Quyển 2, Poemander

THE SECOND BOOK, CALLED, POEMANDER QUYỂN HAI, POEMANDER
MY THOUGHTS being once seriously busied about things that are, and my Understanding lifted up, all my bodily Senses being exceedingly holden back, as it is with them that are heavy of sleep, by reason either of fulness of meat, or of bodily labour: Methought I saw one of an exceeding great stature, and of an infinite greatness, call me by my name, and say unto me, What wouldst thou hear and see? Khi tư tưởng của ta đang một lần miên man suy ngẫm về vạn vật hiện hữu, và tâm trí ta được nâng lên cao, thì mọi giác quan của thân xác đều bị kiềm giữ tột độ, như trong cơn say ngủ bởi no say hay nhọc mệt, ta ngỡ như thấy một người với vóc dáng cực kỳ to lớn và vẻ vĩ đại vô biên, gọi tên ta và hỏi: “Ngươi muốn nghe và thấy điều gì?
Or what wouldst thou understand to learn and know? Hay ngươi muốn lĩnh hội, học hỏi và biết điều gì?”
2. Then said I, Who are Thou? I am, quoth he, Poemander, the mind of the great Lord, the most mighty and absolute Emperor: I know what thou wouldst have, and I am always present with thee. Ta liền hỏi: “Ngài là ai?” Người ấy đáp: “Ta là Poemander, tâm trí của Đấng Tối Cao, vị Quân Vương uy quyền và tuyệt đối. Ta biết ngươi muốn gì, và ta luôn ở bên ngươi.”
3. Then I said, I would learn the things that are, and understand the nature of them, and know God. How? said he. Bấy giờ ta nói: “Tôi muốn học về vạn vật hiện hữu, thấu hiểu bản chất của chúng, và nhận biết Thượng Đế.” Người ấy hỏi. “Bằng cách nào?”
I answered that I would gladly hear. Ta đáp rằng tôi rất muốn được nghe.
Then said he, Have me again in they mind, and whasoever though wouldst learn, I will teach thee. Người bèn nói: “Hãy tiếp tục giữ ta trong tâm trí ngươi, và bất cứ điều gì ngươi muốn học, ta sẽ dạy.”
4. When he had thus said, he was changed in his Idea or Form, and straightway, in the twinkling of an eye, all things were opened unto me. Nói xong, Ý niệm hay Hình tướng của Người liền biến đổi, và tức khắc, trong nháy mắt, vạn vật mở ra trước mắt ta.
And I saw an infinite sight, all things were become light, both sweet and exceeding pleasant; and I was wonderfully delighted in the beholding it. Và ta thấy một cảnh tượng vô tận, mọi thứ đều trở thành ánh sáng, vừa ngọt ngào vừa vô cùng dễ chịu; và ta vô cùng vui sướng khi chiêm ngưỡng cảnh đó.
5. But after a little while, there was a darkness made in part, coming down obliquely, fearful and hideous, which seemed unto me to be changed into a certain moist nature, unspeakably troubled, which yielded a smoke as from Fire; and from whence proceeded a voice unutterable, and very mournful, but inarticulate, inasmuch as it seemed to have come from the Light. Nhưng chỉ một lúc sau, một bóng tối xuất hiện ở một phần, sà xuống xiên xiên, trông đáng sợ và gớm ghiếc, dường như đối với ta, nó biến thành một thứ bản thể ẩm ướt, hỗn loạn không tả xiết, bốc lên một làn khói như từ Lửa; và từ đó vang lên một tiếng nói không thể thốt thành lời, vô cùng ai oán, nhưng rời rạc, dường như phát ra từ chính Ánh sáng.
6. Then from that Light, a certain holy Word joined itself unto Nature, and outflew the pure and unmixed Fire from the moist nature upwards on high; it was exceeding Light, and sharp, and operative withal. Bấy giờ từ Ánh sáng ấy, một Ngôn từ thiêng liêng nào đó kết hợp với Tự nhiên, và ngọn lửa tinh thuần không pha tạp liền bay vút lên cao từ bản thể ẩm ướt kia; nó vô cùng Sáng, sắc bén, và tràn đầy năng lực.
And the Air, which was also light, followed the Spirit and mourned up to Fire (from the Earth and the Water), insomuch that it seemed to hang and depend upon it. Và Khí, cũng rất nhẹ, theo sau Thần khí và bay lên đến Lửa (từ Đất và Nước), đến độ dường như nó lơ lửng và phụ thuộc vào ngọn Lửa ấy.
7. And the Earth and the Water stayed by themselves so mingled together, that the Earth could not be seen for the Water, but they were moved because of the Spiritual word that was carried upon them. Và Đất cùng Nước ở lại với nhau, hòa quyện đến nỗi không thể thấy Đất vì bị Nước che khuất, nhưng chúng chuyển động vì Ngôn từ Thần linh bao trùm lấy chúng.
