23 – Cú và Đại Bàng

The Owl and the Eagle Cú và Đại Bàng
Once upon a time, in a savage country where the snow lies deep for many months in the year, there lived an owl and an eagle. Ngày xửa ngày xưa, tại một xứ sở hoang sơ nơi tuyết phủ dày suốt nhiều tháng trong năm, có một chú cú và một chú đại bàng sinh sống.
Though they were so different in many ways they became great friends, and at length set up house together, one passing the day in hunting and the other the night. Dẫu khác biệt về nhiều mặt, chúng vẫn trở thành đôi bạn thân thiết, và cuối cùng dọn về chung một nhà; kẻ này đi săn vào ban ngày, còn kẻ kia lại đi săn vào ban đêm.
In this manner they did not see very much of each other—and perhaps agreed all the better for that; but at any rate they were perfectly happy, and only wanted one thing, or, rather, two things, and that was a wife for each. Vì thế, chúng chẳng mấy khi chạm mặt nhau—và có lẽ nhờ vậy mà càng thêm hòa thuận; dẫu sao đi nữa, cuộc sống của chúng vô cùng hạnh phúc, chỉ còn thiếu một điều, hay đúng hơn là hai điều, đó là mỗi người cần một người vợ.
‘I really am too tired when I come home in the evening to clean up the house,’ said the eagle. “Tớ thực sự quá mệt mỏi khi về nhà vào buổi tối nên chẳng thể dọn dẹp nhà cửa nổi,” đại bàng than thở.
‘And I am much too sleepy at dawn after a long night’s hunting to begin to sweep and dust,’ answered the owl. “Còn tớ thì lại quá buồn ngủ khi bình minh lên sau cả đêm dài đi săn để mà bắt tay vào quét tước hay lau chùi,” cú đáp lời.
And they both made up their minds that wives they must have. Thế là cả hai quyết định chắc chắn rằng mình phải cưới vợ thôi.
They flew about in their spare moments to the young ladies of their acquaintance, but the girls all declared they preferred one husband to two. Những lúc rảnh rỗi, chúng bay đến tán tỉnh những cô nàng quen biết, nhưng các cô đều tuyên bố rằng họ thà có một người chồng trọn vẹn còn hơn là chung đụng kiểu đó.
The poor birds began to despair, when, one evening, after they had been for a wonder hunting together, they found two sisters fast asleep on their two beds. Hai chú chim tội nghiệp bắt đầu tuyệt vọng, cho đến một buổi tối nọ, sau khi hiếm hoi cùng nhau đi săn, chúng phát hiện hai chị em gái đang ngủ say sưa trên chính hai chiếc giường của mình.
The eagle looked at the owl and the owl looked at the eagle. Đại bàng nhìn cú và cú cũng nhìn đại bàng.
‘They will make capital wives if they will only stay with us,’ said they. “Họ sẽ trở thành những người vợ tuyệt vời nếu họ chịu ở lại với chúng ta,” chúng bảo nhau.
And they flew off to give themselves a wash, and to make themselves smart before the girls awoke. Thế rồi chúng bay đi tắm rửa, chải chuốt cho thật bảnh bao trước khi các cô gái thức giấc.
For many hours the sisters slept on, for they had come a long way, from a town where there was scarcely anything to eat, and felt weak and tired. Hai chị em cứ thế ngủ li bì suốt nhiều giờ, bởi họ đã đi một chặng đường dài từ một thị trấn cằn cỗi chẳng có gì ăn, nên cảm thấy rất yếu ớtmệt mỏi.
But by-and-by they opened their eyes and saw the two birds watching them. Nhưng rồi lát sau, họ mở mắt và thấy hai chú chim đang chăm chú nhìn mình.
‘I hope you are rested?’ asked the owl politely. “Tôi hy vọng các cô đã nghỉ ngơi lại sức?” cú lịch sự hỏi.
‘Oh, yes, thank you,’ answered the girls. “Ồ, vâng, cảm ơn các anh,” các cô gái đáp.
‘Only we are so very hungry. “Chỉ là chúng tôi đói quá.
Do you think we could have something to eat?’ Liệu chúng tôi có thể xin chút gì để ăn không?”
‘Certainly!’ replied the eagle. “Chắc chắn rồi!” đại bàng trả lời.
And he flew away to a farmhouse a mile or two off, and brought back a nest of eggs in his strong beak; while the owl, catching up a tin pot, went to a cottage where lived an old woman and her cow, and entering the shed by the window dipped the pot into the pail of new milk that stood there. Nó bay đến một trang trại cách đó một hai dặm, dùng chiếc mỏ cứng cáp tha về một tổ trứng; trong khi cú quắp theo một cái nồi thiếc, bay đến túp lều nơi có bà cụ sống cùng con bò, lẻn vào chuồng qua cửa sổ và múc đầy nồi sữa tươi từ sữa để sẵn ở đó.
