8. Ghi Chép Một Đêm

8. The Record Of A Night8. Ghi Chép Một Đêm
Again a night of experimental work. Lại một đêm của công việc thực nghiệm.
As I closed the shutters, the stars shone with unusual brilliancy. Khi tôi khép những cánh cửa chớp, bầu trời sao tỏa sáng với một vẻ rực rỡ lạ thường.
The atmospheric conditions were perfect - clear, cold, dry, and still. Điều kiện khí quyển hoàn hảo – bầu không khí trong trẻo, khô ráo, tĩnh lặng.
As I shut out the light, seating myself opposite Mrs. French, clouds within the room for a moment seemed to form and roll like smoke from a great fire. Khi tôi tắt hết đèn và ngồi đối diện bà French, những đám mây trong phòng dường như cuộn lại và trôi lững lờ như khói bốc lên từ một đám cháy lớn.
Soon they passed away, and non-luminous points of light became apparent and slowly floated. Chúng nhanh chóng tan đi, để lộ những điểm sáng mờ không phát quang, chầm chậm trôi nổi.
Then there appeared above my head the ribbon or bar of magnetic substance that is always present when the conditions are right for speech with those beyond. Rồi xuất hiện trên đầu tôi một dải hoặc thanh chất từ tính, dấu hiệu thường thấy mỗi khi điều kiện thuận lợi để giao tiếp với thế giới bên kia.
Mrs. French through her psychic sight saw a great number of people passing and repassing, while chemists manipulated the etheric and physical material into the exact condition for use in speech. Qua thị giác ngoại cảm, bà French nhìn thấy vô số người qua lại, trong khi những “nhà hóa học” của cõi etheric đang điều chế vật chất etheric và vật chất vật lý thành trạng thái phù hợp để dùng cho giọng nói.
While waiting for the work to begin, I recall trying to fix the line of demarcation between the two worlds. Trong khi chờ đợi buổi làm việc bắt đầu, tôi nhớ lại những lần cố gắng xác định ranh giới giữa hai thế giới.
In a moment I should hear the voices of those actually living in another plane, and they would hear mine. Chỉ trong giây lát nữa thôi, tôi sẽ nghe tiếng nói của những người thực sự đang sống ở một cõi khác, và họ cũng sẽ nghe tiếng tôi.
I should speak to them and they to me. They would see me perfectly, though I could not see them. Chúng tôi sẽ nói chuyện với nhau, họ sẽ nhìn thấy tôi rõ ràng, dù tôi không thể thấy họ.
Sight is about the only quality possessed by spirit people in the conditions prevailing which is denied me. Thị giác là gần như thứ duy nhất mà người ở cõi tinh thần có nhưng tôi thì không.
After a moment’s reflection I realized the limitation of our sight at all times. Một khoảnh khắc suy ngẫm khiến tôi nhận ra giới hạn của thị giác con người ở mọi thời điểm.
Such situations make one think deeply. Những tình huống như thế này khiến người ta phải suy nghĩ sâu sắc.
“Good evening, Mr. Randall.” “Chào buổi tối, ông Randall.”
A deep masculine voice broke the stillness. Một giọng đàn ông trầm vang phá vỡ sự tĩnh lặng.
It was not the voice of Mrs. French, nor were her vocal organs of speech used by another. Đó không phải là giọng của bà French, cũng không phải âm thanh được tạo ra qua thanh quản của bà bởi một ai khác.
She being deaf, often failed to hear the voices of spirit people and spoke while others were speaking, such interruption sometimes causing confusion. Bà vốn bị điếc, nên thường không nghe thấy tiếng của những người ở thế giới bên kia và có lúc còn nói chen vào khi họ đang trò chuyện, đôi khi gây ra chút hỗn loạn.
“We have,” the voice of one of the directors of our group continued, “a great work to do tonight, and as atmospheric conditions are unusual, we have gathered a great throng in substantially the same mental attitude, and have brought them here for help. “Chúng tôi,” giọng của một trong những người điều phối nhóm tiếp tục, “có một công việc lớn phải làm tối nay. Khi điều kiện khí quyển đang đặc biệt thuận lợi, chúng tôi đã tập hợp một đám đông lớn có cùng trạng thái tinh thần, đưa họ đến đây để nhận sự giúp đỡ.