8. Then said Poemander unto me, Dost thou understand this vision, and what it meaneth? I shall know, said I. Then said he, I am that Light, the Mind, thy God, who am before that moist nature that appeared out of darkness; and that bright and lightful Word from the mind is the Son of God. Bấy giờ Poemander nói với ta: “Ngươi có hiểu thị kiến này và ý nghĩa của nó không?” Ta đáp: “Tôi sẽ biết.” Người nói: “Ta chính là Ánh sáng đó, là Tâm trí, là Thượng Đế của ngươi, người đã có trước cái bản thể ẩm ướt xuất hiện từ bóng tối kia; và Ngôn từ sáng tươi phát ra từ tâm trí ấy chính là Con của Thượng Đế.”
9. How is that, quoth I? “Thế nghĩa là sao?” ta hỏi.
Thus, replied he, understand it: That which in thee seeth and heareth, the Word of the Lord, and the Mind the Father, God, differ not one from the other; and the union of these is Life. Người đáp: “Hãy hiểu thế này: cái thấy và nghe trong ngươi, là Ngôn từ của Đấng Tối Cao, và Tâm trí là Cha, là Thượng Đế, không khác gì nhau; và sự hợp nhất của chúng chính là Sự Sống.”
Trismeg.–I thank thee. Trismegistus: “Tôi cảm ơn ngài.”
Pimand.–But first conceive well the Light in they mind, and know it. Poemander: “Nhưng trước hết hãy lĩnh hội trọn vẹn Ánh sáng trong tâm trí ngươi, và nhận biết nó.”
10. When he had said thus, for a long time we looked steadfastly one upon the other, insomuch that I trembled at his Idea or Form. Khi Người nói xong, chúng ta nhìn nhau không rời trong một hồi lâu, đến nỗi ta run sợ trước Ý niệm hay Hình tướng của Người.
11. But when he nodded to me, I beheld in my mind the Light that is in innumerable, and the truly indefinite ornament or world; and that the Fire is comprehended or contained in, or by a great moist Power, and constrained to keep its station. Nhưng khi Người gật đầu với ta, ta nhìn thấy trong tâm trí mình Ánh sáng ở trong vô số, và thế giới hay sự trang hoàng thực sự vô định; và rằng ngọn Lửa được bao hàm hay chứa đựng bởi một Quyền năng ẩm ướt vĩ đại, và bị buộc phải giữ yên vị trí của mình.
12. These things I understood, seeing the word, or Pimander; and when I was mightily amazed, he said again unto me, Hast thou seen in thy mind that Archetypal Form which was before the interminated and infinite Beginning? Ta hiểu được những điều này khi thấy Ngôn từ, hay Poemander; và khi ta vô cùng kinh ngạc, Người lại nói với ta: “Ngươi có thấy trong tâm trí mình cái Hình mẫu Nguyên thủy đã có trước Khởi đầu vô hạn và vô tận không?” Poemander hỏi ta như vậy.
Thus Pimander to me. But whence, quoth I, or whereof are the Elements of Nature made? “Nhưng,” ta hỏi, “các Nguyên tố của Tự nhiên được tạo ra từ đâu hay bởi cái gì?”
Pimander.–Of the Will and counsel of God; which taking the Word, and beholding the beautiful World (in the Archetype thereof) imitated it, and so made this World, by the principles and vital seeds or Soul-like productions of itself. Poemander: “Từ Ý chí và sự xếp đặt của Thượng Đế; Ngài lấy Ngôn từ, và khi nhìn ngắm Thế giới tươi đẹp (trong Nguyên mẫu của nó), Ngài đã mô phỏng nó, và tạo ra thế giới này, bằng các nguyên lý và mầm sống hay những sản phẩm giống như linh hồn của chính mình.”
13. For the Mind being God, Male and Female, Life and Light, brought forth by his Word another Mind or Workman; which being God of the Fire, and the Spirit, fashioned and formed seven other Governors, which in their circles contain the Sensible World, whose Government or disposition is called Fate or Destiny. Bởi Tâm trí, vốn là Thượng Đế, Lưỡng tính, Sự sống và Ánh sáng, đã dùng Ngôn từ của mình sinh ra một Tâm trí hay người Thợ khác; vị này, là Thần của Lửa và Thần khí, đã tạo tác và hình thành nên bảy Vị cai quản khác, các vị này trong vòng tuần hoàn của mình chứa đựng Thế giới Cảm tính, mà sự Cai quản hay sắp đặt của họ được gọi là Số phận hay Định mệnh.
14. Straightway leaped out, or exalted itself from the downward Elements of God, The Word of God, into the clean and pure Workmanship of Nature, and was united to the Workman, Mind, for it was Consubstantial; and so the downward born elements of Nature were left without Reason, that they might be the only Matter. Ngay lập tức, từ các Nguyên tố hạ đẳng của Thượng Đế, Ngôn từ của Thượng Đế vọt ra, hay tự nâng mình lên, vào trong Công trình tinh thuần và trong sạch của Tự nhiên, và được hợp nhất với người Thợ, tức Tâm trí, vì nó cùng một Bản thể; và do đó các nguyên tố hạ đẳng sinh ra của Tự nhiên bị bỏ lại không có Lý trí, để chúng chỉ còn là Vật chất.