The girls were so much delighted with the kindness and cleverness of their hosts that, when the birds inquired if they would marry them and stay there for ever, they accepted without so much as giving it a second thought. Các cô gái quá đỗi vui mừng trước sự tốt bụng và lanh lợi của hai chủ nhà, nên khi nghe hai chú chim ngỏ ý muốn cưới và mời họ ở lại đây mãi mãi, họ đã đồng ý ngay mà chẳng cần suy nghĩ đắn đo.
So the eagle took the younger sister to wife, and the owl the elder, and never was a home more peaceful than theirs! Thế là đại bàng lấy cô em làm vợ, còn cú lấy cô chị, và chẳng có ngôi nhà nào êm ấm hơn tổ ấm của họ!
All went well for several months, and then the eagle’s wife had a son, while, on the same day, the owl’s wife gave birth to a frog, which she placed directly on the banks of a stream near by, as he did not seem to like the house. Mọi chuyện diễn ra êm đẹp trong vài tháng, rồi vợ đại bàng hạ sinh một bé trai, trong khi cùng ngày hôm đó, vợ cú lại sinh ra một chú ếch; cô bèn đặt chú ếch ngay bên bờ suối gần đó vì chú ta có vẻ chẳng thích ở trong nhà.
The children both grew quickly, and were never tired of playing together, or wanted any other companions. Lũ trẻ đều lớn nhanh như thổi, chúng chơi đùa bên nhau không biết chán và chẳng cần thêm người bạn nào khác.
One night in the spring, when the ice had melted, and the snow was gone, the sisters sat spinning in the house, awaiting their husbands’ return. Vào một đêm mùa xuân, khi băng đã tan và tuyết không còn nữa, hai chị em ngồi quay tơ trong nhà, đợi chờ các đức ông chồng trở về.
But long though they watched, neither the owl nor the eagle ever came; neither that day nor the next, nor the next, nor the next. Nhưng dù họ có ngóng trông mỏi mòn, cả cú lẫn đại bàng đều bặt vô âm tín; không thấy đâu trong ngày hôm ấy, ngày hôm sau, ngày sau nữa, và những ngày tiếp theo cũng vậy.
At last the wives gave up all hope of their return; but, being sensible women, they did not sit down and cry, but called their children, and set out, determined to seek the whole world over till the missing husbands were found. Cuối cùng, hai người vợ cũng cạn hết hy vọng chồng sẽ trở về; nhưng vốn là những người phụ nữ lý trí, họ không ngồi đó mà khóc lóc, bèn gọi con cái lại, khăn gói lên đường, quyết tâm đi cùng trời cuối đất cho đến khi tìm được hai người chồng mất tích.
Now the women had no idea in which direction the lost birds had gone, but they knew that some distance off was a thick forest, where good hunting was to be found. Lúc này, hai người phụ nữ chẳng hề biết những chú chim lạc lối đã đi hướng nào, nhưng họ biết cách đó một quãng có khu rừng rậm, nơi rất lý tưởng để săn mồi.
It seemed a likely place to find them, or, at any rate, they might hear something of them, and they walked quickly on, cheered by the thought that they were doing something. Đó dường như là nơi khả thi để tìm thấy chồng, hoặc ít nhất họ có thể nghe ngóng được chút tin tức gì đó; thế là họ rảo bước nhanh hơn, lòng phấn chấn lên nhờ ý nghĩ rằng mình đang hành động chứ không ngồi yên.
Suddenly the younger sister, who was a little in front, gave a cry of surprise. Đột nhiên, người em gái đi trước một đoạn thốt lên kinh ngạc.
‘Oh! look at that lake!’ she said, ‘we shall never get across it.’ “Ôi! Nhìn cái hồ kia kìa!” cô nói, “chúng ta sẽ chẳng bao giờ qua được bên kia đâu.”
‘Yes we shall,’ answered the elder; ‘I know what to do.’ “Qua được chứ,” người chị đáp; “Chị biết phải làm gì.”
And taking a long piece of string from her pocket, fastened it into the frog’s mouth, like a bit. Nói đoạn, cô lấy từ túi ra một sợi dây dài, buộc vào miệng chú ếch hệt như dây cương.
‘You must swim across the lake,’ she said, stooping to put him in, ‘and we will walk across on the line behind you.’ “Con hãy bơi qua hồ đi,” cô cúi xuống thả chú ếch xuống nước và dặn, “mẹ và dì sẽ đi trên sợi dây theo sau con.”
