19 – Tritill, Litill và Bầy Chim

Tritill, Litill, And The Birds Tritill, Litill và Bầy Chim
Once upon a time there lived a princess who was so beautiful and so good that everybody loved her. Ngày xửa ngày xưa, có một nàng công chúa vừa xinh đẹp lại vừa nết na đến nỗi ai ai cũng yêu mến.
Her father could hardly bear her out of his sight, and he almost died of grief when, one day, she disappeared, and though the whole kingdom was searched through and through, she could not be found in any corner of it. Đức vua thương yêu nàng đến mức không muốn nàng rời xa nửa bước, và ngài đã đau buồn đến chết đi sống lại khi một ngày kia, công chúa bỗng dưng biến mất. Dù người ta đã lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm trong vương quốc, cũng không tài nào tìm thấy bóng dáng nàng.
In despair, the king ordered a proclamation to be made that whoever could bring her back to the palace should have her for his wife. Trong nỗi tuyệt vọng, nhà vua ban chiếu chỉ rằng bất cứ ai tìm được công chúa đưa về hoàng cung sẽ được cưới nàng làm vợ.
This made the young men start afresh on the search, but they were no more successful than before, and returned sorrowfully to their homes. Nghe vậy, các chàng trai khắp nơi lại nô nức lên đường tìm kiếm, nhưng cũng như lần trước, họ chẳng thu được kết quả gì và đành buồn bã trở về.
Now there dwelt, not far from the palace, an old man who had three sons. Ấy là, ở cách hoàng cung không xa có một ông lão sống cùng ba người con trai.
The two eldest were allowed by their parents to do just as they liked, but the youngest was always obliged to give way to his brothers. Hai người anh cả được cha mẹ nuông chiều, muốn gì được nấy, còn cậu út thì lúc nào cũng phải nhường nhịn các anh.
When they were all grown up, the eldest told his father that he was tired of leading such a quiet life, and that he meant to go away and see the world. Khi họ đã trưởng thành, người anh cả thưa với cha rằng chàng đã chán cảnh sống bình lặng và muốn lên đường đi chu du thiên hạ.
The old people were very unhappy at the thought that they must part with him, but they said nothing, and began to collect all that he would want for his travels, and were careful to add a pair of new boots. Ông bà lão buồn rầu khi nghĩ đến cảnh phải xa con, nhưng họ không nói gì, chỉ lẳng lặng chuẩn bị hành trang cho chuyến đi của chàng, và không quên chuẩn bị một đôi ủng mới.
When everything was ready, he bade them farewell, and started merrily on his way. Khi mọi thứ đã sẵn sàng, chàng từ biệt cha mẹ rồi hớn hở lên đường.
For some miles his road lay through a wood, and when he left it he suddenly came out on a bare hillside. Chàng đi xuyên qua một khu rừng rậm vài dặm đường rồi bất chợt đi ra một sườn đồi trơ trọi.
Here he sat down to rest, and pulling out his wallet prepared to eat his dinner. Chàng ngồi xuống nghỉ chân, lấy túi lương khô ra định dùng bữa trưa.
He had only eaten a few mouthfuls when an old man badly dressed passed by, and seeing the food, asked if the young man could not spare him a little. Chàng mới ăn được vài miếng thì một ông lão ăn mặc rách rưới đi ngang qua. Thấy đồ ăn, ông lão bèn hỏi liệu chàng trai có thể chia cho ông một ít được không.
'Not I, indeed!' answered he; 'why I have scarcely enough for myself. If you want food you must earn it.' “Còn lâu nhé!” chàng trai đáp. “Ta còn chẳng đủ cho mình nữa là. Muốn ăn thì tự đi mà kiếm.”
And the beggar went on. Người ăn mày đành lủi thủi bước đi.
After the young man had finished his dinner he rose and walked on for several hours, till he reached a second hill, where he threw himself down on the grass, and took some bread and milk from his wallet. Sau khi dùng bữa xong, chàng trai đứng dậy đi tiếp vài giờ nữa, tới một ngọn đồi thứ hai. Chàng lại ngả mình xuống cỏ, lấy bánh mì và sữa trong túi ra ăn.