15. But the Workman, Mind, together with the Word, containing the circles, and whirling them about, turned round as a wheel, his own Workmanships; and suffered them to be turned from an indefinite Beginning to an indeterminable end, for they always begin where they end. Nhưng người Thợ, tức Tâm trí, cùng với Ngôn từ, bao bọc các vòng tuần hoàn và xoay chúng, làm cho những công trình của chính mình quay tròn như một bánh xe; và để chúng xoay từ một Khởi đầu vô định đến một kết thúc không thể xác định, vì chúng luôn bắt đầu nơi chúng kết thúc.
16. And the Circulation or running round of these, as the mind willeth, out of the lower or downward-born Elements, brought forth unreasonable or brutish Creatures, for they had no reason, the Air flying things, and the Water such as swim. Và sự Tuần hoàn hay vòng quay này, theo ý muốn của tâm trí, từ các nguyên tố hạ đẳng hay thấp hèn, đã sinh ra các sinh vật vô tri hay thú tính, vì chúng không có lý trí; không khí sinh ra loài bay, và nước sinh ra loài bơi lội.
17. And the Earth and the Water were separated, either from the other, as the Mind would; and the Earth brought forth from herself, such living creatures as she had, four-footed and creeping beasts, wild and tame. Và Đất cùng Nước được tách ra, cái này khỏi cái kia, theo ý muốn của Tâm trí; và Đất từ chính mình sinh ra các sinh vật mà nó có, là loài bốn chân và loài bò sát, hoang dã và thuần hóa.
18. But the Father of all things, the Mind being Life and Light, brought forth Man like unto himself, whom he loved s his proper Birth; for he was all beauteous, having the image of his Father. Nhưng Cha của vạn vật, tức Tâm trí, là Sự sống và Ánh sáng, đã sinh ra Con người giống như chính mình, người mà Ngài yêu thương như đứa con ruột của mình; vì con người hoàn toàn đẹp đẽ, mang hình ảnh của Cha mình.
19. For indeed God was exceedingly enamoured of his own form or shape, and delivered unto it all his own Workmanships. Quả thật, Thượng Đế vô cùng say mê hình dáng của chính mình, và đã trao cho nó tất cả các Công trình của Ngài.
But he, seeing and understanding the Creation of the Workman in the whole, would needs also himself fall to work, and so was separated from the Father, being in the sphere of Generation or Operation. Nhưng Con người, khi thấy và hiểu được Sự sáng tạo của người Thợ trong toàn thể, cũng tự muốn bắt tay vào việc, và thế là được tách khỏi Cha, ở trong phạm vi của Sự sinh sôi hay Vận hành.
20. Having all Power, he considered the Operations or Workmanships of the Seven; but they loved him, and everyone made him partaker of his own order. Có được toàn bộ Quyền năng, Con người xem xét các Tác phẩm của Bảy Vị kia; nhưng họ yêu thương con người, và mỗi vị đều cho con người tham gia vào trật tự của mình.
21. And he learning diligently, and understanding their Essence, and partaking their Nature, resolved to pierce and break through the Circumference of the Circles, and to understand the power of him that sits upon the Fire. Và khi chăm chỉ học hỏi, thấu hiểu Bản chất và dự phần vào Tự nhiên của họ, Con người quyết tâm xuyên thủng Chu vi của các Vòng tròn, và thấu hiểu sức mạnh của đấng ngự trên ngọn Lửa.
22. And having already all power of mortal things, of the Living, and of the unreasonable creatures of the World, stooped down and peeped through the Harmony, and breaking through the strength of the Circles, so showed and made manifest the downward-born Nature, the fair and beautiful Shape or Form of God. Và đã có tất cả quyền năng của những vật hữu tử, của các Sinh vật, và của những loài vô tri trên Thế giới, Con người cúi xuống và nhìn qua sự Hài hòa, và xuyên phá sức mạnh của các Vòng tròn, rồi hiện ra và biểu lộ cho Tự nhiên hạ đẳng thấy Hình dạng đẹp đẽ của Thượng Đế.
23. Which, when he saw, having in itself the unsatiable Beauty, and all the operations of the Seven Governors, and the Form or Shape of God, he smiled for love, as if he had seen the shape or likeness in the Water, or the shadow upon the Earth, of the fairest Human form. Tự nhiên, khi thấy nó, một hình thể mang trong mình vẻ đẹp không thể thỏa mãn và tất cả sự vận hành của Bảy Vị cai quản, cùng Hình dạng của Thượng Đế, đã mỉm cười vì yêu, như thể đã nhìn thấy hình ảnh hay bóng hình của dung mạo Con người đẹp nhất trong Nước hay trên mặt Đất.
24. And seeing in the Water a Shape, a Shape like unto himself, in himself he loved it, and would cohabit with it, and immediately upon the resolution ensued the operation, and brought forth the unreasonable Image or Shape. Và khi thấy trong Nước một hình bóng giống hệt mình, Con người liền yêu nó trong chính mình, và muốn chung sống với nó. Ngay khi quyết định thì hành động theo sau, và sinh ra Hình ảnh hay Hình dạng vô tri.