And so they did, till they got to about the middle of the lake, when the frog boy stopped. Họ làm đúng như vậy, cho đến khi ra được khoảng giữa hồ thì cậu bé ếch dừng lại.
‘I don’t like it, and I won’t go any further,’ cried he sulkily. “Con không thích đâu, con không đi nữa đâu,” cậu chàng phụng phịu kêu lên.
And his mother had to promise him all sorts of nice things before he would go on again. Bà mẹ đành phải hứa hẹn đủ thứ ngon ngọt thì cậu mới chịu đi tiếp.
When at last they reached the other side, the owl’s wife untied the line from the frog’s mouth and told him he might rest and play by the lake till they got back from the forest. Cuối cùng khi sang được bờ bên kia, vợ của cú tháo dây khỏi miệng ếch và bảo con cứ nghỉ ngơi, vui chơi bên hồ cho đến khi các mẹ quay về từ khu rừng.
Then she and her sister and the boy walked on, with the great forest looming before them. Sau đó cô cùng em gái và cậu con trai nhỏ tiếp tục bước đi, trước mắt họ là khu rừng già sừng sững.
But they had by this time come far and were very tired, and felt glad enough to see some smoke curling up from a little hut in front of them. Nhưng lúc này họ đã đi rất xa và mệt lử, nên mừng rỡ vô cùng khi thấy làn khói bay lên từ một túp lều nhỏ phía trước.
‘Let us go in and ask for some water,’ said the eagle’s wife; and in they went. “Chúng ta hãy vào xin chút nước uống đi,” vợ đại bàng nói; và họ bước vào.
The inside of the hut was so dark that at first they could see nothing at all; but presently they heard a feeble croak from one corner. Bên trong túp lều tối om đến mức lúc đầu họ chẳng nhìn thấy gì; nhưng ngay sau đó, họ nghe thấy tiếng rên rỉ yếu ớt phát ra từ một góc nhà.
But sisters turned to look, and there, tied by wings and feet, and their eyes sunken, were the husbands that they sought. Hai chị em quay lại nhìn, và kìa, bị trói cả cánh lẫn chân, đôi mắt trũng sâu, chính là những người chồng mà họ đang tìm kiếm.
Quick as lightning the wives cut the deer-thongs which bound them; but the poor birds were too weak from pain and starvation to do more than utter soft sounds of joy. Nhanh như chớp, những người vợ cắt đứt dây da hươu đang trói chồng; nhưng hai chú chim tội nghiệp đã quá yếu vì đau đớnđói khát, chẳng làm gì được ngoài việc thốt ra những tiếng kêu vui mừng khe khẽ.
Hardly, however, were they set free, than a voice of thunder made the two sisters jump, while the little boy clung tightly round his mother’s neck. Tuy nhiên, họ vừa mới được giải thoát thì một giọng nói sấm rền vang lên làm hai chị em giật bắn mình, còn cậu bé con thì ôm chặt lấy cổ mẹ.
‘What are you doing in my house?’ cried she. “Bọn bay làm gì trong nhà ta?” mụ phù thủy quát lớn.
And the wives answered boldly that now they had found their husbands they meant to save them from such a wicked witch. Hai người vợ mạnh dạn đáp trả rằng họ đã tìm thấy chồng mình và nhất định sẽ cứu họ khỏi tay mụ phù thủy độc ác.
‘Well, I will give you your chance,’ answered the ogress, with a hideous grin; ‘we will see if you can slide down this mountain. “Được, ta sẽ cho các ngươi một cơ hội,” mụ yêu tinh đáp với nụ cười gớm ghiếc; “để xem các ngươi có trượt được xuống ngọn núi này không.
If you can reach the bottom of the cavern, you shall have your husbands back again.’ Nếu xuống được đáy hang, các ngươi sẽ nhận lại chồng.”
And as she spoke she pushed them before her out of the door to the edge of a precipice, which went straight down several hundreds of feet. Vừa nói, mụ vừa đẩy họ ra khỏi cửa đến mép một vực thẳm dựng đứng sâu vài trăm bộ.
Unseen by the witch, the frog’s mother fastened one end of the magic line about her, and whispered to the little boy to hold fast the other. Nhân lúc mụ phù thủy không để ý, mẹ chú ếch buộc một đầu sợi dây thần kỳ quanh người mình, rồi thì thầm bảo cậu bé giữ chặt đầu dây kia.
She had scarcely done so when the witch turned round. Cô vừa làm xong thì mụ phù thủy quay lại.
‘You don’t seem to like your bargain,’ said she; but the girl answered: ‘Oh, yes, I am quite ready. I was only waiting for you!’ “Có vẻ ngươi không ưng thỏa thuận này nhỉ,” mụ nói; nhưng cô gái đáp: “Ồ không, tôi sẵn sàng rồi đây. Tôi chỉ đang đợi bà thôi!”