While he was eating and drinking, there came by an old man, yet more wretched than the first, and begged for a few mouthfuls. Trong lúc đang ăn uống, lại có một ông lão khác đi qua, trông còn khốn khổ hơn người trước, cũng xin chàng vài miếng ăn.
But instead of food he only got hard words, and limped sadly away. Nhưng thay vì cho thức ăn, chàng trai chỉ buông những lời lẽ cay nghiệt, khiến ông lão buồn bã lê bước đi.
Towards evening the young man reached an open space in the wood, and by this time he thought he would like some supper. Xế chiều, chàng trai tới một khoảng rừng thưa và nghĩ đã đến lúc ăn tối.
The birds saw the food, and flew round his head in numbers hoping for some crumbs, but he threw stones at them, and frightened them off. Bầy chim thấy thức ăn liền bay lượn vòng quanh đầu chàng, hy vọng được vài mẩu bánh vụn, nhưng chàng lại ném đá đuổi chúng đi.
Then he began to wonder where he should sleep. Rồi chàng bắt đầu băn khoăn không biết đêm nay sẽ ngủ ở đâu.
Not in the open space he was in, for that was bare and cold, and though he had walked a long way that day, and was tired, he dragged himself up, and went on seeking for a shelter. Chắc chắn không phải ở khoảng rừng này vì nó vừa trống trải vừa lạnh lẽo. Dù đã đi bộ cả ngày và thấm mệt, chàng vẫn gắng gượng đứng dậy, đi tìm một nơi trú ẩn.
At length he saw a deep sort of hole or cave under a great rock, and as it seemed quite empty, he went in, and lay down in a corner. Cuối cùng, chàng thấy một cái hang sâu dưới một tảng đá lớn. Thấy hang có vẻ trống không, chàng liền đi vào, nằm xuống một góc.
About midnight he was awakened by a noise, and peeping out he beheld a terrible ogress approaching. Nửa đêm, chàng bị tiếng động đánh thức, và khi hé mắt nhìn ra, chàng thấy một bà chằn tinh gớm ghiếc đang tiến lại gần.
He implored her not to hurt him, but to let him stay there for the rest of the night, to which she consented, on condition that he should spend the next day in doing any task which she might choose to set him. Chàng van xin bà đừng hại mình và cho chàng ở lại qua đêm. Bà chằn đồng ý với điều kiện ngày mai chàng phải làm bất cứ việc gì bà ta giao.
To this the young man willingly agreed, and turned over and went to sleep again. Chàng trai vội vàng đồng ý, rồi quay vào ngủ tiếp.
In the morning, the ogress bade him sweep the dust out of the cave, and to have it clean before her return in the evening, otherwise it would be the worse for him. Sáng hôm sau, bà chằn bảo chàng phải quét sạch bụi bẩn trong hang trước khi bà ta về vào buổi tối, nếu không thì đừng có trách.
Then she left the cave. Nói rồi, bà ta rời khỏi hang.
The young man took the spade, and began to clean the floor of the cave, but try as he would to move it the dirt still stuck to its place. Chàng trai cầm xẻng, bắt đầu dọn dẹp sàn hang, nhưng dù cố gắng thế nào, lớp bụi bẩn cứ bám chặt lấy sàn hang, không sao xê dịch nổi.
He soon gave up the task, and sat sulkily in the corner, wondering what punishment the ogress would find for him, and why she had set him to do such an impossible thing. Chẳng mấy chốc, chàng bỏ cuộc, ngồi ủ rũ trong góc, vừa thắc mắc không biết bà chằn sẽ trừng phạt mình ra sao, vừa tự hỏi tại sao bà ta lại giao một việc bất khả thi như vậy.
He had not long to wait, after the ogress came home, before he knew what his punishment was to be! Sau khi bà chằn trở về, chàng trai không phải chờ lâu để biết hình phạt của mình là gì!