You have done this work so long that you, of course, understand that these people do not as yet know that they have separated from their old physical bodies and are no longer inhabitants of Earth. Ông đã làm công việc này quá lâu rồi nên hẳn hiểu rằng những người này vẫn chưa nhận thức được rằng họ đã rời khỏi thân xác cũ và không còn là cư dân của Trái Đất nữa.
Won’t you talk to them? Ông có thể nói chuyện với họ chứ?
They are living so much in your plane as yet that you can secure and hold their attention more closely than we can.” Họ vẫn đang sống quá nhiều trong cõi của ông, nên ông có thể dễ dàng thu hút và giữ sự chú ý của họ hơn chúng tôi.”
This was not a new experience. Đây không phải một trải nghiệm mới đối với tôi.
My records show upwards of 700 nights when this particular character of work had been done. Nhật ký của tôi ghi lại hơn 700 đêm từng diễn ra kiểu công việc này.
As requested, I commenced to talk easily and naturally. Như đã được yêu cầu, tôi bắt đầu nói chuyện một cách dễ dàng và tự nhiên.
I could not see, but Mrs. French could always see spirit people gather about listening, and some would come close watching me intently, while others would discuss among themselves softly so as not to interrupt my talk; they were evidently trying to comprehend the situation. Tôi không thể nhìn thấy họ, nhưng bà French luôn có thể nhìn thấy những người từ thế giới tinh thần đang tụ tập xung quanh lắng nghe, một số đến gần, quan sát tôi chăm chú, những người khác thì thì thầm bàn bạc với nhau để không làm gián đoạn cuộc trò chuyện.
I had long ago learned that those whom we were endeavoring to help must not be startled or frightened, as such shock would break the conditions that enabled them to speak; and therefore on this night I discussed generally the unusual situations presented at this particular meeting, leading slowly up to the great change that had taken place. Rõ ràng họ đang cố gắng hiểu tình huống. Tôi đã học được từ lâu rằng không được làm những người mà chúng tôi đang cố giúp sợ hãi hay hoảng hốt, vì cú sốc đó có thể phá vỡ điều kiện cho phép họ nói chuyện; vì vậy, đêm nay tôi bắt đầu nói về những hiện tượng kỳ lạ đang xảy ra, dẫn dắt họ dần dần đến nhận thức về sự thay đổi lớn lao đã diễn ra trong cuộc sống của họ.
Had I bluntly told those assembled that they were all dead, the shock would probably have ended the work for the night. Nếu tôi đột ngột nói thẳng rằng tất cả những người tụ tập ở đây đều đã chết, cú sốc đó có thể chấm dứt công việc trong đêm.
I have often known this to occur. It had been my observation that some man among those assembled could take on material that would enable him to talk, and in that manner rivet the attention of all those who listened, and this night was no exception to the rule. Qua quan sát, tôi nhận thấy rằng thường có một người trong đám đông sẽ “mượn” được đủ vật chất để có thể nói chuyện, và từ đó thu hút sự chú ý của tất cả những người còn lại. Đêm nay cũng không phải ngoại lệ.
“I have,” a strong voice remarked, “been deeply impressed with what you have said, but I do not comprehend its import. “Tôi đã,” một giọng nói mạnh mẽ cất lên, “bị ấn tượng sâu sắc với những điều ông nói, nhưng tôi không hiểu hết ý nghĩa của nó.
Death is a subject that I did not like to think about; people generally give the subject little if any attention, and of course enter the next life ignorantly. Cái chết là một chủ đề mà tôi không thích nghĩ đến; con người nhìn chung ít khi chú ý đến nó, và đương nhiên bước vào cõi sau trong vô minh.
I am afraid I am no exception to the rule. Tôi e rằng tôi cũng không ngoại lệ.
If I am to infer that such a change has come into my life, I am wholly unprepared.” Nếu tôi phải hiểu rằng một sự thay đổi như vậy đã xảy ra trong đời mình, thì tôi hoàn toàn chưa sẵn sàng.”
“Tell me,” I answered, “what you now observe, for I assume your vision is clear.” “Xin hãy nói cho tôi biết,” tôi đáp, “ông quan sát thấy điều gì, vì tôi đoán thị giác của ông lúc này đã rõ ràng.”