25. Nature presently laying hold of what it so much loved, did wholly wrap herself about it, and they were mingled, for they loved one another. Tự nhiên ngay lập tức nắm lấy thứ nó vô cùng yêu quý, bao bọc hoàn toàn lấy nó, và chúng hòa vào nhau, vì chúng yêu thương nhau.
26. And from this cause Man above all things that live upon earth is double: Mortal, because of his body, and Immortal, because of the substantial Man. Và vì lẽ đó, Con người, trên hết mọi loài sống trên trái đất, lại có hai mặt: Hữu tử, vì thân xác của mình, và Bất tử, vì là Con người bản thể.
For being immortal, and having power of all things, he yet suffers mortal things, and such as are subject to Fate or Destiny. Vì bất tử, và có quyền năng trên vạn vật, nhưng Con người vẫn phải chịu đựng những điều hữu tử, và những thứ thuộc về Số phận hay Định mệnh.
27. And therefore being above all Harmony, he is made and become a servant to Harmony, he is Hermaphrodite, or Male and Female, and watchful, he is governed by and subjected to a Father, that is both Male and Female, and watchful. Và vì thế, dù ở trên mọi sự Hài hòa, Con người lại trở thành tôi tớ của sự Hài hòa. Con người là Lưỡng tính, vừa là Đực vừa là Cái, và luôn tỉnh thức; Con người được cai trị và lệ thuộc vào một người Cha cũng vừa là Đực vừa là Cái, và luôn tỉnh thức.
28. After these things, I said, Thou art my mind, and I am in love with Reason. Sau những điều này, ta nói: “Ngài là tâm trí của tôi, và tôi yêu Lý trí.”
29. Then said Pimander, This is the Mystery that to this day is hidden and kept secret; for Nature being mingled with man, brought forth a Wonder most Wonderful; for he having the nature of the Harmony of the Seven, from him whom I told thee, the Fire and the Spirit, Nature continued not, but forthwith brought forth seven Men, all Males and Females, and sublime, or on high, according to the Natures of the seven Governors. Bấy giờ Poemander nói: “Đây là Bí ẩn mà cho đến ngày nay vẫn còn được ẩn giấu; vì Tự nhiên khi hòa hợp với con người, đã sinh ra một Kỳ quan cực kỳ Kỳ diệu. Bởi Con người mang bản chất của sự Hài hòa của Bảy Vị, từ đấng mà ta đã nói với ngươi, tức Lửa và Thần khí, Tự nhiên không dừng lại, mà ngay lập tức sinh ra bảy Con người, tất cả đều là nam và nữ, và siêu việt, hay ở trên cao, theo Bản chất của bảy Vị cai quản.”
30. And after these things, O Pimander, quoth I, I am now come into a great desire and longing to hear; do not digress or run out. Và sau những điều này, hỡi Poemander, ta thưa: “Giờ đây tôi vô cùng khao khát được nghe; xin ngài đừng lạc đề hay đi xa.”
31. But he said, Keep silence, for I have not yet finished the first speech. Nhưng Người nói: “Hãy im lặng, vì ta chưa kết thúc bài thuyết giảng đầu tiên.”
32. Trism. Behold, I am silent. Trismegistus: “Này, tôi đang im lặng.”
33. Pim. The Generation therefore of these Seven was after this manner:–The Air being Feminine and the Water desirous of Copulation, took from the Fire its ripeness, and from the aether Spirit, and so Nature produced Bodies after the species and shape of men. Poemander: “Vậy sự Sinh ra của Bảy vị này là như sau: Khí là Nữ tính và Nước khao khát Giao hợp, đã lấy sự chín muồi từ Lửa, và Thần khí từ khí ether, và thế là Tự nhiên sinh ra các Thân xác theo loài và hình dạng của con người.”
34. And man was made of Life and Light, into Soul and Mind; of Life the soul, of Light the Mind. Và con người được tạo thành từ Sự sống và Ánh sáng, thành Linh hồn và Tâm trí; từ Sự sống thành linh hồn, từ Ánh sáng thành Tâm trí.
35. And so all the members of the Sensible World, continued unto the period of the end, bearing rule and generating. Và thế là tất cả các thành viên của Thế giới Cảm tính tiếp tục tồn tại cho đến cuối kỳ, cai trị và sinh sản.
36. Hear now the rest of that speech thou so much desireth to hear. Bây giờ hãy nghe phần còn lại của bài thuyết giảng mà ngươi vô cùng khao khát được nghe.
37. When that period was fulfilled, the bond of all things was loosed and untied by the will of God; for all living Creatures being Hermaphroditical, or Male and Female, were loosed and untied together with man; and so the Males were apart by themselves and the Females likewise. Khi thời kỳ đó hoàn tất, mối liên kết của vạn vật được nới lỏng và cởi bỏ theo ý muốn của Thượng Đế; vì tất cả các sinh vật sống, đều lưỡng tính, hay là Đực và Cái, đã được cởi trói cùng với con người; và thế là loài Đực tự ở riêng và loài Cái cũng vậy.