She just gave one look at the floor of the cave, then dealt him a blow on the head which cracked his skull, and there was an end of him. Bà ta chỉ liếc qua sàn hang một cái, rồi bổ cho chàng một cú vỡ sọ, thế là đời gã toi mạng.
Meanwhile his next brother grew tired of staying at home, and let his parents have no rest till they had consented that he also should be given some food and some new boots, and go out to see the world. Trong khi đó, người em kế ở nhà cũng bắt đầu chán cảnh quanh quẩn, và chàng nằng nặc đòi cha mẹ cho mình một ít thức ăn, một đôi ủng mới để cũng được ra đi khám phá thế giới.
On his road, he also met the two old beggars, who prayed for a little of his bread and milk, but this young man had never been taught to help other people, and had made it a rule through his life to keep all he had to himself. Trên đường đi, chàng cũng gặp hai ông lão ăn mày, họ cũng xin chàng một chút bánh mì và sữa. Nhưng chàng trai này chưa bao giờ được dạy phải giúp đỡ người khác, và cả đời chàng chỉ có một quy tắc là giữ mọi thứ cho riêng mình.
So he turned a deaf ear and finished his dinner. Thế nên chàng làm ngơ và ăn hết bữa của mình.
By-and-by he, too, came to the cave, and was bidden by the ogress to clean the floor, but he was no more successful than his brother, and his fate was the same. Sau đó, chàng cũng đến cái hang và cũng bị bà chằn bắt dọn dẹp. Nhưng chàng cũng thất bại như anh mình, và số phận của chàng cũng bi thảm y như vậy.
Anyone would have thought that when the old people had only one son left that at least they would have been kind to him, even if they did not love him. Ai cũng nghĩ rằng khi ông bà lão chỉ còn lại một người con trai duy nhất, họ sẽ đối xử tốt với cậu, dù cho không yêu thương cậu đi nữa.
But for some reason they could hardly bear the sight of him, though he tried much harder to make them comfortable than his brothers had ever done. Nhưng không hiểu sao, họ chẳng ưa gì cậu, dù cậu luôn cố gắng làm cha mẹ vui lòng hơn các anh nhiều.
So when he asked their leave to go out into the world they gave it at once, and seemed quite glad to be rid of him. Vì vậy, khi cậu xin phép được ra đi chu du thiên hạ, họ đồng ý ngay tức khắc, dường như còn mừng vì tống khứ được cậu đi cho rảnh.
They felt it was quite generous of them to provide him with a pair of new boots and some bread and milk for his journey. Họ còn thấy mình đã hào phóng lắm rồi khi chuẩn bị cho cậu một đôi ủng mới cùng ít bánh mì và sữa cho chuyến đi.
Besides the pleasure of seeing the world, the youth was very anxious to discover what had become of his brothers, and he determined to trace, as far as he could, the way that they must have gone. Ngoài niềm vui được khám phá thế giới, chàng trai út còn rất muốn biết chuyện gì đã xảy ra với các anh mình. Cậu quyết tâm lần theo con đường mà các anh có lẽ đã đi qua.
He followed the road that led from his father's cottage to the hill, where he sat down to rest, saying to himself: 'I am sure my brothers must have stopped here, and I will do the same.' Cậu men theo con đường từ nhà cha mẹ đến ngọn đồi đầu tiên, rồi ngồi xuống nghỉ, tự nhủ: "Mình chắc rằng các anh đã dừng chân ở đây, mình cũng sẽ làm vậy."
He was hungry as well as tired, and took out some of the food his parents had given him. Vừa mệt vừa đói, cậu lấy ra một ít thức ăn cha mẹ đưa cho.
He was just going to begin to eat when the old man appeared, and asked if he could not spare him a little. Cậu vừa định ăn thì ông lão ăn mày ngày trước lại xuất hiện và hỏi liệu cậu có thể chia cho ông một ít không.