“For sometime I have been watching the preparations being made. “Trong một thời gian, tôi đã quan sát quá trình chuẩn bị,” ông nói.
Substance appearing like bars of light about you and the lady opposite was being worked and woven into place. “Những chất tựa như dải sáng xuất hiện quanh ông và quý bà đối diện, chúng được xử lý và đan xen vào nhau.
Then I looked about and saw a great company gathered. Rồi tôi nhìn quanh và thấy một đám đông lớn tụ tập.
One of those who seemed directing affairs asked me to permit material to be precipitated upon me so that I might talk to you. Một người có vẻ như là chỉ huy đã yêu cầu tôi cho phép một loại vật chất nào đó bao bọc lấy tôi để tôi có thể nói chuyện với ông.
This was done without my understanding the process or import. Việc đó đã được thực hiện mà tôi không hiểu quy trình hay ý nghĩa của nó.
Tell me the meaning of this procedure, if you please.” Ông có thể giải thích không?”
“I am deeply interested,” I said, “in the progress of man, after death so-called, and with the aid of this lady and the group you saw working with us I am able, when conditions are favorable, to have speech with those beyond the earth-plane.” “Tôi rất quan tâm,” tôi nói, “đến sự tiến hóa của con người sau cái chết, và với sự giúp đỡ của quý bà đây cùng nhóm cộng tác của chúng tôi, tôi có thể – khi điều kiện cho phép – trò chuyện với những người từ cõi bên kia.”
“I gathered that from your first talk,” he answered, “but all is so natural with me that it is hard to believe we are not in the old body, for we are like yet unlike. “Tôi đã hiểu phần nào từ cuộc nói chuyện đầu tiên của ông,” ông đáp, “nhưng mọi thứ với tôi tự nhiên quá đến mức khó tin rằng chúng ta không còn trong thân xác cũ.
Those who seem to control the situation have bodies from which radiates light, while my own and those of all who are gathered listening, seem enveloped in something like a mantle of darkness; not that exactly, for we are surrounded by what I should describe as a dark, intangible substance carried by the individual as he moves. Chúng ta vẫn giống nhau mà cũng lại không giống. Những người dường như điều phối nơi này có cơ thể phát sáng, trong khi tôi và tất cả những người đang lắng nghe đều dường như bị bao phủ bởi một lớp gì đó như một màn tối. Không hẳn là bóng tối, mà là một thứ chất liệu vô hình bám lấy từng cá nhân khi họ di chuyển.
If, as you say, all these whom I see except this lady and yourself are living in the world of spirit, why do we differ so much?” Nếu đúng như ông nói, rằng tất cả những người tôi thấy trừ ông và quý bà đây đều đang sống trong thế giới tinh thần, tại sao chúng tôi lại khác biệt đến vậy?”
“The appearance,” I replied, “is the result of a process of refinement. Tôi đáp: “Vẻ ngoài mà ông thấy chính là kết quả của một quá trình tinh luyện.
I don’t mean in manner or speech, but in soul or spirit development. Tôi không nói đến lễ nghi hay cách cư xử, mà là sự phát triển của linh hồn hay tinh thần.
In the life you now live, the law of attraction holds full dominion, and all those who enter are irresistibly drawn into that mental state or condition that will accord with their own. Trong đời sống mà ông đang trải qua hiện nay, luật hấp dẫn tâm linh chi phối hoàn toàn, và tất cả những ai bước vào đời sống này sẽ không thể cưỡng lại việc bị kéo đến trạng thái tâm linh tương ứng với bản thân họ.
That is what I am told. Đó là điều mà tôi được dạy.
You will find, the intellectual, the high minded, the spiritual, the selfish, the wicked and the immoral, all of them in different groups and in conditions as varying as character. Ông sẽ thấy rằng những người trí tuệ, những tâm hồn cao thượng, những người vị tha, và ngược lại là những kẻ ích kỷ, tội lỗi hay vô đạo đức – tất cả đều thuộc về những nhóm khác nhau và sống trong những điều kiện khác nhau, tương ứng với tính cách và trạng thái tinh thần của họ.
There is no progress from one to another except by a purifying process through labor and suffering until the individual is qualified for advancement. Không có sự tiến bộ nào từ nhóm này sang nhóm khác trừ khi họ trải qua một tiến trình tinh luyện – bằng lao động và sự đau khổ – cho đến khi cá nhân ấy xứng đáng để được nâng lên.