38. And straightways God said to the Holy Word, Increase in increasing and multiplying in multitude all you my Creatures and Workmanships. Và ngay lập tức, Thượng Đế phán với Ngôn từ Thánh thiêng: “Hãy tăng trưởng và nhân lên vô số, tất cả các con, những tạo vật và công trình của ta.
And let him that is endued with mind, know himself to be immortal; and that the cause of death is the love of the body, and let him learn all things that are. Và hãy để kẻ được ban cho tâm trí biết rằng mình bất tử; và rằng nguyên nhân của cái chết là tình yêu dành cho thân xác, và hãy để nó học hỏi về vạn vật.”
39. When he had thus said, Providence by Fate of Harmony, made the mixtures and established the Generations, and all things were multiplied according to their kind. Khi Ngài phán xong, Thiên mệnh thông qua Số phận của Hài hòa đã tạo ra các sự pha trộn và thiết lập các thế hệ, và vạn vật được nhân lên theo loài của chúng.
And he that knew himself, came at length to the Superstantial of every way substantial good. Và kẻ tự biết mình, cuối cùng đã đến được với cái Thiện siêu bản thể của mọi cái thiện bản thể.
40. But he that thro’ the error of Love loved the Body, abideth wandering in darkness, sensible, suffering the things of death. Nhưng kẻ vì lầm lạc trong Tình yêu mà yêu Thân xác, sẽ lang thang trong bóng tối, chỉ có cảm giác, chịu đựng những cái chết.
41. Trism. But why do they that are ignorant, sin so much, that they should therefore be deprived of immortality? Trismegistus: “Nhưng tại sao những kẻ ngu muội lại phạm nhiều tội lỗi đến thế, để rồi bị tước đoạt sự bất tử?”
42. Pim. Thou seemest not to have understood what thou hast heard. Poemander: “Dường như ngươi chưa hiểu những gì ngươi đã nghe.”
43. Trism. Peradventure I seem so to thee; but I both understand and remember them. Trismegistus: “Có lẽ với ngài là vậy; nhưng tôi vừa hiểu vừa nhớ chúng.”
44. Pim. I am glad for thy sake if thou understoodest them. Poemander: “Ta mừng cho ngươi nếu ngươi đã hiểu.”
45. Trism. Tell me why are they worthy of death, that are in death? Trismegistus: “Hãy nói cho tôi biết, tại sao những kẻ đang trong cái chết lại đáng chết?”
46. Pim. Because there goeth a sad and dismal darkness before its body; of which darkness is the moist nature, of which moist nature the Body consisteth in the sensible world, from whence death is derived. Poemander: “Bởi vì một bóng tối buồn thảm đi trước thân xác của nó; từ bóng tối ấy sinh ra bản thể ẩm ướt, và từ bản thể ẩm ướt ấy cấu thành Thân xác trong thế giới cảm tính, là nơi cái chết bắt nguồn.
Has thou understood this aright? Ngươi đã hiểu rõ điều này chưa?”
47. Trism. But why, or how doth he that understands himself, go or pass into God? Trismegistus: “Nhưng tại sao, hay làm thế nào mà người hiểu rõ chính mình lại đi vào hay đến được với Thượng Đế?”
48. Pim. That which the Word of God said, say I: Because the Father of all things consists of Life and Light, whereof man is made. Poemander: “Điều Ngôn từ của Thượng Đế đã nói, ta cũng nói: Bởi vì Cha của vạn vật bao gồm Sự sống và Ánh sáng, từ đó con người được tạo thành.”
49. Trism. Thou sayest very well. Trismegistus: “Ngài nói rất phải.”
50. Pim. God and the Father is Light and Life, of which Man is made. Poemander: “Thượng Đế và Cha là Ánh sáng và Sự sống, từ đó Con người được tạo thành.
If therefore thou learn and believe thyself to be of the Life and Light, thou shalt again pass into Life. Do đó, nếu ngươi học hỏi và tin rằng mình thuộc về Sự sống và Ánh sáng, ngươi sẽ một lần nữa trở về với Sự sống.”
51. Trism. But yet tell me more, O my Mind, how I shall go into Life. Trismegistus: “Nhưng xin hãy nói cho tôi biết thêm, hỡi Tâm trí của tôi, làm thế nào tôi sẽ đi vào Sự sống.”
52. Pim. God saith, Let man, endued with a mind, mark, consider, and know himself well. Poemander: “Thượng Đế phán rằng: ‘Hãy để con người, được ban cho một tâm trí, chú ý, suy xét, và tự biết rõ mình.’”
