúng hơn, nếu chúng ta dám nói sự thật, người nào thực sự là một Con người thì còn vượt trên cả họ, hoặc ít nhất họ cũng bình đẳng về quyền năng.
For none of the things in Heaven will come down upon Earth, and leave the limits of Heaven, but a Man ascends up into Heaven, and measures it. Vì không có gì ở Thiên đàng sẽ hạ xuống Trái đất và rời khỏi giới hạn của Thiên đàng, nhưng Con người thì leo lên đến tận Trời và đo lường nó.
91. And he knoweth what things are on high, and what below, and learneth all other things exactly. Và nó biết những gì ở trên cao và những gì ở dưới thấp, và học hỏi mọi thứ khác một cách chính xác.
92. And that which is the greatest of all, he leaveth not the Earth, and yet is above: So great is the greatness of his Nature. Và điều vĩ đại nhất là, nó không rời Trái đất, nhưng lại ở trên cao: Bản thể của nó vĩ đại đến thế.
93. Wherefore we must be bold to say, That an Earthly Man is a mortal God, and that the Heavenly God is an immortal Man. Vì vậy, chúng ta phải mạnh dạn nói rằng: Con người trần thế là một Thần linh hữu tử, và Thần linh trên trời là một Con người bất tử.
94. Wherefore, by these two are all things governed, the World and Man; but they and all things else of that which is One. Do đó, bởi hai điều này mà vạn vật được cai quản: Thế giới và Con người; nhưng chúng và mọi thứ khác đều từ Cái Một mà ra.
THE END OF THE FOURTH BOOK, Called THE KEY…. HẾT QUYỂN BỐN, CHÌA KHÓA.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.