And sitting down she began her slide. Và rồi ngồi xuống, cô bắt đầu trượt.
On, on, she went, down to such a depth that even the witch’s eyes could not follow her; but she took for granted that the woman was dead, and told the sister to take her place. Cô cứ trượt xuống mãi, xuống độ sâu mà ngay cả mắt mụ phù thủy cũng không dõi theo được; mụ đinh ninh rằng người phụ nữ đã chết, bèn bảo người em vào thế chỗ.
At that instant, however, the head of the elder appeared above the rock, brought upwards by the magic line. Tuy nhiên, ngay lúc đó, đầu người chị lại nhô lên khỏi tảng đá, nhờ được kéo lên bởi sợi dây thần kỳ.
The witch gave a howl of disgust, and hid her face in her hands; thus giving the younger sister time to fasten the cord to her waist before the ogress looked up. Mụ phù thủy gầm lên một tiếng đầy ghê tởm rồi ôm mặt; nhờ vậy người em có đủ thời gian buộc dây vào thắt lưng trước khi mụ yêu tinh ngẩng lên.
‘You can’t expect such luck twice,’ she said; and the girl sat down and slid over the edge. “Đừng mong gặp may lần thứ hai,” mụ nói; và cô gái ngồi xuống, trượt qua mép vực.
But in a few minutes she too was back again, and the witch saw that she had failed, and feared lest her power was going. Nhưng chỉ vài phút sau, cô em cũng quay trở lại, mụ phù thủy thấy mưu kế thất bại và bắt đầu lo sợ rằng phép thuật của mình đang tan biến.
Trembling with rage though she was, she dared not show it, and only laughed hideously. Dù run lên vì giận dữ, mụ vẫn không dám để lộ ra, chỉ cười một điệu gớm ghiếc.
‘I sha’n’t let my prisoners go as easily as all that!’ she said. “Ta sẽ không thả tù nhân đi dễ dàng như thế đâu!” mụ nói.
‘Make my hair grow as thick and as black as yours, or else your husbands shall never see daylight again.’ “Hãy làm cho tóc ta mọc dàyđen như tóc các ngươi, nếu không chồng các ngươi sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời nữa.”
‘That is quite simple,’ replied the elder sister; ‘only you must do as we did—and perhaps you won’t like the treatment.’ “Chuyện đó đơn giản thôi,” người chị đáp; “chỉ là bà phải làm y như chúng tôi đã làm—và có lẽ bà sẽ không thích cách trị liệu này đâu.”
‘If you can bear it, of course I can,’ answered the witch. “Nếu các ngươi chịu được thì tất nhiên ta cũng chịu được,” mụ phù thủy trả lời.
And so the girls told her they had first smeared their heads with pitch and then laid hot stones upon them. Thế là các cô gái bảo mụ rằng họ đã bôi nhựa thông lên đầu trước, rồi sau đó đắp những hòn đá nóng lên trên.
‘It is very painful,’ said they, ‘but there is no other way that we know of. “Đau lắm đấy,” họ nói, “nhưng chúng tôi không biết cách nào khác.
And in order to make sure that all will go right, one of us will hold you down while the other pours on the pitch.’ Và để đảm bảo mọi chuyện suôn sẻ, một người trong chúng tôi sẽ giữ bà xuống trong khi người kia đổ nhựa thông lên.”
And so they did; and the elder sister let down her hair till it hung over the witch’s eyes, so that she might believe it was her own hair growing. Họ làm đúng như vậy; người chị rũ tóc mình xuống che lấp mắt mụ phù thủy, để mụ tin rằng đó là tóc của chính mụ đang mọc ra.
Then the other brought a huge stone, and, in short, there was an end of the witch. Rồi người kia bê một tảng đá khổng lồ tới, và tóm lại, đó là cái kết của mụ phù thủy.
The sisters were savages who had never seen a missionary. Hai chị em vốn là người hoang dã chưa từng biết đến sự nhân từ của các nhà truyền giáo (nên mới hành động dứt khoát như vậy).
So when the sisters saw that she was dead they went to the hut, and nursed their husbands till they grew strong. Khi thấy mụ đã chết, hai chị em đi vào túp lều, chăm sóc cho các ông chồng đến khi họ khỏe mạnh trở lại.
Then they picked up the frog, and all went to make another home on the other side of the great lake. Sau đó họ đón chú ếch, và tất cả cùng nhau xây dựng một tổ ấm mới ở phía bên kia hồ nước lớn.
[From the Journal of the Anthropological Institute.] [Trích từ Tạp chí của Viện Nhân chủng học.]
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.