This is a very natural and a very just process, is it not?” Quá trình này rất tự nhiên và hoàn toàn công bằng, đúng không?”
“The suggestion is very new,” he remarked. Người đàn ông đáp: “Đề nghị đó rất mới mẻ với tôi.
“I cannot say that it is not just, but I do say it is novel. Tôi không thể nói rằng nó không công bằng, nhưng rõ ràng nó rất mới lạ.
I never thought of things in that way. Trước đây tôi chưa từng nghĩ đến mọi việc theo cách đó.
If what you say is true, why has it never been taught before?” Nếu những gì ông nói là sự thật, vậy tại sao chưa ai từng dạy tôi điều này?”
“I could answer your question in many ways,” I said. Tôi đáp: “Tôi có thể trả lời ông theo nhiều cách.
“Knowledge is the one thing in the world we have to work for. Nhưng hãy nhớ: kiến thức là thứ duy nhất trên đời mà ta phải tự nỗ lực để đạt được.
You can’t steal, buy, inherit, or beg it; it must be acquired by effort. Không thể ăn trộm, không thể mua, không thể thừa kế, và không thể xin xỏ; nó chỉ có được bằng lao động.
Now, as the world generally speaking has never made any genuine effort to obtain knowledge of the conditions prevailing beyond, it is not surprising that men and women don’t know. Mà thế gian, nói một cách tổng quát, chưa bao giờ thật sự cố gắng tìm hiểu điều gì diễn ra sau cái chết, cho nên không có gì lạ khi con người chẳng biết gì.
Again,” I added, “the average mentality would not, could not, and will not understand, even if I should relate what is being done and accomplished this minute; but there are some thinkers, and their number is fast increasing, who can and will accept a plain statement of fact when it appeals to their reason.” Và thêm một điều: ngay cả khi tôi có kể lại toàn bộ những gì đang diễn ra ngay lúc này đây, thì phần lớn đầu óc của nhân loại cũng sẽ không thể – và không muốn – hiểu được. Nhưng vẫn có một số người có tư duy, và số này đang tăng nhanh, họ có thể – và sẽ – tiếp nhận những sự thật đơn giản khi điều đó đánh động lý trí của họ.” Người kia ngẫm nghĩ rồi nói:
“I am thinking,” he said, “as I never did before, and I don’t believe I could have comprehended that the death-change could be so natural, and so simple. “Tôi đang suy nghĩ, có lẽ là sâu sắc hơn bao giờ hết. Tôi chưa từng hình dung rằng sự chuyển tiếp gọi là cái chết lại có thể tự nhiên và đơn giản đến vậy. Những gì nằm phía sau nó thì dĩ nhiên tôi chưa biết.
What is beyond I don’t, of course, know. Tôi cảm giác như mình chỉ vừa mới tỉnh thức.
I seem to be just waking, I realize that I am a living entity in no way changed. Tôi hiểu rằng tôi vẫn đang sống, là một cá thể có ý thức, không thay đổi gì cả.
I now see I am no longer like you. Tôi bắt đầu thấy rõ rằng mình không còn giống ông nữa.
While you have been talking, those whom I knew in earth-life have come and told me I have made a great change. Khi ông đang nói, một vài người thân mà tôi từng biết khi còn sống đã đến và nói với tôi rằng tôi vừa trải qua một sự chuyển đổi lớn lao.
That is about all I know now.” Đó là tất cả những gì tôi biết lúc này.”
At this moment another spirit speaking said; “You, my friend, have much to learn. Đúng lúc ấy, một linh hồn khác lên tiếng: “Bạn thân mến, anh còn nhiều điều phải học lắm.
Come with me for a little time for reflection; I want you to appreciate that with all your wealth you were a selfish man. Hãy đi cùng tôi một thời gian để suy ngẫm. Tôi muốn anh nhận ra rằng, dù sở hữu nhiều của cải, anh đã từng là một người sống ích kỷ.
The world was not enriched by your journey through it, and this accounts for the gloom that envelops you and all those who come with you. Thế giới không hề tốt đẹp hơn sau khi anh đi qua nó – và chính điều đó là nguyên nhân khiến một màn sương u ám bao phủ quanh anh và những ai đi cùng anh.