53. Trism. Have not all men a mind? Trismegistus: “Chẳng phải mọi người đều có một tâm trí sao?”
54. Pim. Take heed what thou sayest, for I the mind come unto men that are holy and good, pure and merciful, and that live piously and religiously; and my presence is a help unto them. Poemander: “Hãy cẩn thận lời ngươi nói, vì ta, Tâm trí, chỉ đến với những người thánh thiện và tốt lành, trong sạch và nhân từ, và sống sùng kính và mộ đạo; và sự hiện diện của ta là một sự trợ giúp cho họ.
And forthwith they know all things, and lovingly they supplicate and propitiate the Father; and blessing him, they give him thanks, and sing hymns unto him, being ordered and directed by filial Affection and natural Love. Và ngay lập tức họ biết mọi thứ, và họ yêu thương cầu xin và làm đẹp lòng Cha; và ca ngợi Ngài, họ tạ ơn Ngài, và hát thánh ca dâng lên Ngài, được sắp đặt và hướng dẫn bởi tình Con thảo và tình yêu Tự nhiên.
And before they give up their bodies to the death of them, they hate their senses, knowing their Works and Operations. Và trước khi giao phó thân xác của mình cho cái chết, họ căm ghét các giác quan, vì biết rõ các Việc làm và Hoạt động của chúng.”
55. Rather I that am the Mind itself, will not suffer the operations or Works, which happen or belong to the body, to be finished and brought to perfection in them; but being the Porter or Doorkeeper, I will shut up the entrances of Evil, and cut off the thoughtful desires of filthy works. Đúng hơn là ta, chính Tâm trí, sẽ không để cho các hoạt động hay việc làm xảy ra hoặc thuộc về thân xác được hoàn tất và trở nên hoàn hảo trong họ; mà với tư cách là người Gác cửa, ta sẽ đóng lại các lối vào của Ác, và cắt đứt những ham muốn từ những việc làm dơ bẩn.
56. But to the foolish, and evil, and wicked, and envious, and covetous, and murderous, and profane, I am far off, giving place to the revenging Demon, which applying unto him the sharpness of fire, tormenteth such a man sensible, and armeth him the more to all wickedness, that he may obtain the greater punishment. Nhưng với kẻ ngu ngốc, gian ác, độc địa, ganh tị, tham lam, sát nhân, và bất kính, ta ở rất xa, nhường chỗ cho Ác ma báo thù, nó áp dụng sự sắc bén của lửa vào người đó, dày vò kẻ đó một cách hữu hình, và vũ trang cho hắn thêm mạnh mẽ trong mọi điều xấu xa, để hắn có thể nhận hình phạt nặng hơn.
57. And such an one never ceaseth, having unfulfiled desires, and unsatisfiable concupiscences, and always fighting in darkness; for the Demon always afflicts and tormenteth him continually, and increaseth the fire upon him more and more. Và kẻ như vậy không bao giờ ngừng lại, mang những ham muốn không được thỏa mãn, những dục vọng không thể lấp đầy, và luôn chiến đấu trong bóng tối; vì Ác ma luôn hành hạ và dày vò hắn liên tục, và làm cho ngọn lửa bùng lên trên hắn ngày càng dữ dội hơn.
58. Trism. Thou hast, O Mind, most excellently taught me all things, as I desired; but tell me, moreover, after the return is made, what then? Trismegistus: “Hỡi Tâm trí, ngài đã dạy cho tôi tất cả mọi điều một cách tuyệt vời, như tôi mong muốn; nhưng xin ngài nói thêm, sau khi trở về, điều gì sẽ xảy ra?”
59. Pim. First of all, in the resolution of the material body, the Body itself is given up to alteration, and the form which it had becometh invisible; and the idle manners are permitted, and left to the Demon, and the senses of the body return into their Fountains, being parts, and again made up into Operations. Poemander: “Trước hết, trong sự tan rã của thân xác vật chất, chính Thân xác sẽ được giao cho sự biến đổi, và hình dạng mà nó có trở nên vô hình; và những thói quen vô ích được cho phép và để lại cho Ác ma, và các giác quan của thân xác trở về với Cội nguồn của chúng, là những bộ phận, và một lần nữa được cấu thành thành các Hoạt động.”
60. And Anger, and concupiscence, go into the brutish or unreasonable nature; and the rest striveth upward by Harmony. Và Giận dữ, cùng dục vọng, đi vào bản chất thú tính hay vô tri; và phần còn lại phấn đấu đi lên qua sự Hài hòa.
61. And to the first Zone it giveth the power it had of increasing and diminishing. Và nó trao cho Vùng thứ nhất quyền năng tăng trưởng và suy giảm mà nó đã có.
62. To the second, the machinations or plotting of evils, and one effectual deceit or craft. Trao cho Vùng thứ hai những âm mưu gian ác, và một sự lừa dối hay xảo trá hiệu quả.
63. To the third, the idle deceit of Concupiscence. Trao cho Vùng thứ ba sự lừa dối vô ích của Dục vọng.
64. To the fourth, the desire of Rule, and unsatiable Ambition. Trao cho Vùng thứ tư ham muốn Quyền lực, và Tham vọng không thể thỏa mãn.