The young man at once broke off some of the bread, begging the old man to sit down beside him, and treating him as if he was an old friend. Chàng trai liền bẻ một mẩu bánh mì, mời ông lão ngồi xuống bên cạnh và đối đãi với ông như thể bạn bè thân thiết.
At last the stranger rose, and said to him: 'If ever you are in trouble call me, and I will help you. My name is Tritill.' Cuối cùng, người khách lạ đứng dậy, nói với cậu: “Nếu con gặp hoạn nạn, hãy gọi ta, và ta sẽ giúp con. Tên ta là Tritill.”
Then he vanished, and the young man could not tell where he had gone. Nói rồi, ông biến mất, khiến chàng trai không biết ông đã đi đâu.
However, he felt he had now rested long enough, and that he had better be going his way. Cậu thấy mình đã nghỉ đủ và nên đi tiếp.
At the next hill he met with the second old man, and to him also he gave food and drink. Tới ngọn đồi tiếp theo, cậu gặp ông lão thứ hai và cũng chia sẻ đồ ăn, thức uống cho ông.
And when this old man had finished he said, like the first: 'If you ever want help in the smallest thing call to me. My name is Litill.' Khi ăn xong, ông lão này cũng nói như người trước: “Nếu con cần giúp đỡ, dù là việc nhỏ nhất, hãy gọi ta. Tên ta là Litill.”
The young man walked on till he reached the open space in the wood, where he stopped for dinner. Chàng trai đi mãi cho tới khi tới khoảng rừng thưa và dừng lại dùng bữa.
In a moment all the birds in the world seemed flying round his head, and he crumbled some of his bread for them and watched them as they darted down to pick it up. Lập tức, dường như tất cả chim chóc trên đời đều bay lượn quanh đầu cậu. Cậu bèn bẻ vụn bánh mì cho chúng ăn và ngắm nhìn chúng sà xuống mổ những mẩu bánh.
When they had cleared off every crumb the largest bird with the gayest plumage said to him: 'If you are in trouble and need help say, "My birds, come to me!" and we will come.' Khi chúng đã ăn sạch không còn một mẩu, con chim lớn nhất với bộ lông vũ sặc sỡ nhất cất tiếng nói: “Nếu anh gặp hoạn nạn và cần giúp đỡ, hãy nói: ‘Bầy chim của ta ơi, hãy đến đây!’ và chúng tôi sẽ đến.”
Then they flew away. Rồi chúng bay đi.
Towards evening the young man reached the cave where his brothers had met their deaths, and, like them, he thought it would be a good place to sleep in. Đến xế chiều, chàng trai cũng đến cái hang nơi các anh mình đã bỏ mạng. Giống như họ, cậu nghĩ đây sẽ là một nơi tốt để nghỉ qua đêm.
Looking round, he saw some pieces of the dead men's clothes and of their bones. Nhìn quanh, cậu thấy những mảnh quần áo và xương cốt của người chết.
The sight made him shiver, but he would not move away, and resolved to await the return of the ogress, for such he knew she must be. Cảnh tượng khiến cậu rùng mình, nhưng cậu không bỏ đi mà quyết định chờ bà chằn quay về, vì cậu biết mụ ta chắc chắn là một yêu quái.
Very soon she came striding in, and he asked politely if she would give him a night's lodging. Chẳng mấy chốc, bà chằn sải bước vào hang. Cậu lễ phép hỏi liệu bà có thể cho cậu ở trọ một đêm không.
She answered as before, that he might stay on condition that he should do any work that she might set him to next morning. Bà ta đáp lại như trước, rằng cậu có thể ở lại với điều kiện sáng mai phải làm bất cứ việc gì bà ta giao.
So the bargain being concluded, the young man curled himself up in his corner and went to sleep. Giao kèo xong xuôi, chàng trai cuộn mình trong góc và ngủ thiếp đi.
The dirt lay thicker than ever on the floor of the cave when the young man took the spade and began his work. Lớp bụi bẩn trên sàn hang giờ còn dày hơn trước. Khi chàng trai cầm xẻng lên bắt tay vào việc.