The first task that you must learn to do is to live for and help others, a process which humanizes and broadens the soul, and develops the man.” Nhiệm vụ đầu tiên của anh là học cách sống vì người khác và giúp đỡ người khác – một quá trình nhân bản hóa linh hồn và làm nó lớn mạnh hơn.”
Again the silence as the voice ceased. Một lần nữa, sự tĩnh lặng lại bao trùm khi tiếng nói kia dừng lại.
I had an easy discussion with Mrs. French for a time. Tôi bắt đầu trò chuyện nhẹ nhàng với bà French thêm một lúc.
Then there was a whisper; involuntarily I leaned forward, listening intently that no word from out of the unknown land should be lost, and with a slow and measured voice scarcely above a whisper, a woman said: Rồi tôi nghe một tiếng thì thầm. Theo phản xạ, tôi nghiêng người về phía trước, lắng nghe chăm chú để không bỏ sót một lời nào từ vùng đất vô hình. Rồi một giọng nói của phụ nữ, chậm rãi và gần như chỉ là tiếng gió thì thầm, vang lên:
“I cannot understand the wisdom of creation. “Tôi không thể hiểu được sự khôn ngoan của Đấng Sáng Tạo.
It seems with my limited experience so unnecessary that there should be so much sorrow and suffering in my world as well as in yours. Với trải nghiệm hạn hẹp của tôi, tôi cảm thấy thật không cần thiết khi có quá nhiều đau khổ và buồn bã ở thế giới của tôi cũng như ở thế giới của ông.
I am told by teachers greatly advanced that humanity, in working out its destiny, having become selfish, has lost sight of the great object of earth-life. Những người thầy đã tiến bộ rất xa nói với tôi rằng, trong hành trình tìm kiếm định mệnh của mình, nhân loại đã trở nên quá ích kỷ, đến mức họ đã quên mất mục đích lớn lao của kiếp người.
Dominated too much by greed, mankind has wandered away from the path of purpose. Bị thống trị bởi lòng tham, loài người đã lạc lối.
You come in contact with so much unhappiness in your work, for only the unfortunate need the help that you, working with the wonderful groups, can give, that I am permitted to come and speak to you, and to others through you, of the beauty of this land in which we live, to enable you and others to avoid erroneous impressions of all conditions prevailing among us. Trong công việc của ông, ông thường tiếp xúc với quá nhiều đau khổ – bởi chỉ những linh hồn bất hạnh mới cần sự trợ giúp mà ông và các nhóm tuyệt vời của ông có thể cung cấp – vì vậy tôi được phép đến đây để nói với ông, và thông qua ông nói với những người khác, về vẻ đẹp của miền đất nơi chúng tôi đang sống, để giúp ông tránh những ấn tượng sai lệch về điều kiện ở bên này.
I came here as an infant before memory recorded events. Tôi đến đây khi còn là một đứa trẻ, trước cả khi ký ức có thể ghi lại điều gì.
Like all who live among us I came up from the mass of life and obtained my individuality through conception and birth. Cũng như mọi người ở đây, tôi được sinh ra từ khối sinh mệnh tập thể, đạt được bản ngã cá nhân qua sự hoài thai và chào đời.
My first recollection is of a home similar to yours, except more beautiful; I was mothered by those denied motherhood while living among you. Ký ức đầu tiên của tôi là về một ngôi nhà – giống như những ngôi nhà của ông, nhưng đẹp hơn – nơi tôi được nuôi nấng bởi những người phụ nữ từng không thể làm mẹ khi còn sống.
It was all very sweet and tender, without discord or in harmony of any character, but I was taken while yet a baby to the earth-mother, and in her arms while she slept, I absorbed the real mother love. Tất cả đều ngọt ngào, dịu dàng, không hề có bất hòa hay xung đột nào. Nhưng rồi, tôi được đưa về với mẹ trần thế của mình, và trong vòng tay bà khi bà đang ngủ, tôi đã hấp thụ được tình yêu thương của một người mẹ thực sự.