65. To the fifth, profane Boldness, and the headlong rashness of confidence. Trao cho Vùng thứ năm sự Táo bạo bất kính, và sự hấp tấp liều lĩnh của lòng tự tin.
66. To the sixth, Evil and ineffectual occasions of Riches. Trao cho Vùng thứ sáu những cơ hội xấu xa và vô ích của Giàu sang.
67. To the seventh Zone, subtle Falsehood, always lying in wait. Trao cho Vùng thứ bảy sự Dối trá tinh vi, luôn rình rập.
68. And then being made naked of all the Operations of Harmony, it cometh to the Eighth Nature, having its proper power, and singeth praises to the father with the things that are, and all they that are present rejoice, and congratulate the coming of it; and being made like to them with whom it converseth, it heareth also the Powers that are above the Eighth Nature, singing Praise to God in a certain voice that is peculiar to them. Và sau đó, khi đã trần trụi khỏi tất cả các Hoạt động của sự Hài hòa, nó đến với Bản thể Thứ tám, mang sức mạnh riêng của mình, và hát những bài ca tụng Cha cùng với vạn vật hiện hữu, và tất cả những ai có mặt đều vui mừng, và chúc mừng sự trở về của nó; và khi đã trở nên giống những người nó trò chuyện cùng, nó cũng nghe thấy các Quyền năng ở trên Bản thể Thứ tám, đang hát những bài ca Tụng Thượng Đế bằng một giọng nói riêng của họ.
69. And then in order they return unto the Father, and themselves deliver themselves to the Powers, and becoming Powers they are in God. Và rồi theo thứ tự, họ trở về với Cha, và tự mình dâng mình cho các Quyền năng, và trở thành Quyền năng, họ ở trong Thượng Đế.
70. This is the Good, and to them that know, to be desired. Đây là cái Thiện, và là điều đáng khao khát đối với những người hiểu biết.
71. Furthermore, why sayest thou, What resteth, but that understanding all men thou become a guide, and way-leader to them that are worthy; that the kind of Humanity, or Mankind, may be saved by God? Hơn nữa, tại sao ngươi còn hỏi “Còn lại gì nữa?”, thay vì khi đã hiểu tất cả mọi người, hãy trở thành người dẫn lối cho những người xứng đáng; để loài người, hay nhân loại, có thể được Thượng Đế cứu rỗi?
72. When Pimander had thus said unto me, he was mingled among the Powers. Khi Poemander nói xong với ta, Người hòa mình vào giữa các Quyền năng.
73. But I, giving thanks, and blessing the father of all things, rose up, being enabled by him, and taught the Nature of the Nature of the whole, and having seen the greatest sight or spectacle. Còn ta, tạ ơn và ca ngợi Cha của vạn vật, đứng dậy, được Người ban cho sức mạnh, và được dạy về Bản chất của tự nhiên của toàn thể, và đã chứng kiến một cảnh tượng vĩ đại nhất.
74. And I began to Preach unto men, the beauty and fairness of Piety and Knowledge. Và ta bắt đầu Giảng đạo cho mọi người, về vẻ đẹp của lòng Sùng kính và Tri thức.
75. O ye people, men, born and made of the earth, which have given yourselves over to drunkenness and sleep, and to the ignorance of God, be sober and cease your surfeit, whereunto you are allured and visited by brutish and unreasonable sleep. “Hỡi mọi người, những kẻ được sinh ra và làm bằng đất, những kẻ đã đắm mình trong men say và giấc ngủ, và trong sự vô minh về Thượng Đế, hãy tỉnh táo và ngừng sự thừa thãi của các ngươi, điều mà các ngươi bị lôi cuốn và viếng thăm bởi giấc ngủ thú tính và vô tri.”
76. And they that heard me come willingly and with one accord; and then I said further: Và những người nghe ta đã sẵn lòng đến và đồng lòng; và rồi ta nói tiếp:
77. Why, O Men of the Offspring of Earth, why have you delivered yourselves over unto Death, having power to partake of Immortality? “Tại sao, hỡi những Người thuộc dòng dõi của Đất, tại sao các ngươi lại tự giao mình cho Cái chết, trong khi có quyền được dự phần vào sự Bất tử?
Repent and change your minds, you that have together walked in Error, and have been darkened in ignorance. Hãy hối cải và thay đổi tâm trí, hỡi những người đã cùng nhau bước đi trong lầm lạc, và đã bị che mờ trong vô minh.”
78. Depart from that dark light, be partakers of Immortality, and leave or forsake corruption. “Hãy rời khỏi ánh sáng tăm tối đó, hãy trở thành những người dự phần vào sự Bất tử, và từ bỏ sự mục rữa.”
79. And some of them that heard me, mocking and scorning went away, and delivered themselves up to the way of Death. Và một số người nghe ta, chế nhạo và khinh miệt bỏ đi, và tự giao mình cho con đường của Cái chết.