He could not clean it any more than his brothers had done, and at last the spade itself stuck in the earth so that he could not pull it out. cậu cũng chẳng thể dọn sạch được hơn các anh mình, và cuối cùng đến cả cái xẻng cũng dính chặt xuống đất không rút lên được.
The youth stared at it in despair, then the old beggar's words flashed into his mind, and he cried: 'Tritill, Tritill, come and help me!' Chàng trai tuyệt vọng nhìn cái xẻng, rồi chợt nhớ đến lời của ông lão ăn mày, cậu liền cất tiếng gọi: “Tritill ơi, Tritill, hãy đến giúp con!”
And Tritill stood beside him and asked what he wanted. Lập tức, Tritill hiện ra bên cạnh và hỏi cậu muốn gì.
The youth told him all his story, and when he had finished, the old man said: 'Spade and shovel do your duty,' and they danced about the cave till, in a short time, there was not a speck of dust left on the floor. Chàng trai kể lại toàn bộ câu chuyện. Nghe xong, ông lão nói: “Xẻng ơi, thuổng hỡi, làm việc của các ngươi đi!” và chúng liền tự nhảy múa khắp hang. Chỉ trong chốc lát, sàn hang đã sạch bóng không còn một hạt bụi nào.
As soon as it was quite clean Tritill went his way. Ngay khi mọi việc xong xuôi, Tritill cũng rời đi.
With a light heart the young man awaited the return of the ogress. Với một trái tim nhẹ nhõm, chàng trai chờ bà chằn trở về.
When she came in she looked carefully round, and then said to him: 'You did not do that quite alone. However, as the floor is clean I will leave your head on.' Khi vào hang, bà ta nhìn quanh một lượt cẩn thận rồi nói với cậu: “Cái này không phải một mình ngươi làm được đâu. Nhưng thôi, vì sàn nhà đã sạch, ta sẽ tha cho cái đầu của ngươi.”
The following morning the ogress told the young man that he must take all the feathers out of her pillows and spread them to dry in the sun. Sáng hôm sau, bà chằn bảo chàng trai phải lấy hết lông vũ trong gối của bà ra phơi nắng.
But if one feather was missing when she came back at night his head should pay for it.' Nhưng nếu đến tối về mà thiếu một chiếc lông vũ nào, thì cái đầu của cậu sẽ phải trả giá.
The young man fetched the pillows, and shook out all the feathers, and oh! what quantities of them there were! Chàng trai mang những chiếc gối ra, giũ sạch lông vũ. Ôi, sao mà nhiều thế không biết!
He was thinking to himself, as he spread them out carefully, how lucky it was that the sun was so bright and that there was no wind, when suddenly a breeze sprang up, and in a moment the feathers were dancing high in the air. Cậu vừa cẩn thận trải chúng ra, vừa thầm nghĩ mình thật may mắn vì hôm nay nắng đẹp và không có gió. Nhưng rồi, một cơn gió bất chợt nổi lên, và trong khoảnh khắc, những chiếc lông vũ đã bay tung tóe lên không trung.
At first the youth tried to collect them again, but he soon found that it was no use, and he cried in despair: 'Tritill, Litill, and all my birds, come and help me!' Ban đầu, chàng trai cố gắng nhặt lại chúng, nhưng sớm nhận ra điều đó là vô ích. Cậu tuyệt vọng kêu lên: “Tritill, Litill, và bầy chim của ta ơi, đến giúp con!”
He had hardly said the words when there they all were; and when the birds had brought all the feathers back again, Tritill, and Litill, and he, put them away in the pillows, as the ogress had bidden him. Cậu vừa dứt lời thì tất cả đã có mặt. Sau khi bầy chim nhặt lại tất cả lông vũ, Tritill, Litill và chàng trai cùng nhau nhét chúng vào lại vỏ gối, đúng như lời bà chằn dặn.
But one little feather they kept out, and told the young man that if the ogress missed it he was to thrust it up her nose. Nhưng họ giữ lại một chiếc lông vũ nhỏ và dặn chàng trai rằng nếu bà chằn phát hiện ra, hãy nhét nó vào mũi bà ta.