If mothers could only know how children though gone cling to them, how happy they would be, and how glad we are when an earth-mother feels our presence and responds in word or thought! Nếu những người mẹ chỉ biết rằng, những đứa con đã ra đi vẫn luôn bám víu lấy họ, họ sẽ hạnh phúc biết bao! Và chúng tôi – những đứa trẻ ấy – hạnh phúc biết bao khi mẹ trần thế cảm nhận được sự hiện diện của chúng tôi, dù chỉ trong một thoáng nghĩ hay một câu thì thầm.”
As I grew to girlhood, I was given teachers who helped my mental growth, similar to what I see in your life, except that we are not taught by rule. “Khi tôi lớn lên, trở thành một thiếu nữ, tôi được giao cho những người thầy để giúp tôi phát triển trí tuệ, giống như những gì tôi thấy ở thế giới của ông, chỉ khác rằng ở đây chúng tôi không học theo kiểu rập khuôn hay bắt buộc.
The capabilities of each are ascertained, and each is helped and directed along the lines of his adaptability, and so life as it is unfolded grows more wonderful and beautiful each day. Năng lực và thiên hướng của mỗi người sẽ được khám phá, để từ đó họ được hướng dẫn và phát triển theo đúng khả năng vốn có. Cuộc sống nơi đây, với từng ngày trôi qua, cứ thế mở ra trước mắt tôi, ngày càng diệu kỳ và tươi đẹp hơn.”
But I must visit you from time to time and by coming in touch with physical conditions obtain that experience which was lost in leaving your world so young. “Nhưng tôi phải thường xuyên đến thăm thế giới của ông, để qua việc tiếp xúc với những điều kiện vật chất, tôi có thể trải nghiệm những cảm giác mà tôi đã bỏ lỡ khi rời khỏi cõi trần khi còn quá trẻ.”
“Let me impress upon you the charm of our land by saying that I have never yet found a single one who had emerged and come up out of the earth conditions who wanted to go back, inhabit a flesh garment again, and live among you, - and this regardless of earth ties.” “Hãy để tôi nhấn mạnh thêm một điều về vùng đất của chúng tôi: chưa bao giờ tôi gặp một ai đó – dù là người đã từ bỏ xác thân từ lâu hay những người mới đến – mong muốn quay trở lại sống trong thân xác vật chất để trải qua cuộc sống trần gian một lần nữa.
“Tell me more of the actualities of your daily life,” I asked. Điều đó đúng ngay cả với những người còn gắn bó sâu sắc với gia đình, người thân nơi trần thế.
“You think,” she answered, “that you have vision, but your eyes have never looked upon life itself. Ở đây, chúng tôi không có sự luyến tiếc hay khao khát trở lại cuộc sống cũ, bởi những gì chúng tôi có được hiện nay vượt xa mọi tưởng tượng.” Tôi hỏi:
You think you have hearing, but your dull ears have never heard one strain of our divine music. “Xin hãy kể thêm cho tôi nghe về cuộc sống thường nhật nơi cõi của cô. Nó thực sự diễn ra như thế nào?” Cô đáp với giọng dịu dàng:
You have taste, but your tongues have never touched the essence. “Ông nghĩ rằng ông có thị giác, nhưng đôi mắt của ông chưa từng nhìn thấy được sự sống thật sự.
You have smell, and the aroma of roses carried by etheric atoms fills the nostrils, but you cannot appreciate the perfumes of this land of ours. Ông cho rằng mình có thính giác, nhưng đôi tai cứng cỏi ấy chưa từng nghe thấy âm nhạc thần diệu của nơi này. Ông tưởng rằng mình có vị giác, nhưng lưỡi của ông chưa từng nếm được tinh hoa thực sự của sự sống.
You feel the touch of the coarse covering of living form without having any conception of the delight of touching life itself. Và hương thơm của hoa hồng mà ông hít vào – mang theo những nguyên tử vật chất – vẫn chưa thể sánh được với hương thơm tinh khiết của nơi chúng tôi đang sống.”
In this sphere we have opportunities for education, joys, and happiness unthought of by you in the earth-land, but these are only for those who have come out of the gross material condition in which they were born. “Ở đây, chúng tôi có vô số cơ hội để học tập, tận hưởng niềm vui và hạnh phúc mà ông chưa từng nghĩ đến nơi thế giới vật chất. Nhưng những điều này chỉ dành cho những ai đã vượt qua được sự thô ráp của tầng vật chất nơi họ sinh ra.