80. But others casting themselves down before my feet, besought me that they might be taught; but I, causing them to rise up, became a guide of mankind, teaching them the reasons how, and by what means they may be saved. Nhưng những người khác quỳ xuống dưới chân ta, cầu xin được dạy bảo; nhưng ta, đỡ họ đứng dậy, đã trở thành người dẫn lối của nhân loại, dạy cho họ lý lẽ về cách thức và phương tiện để họ có thể được cứu rỗi.
And I sowed in them the Words of Wisdom, and nourished them with Ambrozian Water of Immortality. Và ta gieo vào họ những Lời của Trí tuệ, và nuôi dưỡng họ bằng Nước Bất tử Ambrozian.
81. And when it was evening and the brightness of the same began wholly to go down, I commanded them to go down, I commanded them to give thanks to God; and when they had finished their thanksgiving, everyone returned to his own lodging. Và khi chiều về và ánh sáng của ngày bắt đầu lặn hẳn, ta truyền lệnh cho họ tạ ơn Thượng Đế; và khi họ đã xong lời tạ ơn, mọi người trở về nơi ở của mình.
82. But I wrote in myself the bounty and benevolence of Pimander; and being filled with what I most desired, I was exceedingly glad. Nhưng ta đã ghi lại trong mình sự rộng lượng và nhân từ của Poemander; và được lấp đầy với những gì ta khao khát nhất, ta vô cùng vui sướng.
83. For the sleep of the body was the sober watchfulness of the mind; and the shutting of my eyes the true sight, and my silence great with child and full of good; and the pronouncing of my words the blossoms and fruits of good things. Vì giấc ngủ của thân xác chính là sự tỉnh thức của tâm trí; và việc nhắm mắt của ta là sự thấy biết chân thực, và sự im lặng của ta chứa đầy điều tốt lành; và việc thốt ra lời của ta là hoa trái của những điều thiện.
84. And thus it came to pass or happened unto me, which I received from my mind, that is Pimander, the Lord of the Word; whereby I became inspired by God with the Truth. Và thế là điều đó đã xảy đến với ta, điều mà ta nhận được từ tâm trí của mình, tức Poemander, Chúa tể của Ngôn từ; nhờ đó ta được Thượng Đế soi sáng với Chân lý.
85. For which cause, with my soul and whole strength, I give praise and blessing unto God the Father. Vì lẽ đó, với linh hồn và toàn bộ sức lực, ta dâng lời ca ngợi và tán dương lên Thượng Đế là Cha.
86. Holy is God, the Father of all things. Thánh thay Thượng Đế, Cha của vạn vật.
87. Holy is God, whose will is performed and accomplished by his own powers. Thánh thay Thượng Đế, người có ý chí được thực hiện và hoàn thành bởi chính các quyền năng của Ngài.
88. Holy is God, that determineth to be known, and is known by his own, or those that are his. Thánh thay Thượng Đế, người quyết định để được nhận biết, và được nhận biết bởi những người của Ngài.
89. Holy art thou, that by thy Word has established all things. Thánh thay Ngài, người đã dùng Ngôn từ của mình thiết lập nên vạn vật.
90. Holy art thou, of whom all Nature is the Image. Thánh thay Ngài, người mà toàn thể Tự nhiên là hình ảnh.
91. Holy art thou, whom Nature hath not formed. Thánh thay Ngài, người mà Tự nhiên không tạo nên.
92. Holy art thou, that art stronger than all power. Thánh thay Ngài, người mạnh hơn mọi quyền năng.
93. Holy art thou, that art stronger than all excellency. Thánh thay Ngài, người mạnh hơn mọi sự siêu việt.
94. Holy art thou, that art better than all praise. Thánh thay Ngài, người tốt hơn mọi lời ca ngợi.
95. Accept these reasonable sacrifices from a pure soul, and a heart that stretched out unto thee. Xin hãy chấp nhận những hy lễ hợp lý này từ một linh hồn trong sạch, và một trái tim hướng về Ngài.
96. O unspeakable, unutterable, to be praised with silence! Hỡi Đấng không thể nói thành lời, không thể diễn tả, được ca ngợi bằng sự im lặng!
97. I beseech thee, that I may never err from the knowledge of thee; look mercifully upon me, and enable me, and enlighten with this Grace those that are in Ignorance, the brothers of my kind, but thy Sons. Con cầu xin Ngài, để con không bao giờ lạc lối khỏi sự hiểu biết về Ngài; xin hãy nhân từ nhìn xuống con, và ban cho con sức mạnh, và soi sáng bằng Ân điển này cho những người còn trong Vô minh, những anh em cùng dòng dõi với con, nhưng là Con của Ngài.
98. Therefore I believe thee, and bear witness, and go into the Life and Light. Vì thế con tin Ngài, và làm chứng, và đi vào Sự sống và Ánh sáng.
99. Blessed art thou, O Father; thy man would be sanctified with thee, as thou hast given him all power. Ngài được chúc phúc, hỡi Cha; người của Ngài muốn được nên thánh cùng Ngài, vì Ngài đã ban cho anh ta mọi quyền năng.
The End of The Second Book, Called, POEMANDER…. HẾT QUYỂN HAI, POEMANDER.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.