Then they all vanished, Tritill, Litill, and the birds. Xong việc, tất cả lại biến mất.
Directly the ogress returned home she flung herself with all her weight on the bed, and the whole cave quivered under her. chằn vừa về đến nhà đã quăng cả thân mình lên giường, khiến cả hang động rung chuyển.
The pillows were soft and full instead of being empty, which surprised her, but that did not content her. Những chiếc gối vẫn mềm mại và căng phồng thay vì xẹp lép, điều này làm bà ta ngạc nhiên, nhưng vẫn chưa thỏa mãn.
She got up, shook out the pillow-cases one by one, and began to count the feathers that were in each. Bà ta ngồi dậy, giũ từng vỏ gối một và bắt đầu đếm số lông vũ bên trong.
'If one is missing I will have your head,' said she, and at that the young man drew the feather from his pocket and thrust it up her nose, crying 'If you want your feather, here it is.' “Nếu thiếu một cái, ta sẽ lấy đầu ngươi,” bà ta nói. Nghe vậy, chàng trai rút chiếc lông vũ từ trong túi ra, nhét vào mũi bà ta và hét lên: “Nếu bà muốn cái lông vũ của bà, thì nó đây này!”
'You did not sort those feathers alone,' answered the ogress calmly; 'however, this time I will let that pass.' “Đống lông vũ này không phải một mình ngươi phân loại được,” bà chằn bình tĩnh đáp. “Tuy nhiên, lần này ta sẽ cho qua.”
That night the young man slept soundly in his corner, and in the morning the ogress told him that his work that day would be to slay one of her great oxen, to cook its heart, and to make drinking cups of its horns, before she returned home Đêm đó, chàng trai ngủ say trong góc hang. Sáng hôm sau, bà chằn nói với cậu rằng công việc của ngày hôm nay là hạ một trong những con bò mộng của bà, nấu tim của nó và lấy sừng nó làm cốc uống nước, tất cả phải xong trước khi bà ta về.
'There are fifty oxen,' added she, 'and you must guess which of the herd I want killed. “Có năm mươi con bò mộng,” bà ta nói thêm, “ngươi phải đoán xem ta muốn giết con nào trong đàn.
If you guess right, to-morrow you shall be free to go where you will, and you shall choose besides three things as a reward for your service. Nếu đoán đúng, ngày mai ngươi sẽ được tự do đi bất cứ đâu mình muốn, và còn được chọn ba món đồ làm phần thưởng cho công sức của mình.
But if you slay the wrong ox your head shall pay for it.' Nhưng nếu ngươi giết nhầm con , cái đầu của ngươi sẽ phải trả giá.”
Left alone, the young man stood thinking for a little. Then he called: 'Tritill, Litill, come to my help!' Chỉ còn lại một mình, chàng trai đứng suy nghĩ một lúc. Rồi cậu gọi: “Tritill, Litill, hãy đến giúp con!”
In a moment he saw them, far away, driving the biggest ox the youth had ever seen. Trong khoảnh khắc, cậu thấy họ từ xa đang lùa về một con bò mộng to lớn nhất mà cậu từng thấy.
When they drew near, Tritill killed it, Litill took out its heart for the young man to cook, and both began quickly to turn the horns into drinking cups. Khi họ đến gần, Tritill hạ con bò, Litill lấy tim nó ra cho chàng trai nấu, và cả hai bắt đầu nhanh chóng biến sừng bò thành những chiếc cốc.
The work went merrily on, and they talked gaily, and the young man told his friends of the payment promised him by the ogress if he had done her bidding. Công việc diễn ra thật vui vẻ, họ vừa làm vừa trò chuyện. Chàng trai kể cho hai người bạn của mình nghe về phần thưởng mà bà chằn đã hứa.
The old men warned him that he must ask her for the chest which stood at the foot of her bed, for whatever lay on the top of the bed, and for what lay under the side of the cave. Hai ông lão dặn dò cậu rằng phải xin bà ta cái rương ở cuối giường, thứ nằm trên giường và vật nằm dưới vách hang.