We live in homes largely in groups where harmony of thought and action is perfect, but we too have as many grades of people as do you, and in our earth-condition is found degradation as great as that which you know. Chúng tôi sống trong những ngôi nhà, thường theo từng nhóm, nơi mà sự hòa hợp trong suy nghĩ và hành động là tuyệt đối. Tuy nhiên, giống như ở thế giới của ông, chúng tôi cũng có nhiều tầng bậc khác nhau.
Here are found the ignorant, the wicked, the immoral, and the vile. Ở đây vẫn tồn tại những kẻ vô minh, độc ác, vô đạo đức, và đê tiện.
Dissolution does not improve or uplift character; that must come from the germ of good in the heart of every living creature. Cái chết không tự động cải thiện hay nâng cao nhân cách của một người – điều đó chỉ có thể đến từ hạt giống thiện lành trong trái tim mỗi sinh linh.”
“Tell those who fear the end,” the voice said, “that what they call death is very wonderful and beautiful; that with us, as with you, though you know it not, love is the one great force in the universe; it is the motor that drives the world and causes action. “Hãy nói với những ai đang sợ hãi về cái chết rằng điều mà họ gọi là ‘cái chết’ thực ra vô cùng tuyệt vời và tươi đẹp. Cũng như nơi ông đang sống mà ông không hề nhận ra, tình yêu chính là lực lượng vĩ đại nhất trong vũ trụ. Tình yêu là động cơ thúc đẩy thế giới vận hành và tạo ra mọi hành động.
All things are done in and through it, and because of it. Tất cả mọi thứ diễn ra đều nhờ vào và thông qua tình yêu.”
Affinity so-called is the process through which the love-force finds expression. “Sự ‘tương hợp’ – hay còn gọi là sự đồng điệu – chính là cách mà lực lượng tình yêu biểu hiện.
But in this connection let me suggest that love is good, and of God, and walks in the path of honor, never into dishonor. Nhưng xin hãy nhớ, tình yêu đích thực là điều tốt đẹp, xuất phát từ Thượng Đế, và nó luôn đi trên con đường của danh dự, chưa bao giờ dẫn đến ô nhục hay đau khổ.
It never brought unhappiness; it is never ‘born of lust?’ “It has been a joy and a privilege to speak to you tonight, for if any words of mine can help or make happier a single soul, that joy is reflected about me, and I am happier for having made others happy. Tình yêu thật sự không bao giờ ‘sinh ra từ dục vọng’. Nó chưa từng mang đến bất hạnh.” “Được nói chuyện với ông đêm nay là một niềm vui và vinh dự đối với tôi. Nếu những lời tôi nói có thể giúp đỡ hoặc mang đến hạnh phúc cho dù chỉ một linh hồn, thì niềm vui ấy sẽ lan tỏa quanh tôi, và tôi cũng trở nên hạnh phúc hơn vì đã làm người khác hạnh phúc.
Such is the law of God, and the secret of the world.Đó chính là luật của Thượng Đế và là bí mật của vũ trụ.”
Good night.” “Chúc ông ngủ ngon.” Tôi ngồi đó, trầm mặc. Những lời nói ấy vang vọng trong tâm trí tôi.
Tôi tự hỏi:
What am I to do with such teachings? “Tôi phải làm gì với những lời dạy này?
Shall I, coward-like, fearing the censure of this little world, hide from men what has been given me? Liệu tôi có nên, giống như một kẻ hèn nhát, e sợ những lời gièm pha của thế gian nhỏ bé này mà giấu nhẹm những sự thật ấy?
Such actual experiences have convinced me that this individual life continues on and on, through the ages. Hay tôi nên viết ra – nói ra – về những trải nghiệm thực tế đã thuyết phục tôi rằng sự sống của mỗi cá nhân là liên tục, kéo dài qua muôn kiếp, không ngừng phát triển?”
If this be so, no tongue should be tied, voice hushed, or hand fail to write of facts so important to the peace and happiness of the human race. “Nếu điều đó là sự thật – thì không một ai nên im lặng, không một tiếng nói nào nên bị kìm hãm, và không một bàn tay nào nên ngừng viết về những sự kiện quan trọng đến vậy cho sự an bình và hạnh phúc của toàn nhân loại.”
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.