The young man thanked them for their counsel, and Tritill and Litill then took leave of him, saying that for the present he would need them no more. Chàng trai cảm ơn lời khuyên của họ, và rồi TritillLitill từ biệt cậu, nói rằng hiện tại cậu sẽ không cần đến họ nữa.
Scarcely had they disappeared when the ogress came back, and found everything ready just as she had ordered. Họ vừa đi khuất thì bà chằn cũng về tới và thấy mọi thứ đã sẵn sàng đúng như bà ta yêu cầu.
Before she sat down to eat the bullock's heart she turned to the young man, and said: 'You did not do that all alone, my friend; but, nevertheless, I will keep my word, and to-morrow you shall go your way.' Trước khi ngồi xuống ăn tim bò, bà ta quay sang chàng trai và nói: “Việc này không phải một mình ngươi làm đâu, bạn của ta ạ. Nhưng thôi, ta sẽ giữ lời, ngày mai ngươi sẽ được ra đi.”
So they went to bed and slept till dawn. Thế rồi họ đi ngủ cho đến sáng.
When the sun rose the ogress awoke the young man, and called to him to choose any three things out of her house. Khi mặt trời lên, bà chằn đánh thức chàng trai dậy và bảo cậu hãy chọn ba món đồ bất kỳ trong nhà bà.
'I choose,' answered he, 'the chest which stands at the foot of your bed; whatever lies on the top of the bed, and whatever is under the side of the cave.' “Thưa bà,” cậu đáp, “con xin chọn cái rương ở cuối giường bà; thứ nằm trên giường, và vật nằm dưới vách hang.”
'You did not choose those things by yourself, my friend,' said the ogress; 'but what I have promised, that will I do.' “Mấy thứ đó không phải tự ngươi nghĩ ra mà chọn được, bạn của ta ạ,” bà chằn nói. “Nhưng ta đã hứa thì sẽ làm.”
And then she gave him his reward. Và rồi bà ta trao cho cậu phần thưởng.
'The thing which lay on the top of the bed' turned out to be the lost princess. “Thứ nằm trên giường” chính là nàng công chúa đã mất tích.
'The chest which stood at the foot of the bed' proved full of gold and precious stones; and 'what was under the side of the cave' he found to be a great ship, with oars and sails that went of itself as well on land as in the water. “Cái rương ở cuối giường” chứa đầy vàng bạc và châu báu; còn “vật nằm dưới vách hang” lại là một con tàu lớn, với mái chèo và buồm có thể tự đi cả trên cạn lẫn dưới nước.
'You are the luckiest man that ever was born,' said the ogress as she went out of the cave as usual. “Ngươi là kẻ may mắn nhất trên đời này đấy,” bà chằn nói khi rời khỏi hang như thường lệ.
With much difficulty the youth put the heavy chest on his shoulders and carried it on board the ship, the princess walking by his side. Chàng trai rất khó khăn mới vác được chiếc rương nặng lên vai và mang nó lên tàu, trong khi công chúa đi bên cạnh.
Then he took the helm and steered the vessel back to her father's kingdom. Sau đó, cậu cầm lái và điều khiển con tàu trở về vương quốc của cha nàng.
The king's joy at receiving back his lost daughter was so great that he almost fainted, but when he recovered himself he made the young man tell him how everything had really happened. Nhà vua mừng rỡ khôn xiết khi gặp lại con gái, đến mức gần như ngất đi. Khi tỉnh lại, ngài yêu cầu chàng trai kể lại toàn bộ câu chuyện.
'You have found her, and you shall marry her,' said the king; and so it was done. “Chàng đã tìm thấy con bé, và chàng sẽ cưới con bé,” nhà vua phán; và rồi mọi việc diễn ra đúng như vậy.
And this is the end of the story. Câu chuyện đến đây là hết.
[From Ungarische Mahrchen.] Truyện cổ tích dân gian của Hungary

Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.