21 – Sáu Kẻ Bụng Đói

The Six Hungry Beasts Sáu Kẻ Bụng Đói
Once upon a time there lived a man who dwelt with his wife in a little hut, far away from any neighbours. Ngày xửa ngày xưa, có hai vợ chồng sống trong một túp lều nhỏ, ở một nơi xa xôi hẻo lánh, không một bóng hàng xóm.
But they did not mind being alone, and would have been quite happy, if it had not been for a marten, who came every night to their poultry yard, and carried off one of their fowls. Nhưng họ không lấy đó làm phiền, và đáng lẽ đã có một cuộc sống vô cùng hạnh phúc, nếu không có một con chồn hằng đêm lẻn vào sân gà, tha đi mất một con.
The man laid all sorts of traps to catch the thief, but instead of capturing the foe, it happened that one day he got caught himself, and falling down, struck his head against a stone, and was killed. Người chồng giăng đủ thứ bẫy để tóm cổ tên trộm, nhưng người tính không bằng trời tính, chưa tóm được chồn thì trớ trêu thay, một hôm chính ông lại sập vào bẫy của mình, ngã đập đầu vào đá mà chết.
Not long after the marten came by on the look out for his supper. Chẳng bao lâu sau, con chồn lại mò đến tìm bữa tối.
Seeing the dead man lying there, he said to himself: ‘That is a prize, this time I have done well’; and dragging the body with great difficulty to the sledge which was waiting for him, drove off with his booty. Thấy người đàn ông nằm chết dí ở đó, nó tự nhủ: “Quả là một món hời, phen này ta may mắn to rồi”; đoạn, nó khó nhọc kéo lê cái xác lên chiếc xe trượt tuyết đã đợi sẵn, rồi huýt sáo dong xe chở chiến lợi phẩm đi.
He had not driven far when he met a squirrel, who bowed and said: ‘Good-morning, godfather! what have you got behind you?’ Đi chưa được bao xa, nó gặp một chú sóc. Sóc chắp tay vái chào: “Chào bác Chồn! Bác chở gì sau lưng thế ạ?”
The marten laughed and answered: ‘Did you ever hear anything so strange? Chồn cười khà khà đáp: “Chuyện lạ đời chưa từng thấy cháu ơi!
The old man that you see here set traps about his hen-house, thinking to catch me but he fell into his own trap, and broke his own neck. Lão già mà cháu thấy đây đặt bẫy quanh chuồng gà định tóm bác, ai ngờ lại tự sa vào bẫy của mình mà toi mạng.
He is very heavy; I wish you would help me to draw the sledge.’ Lão nặng quá, hay là cháu giúp bác một tay kéo xe được không?”
The squirrel did as he was asked, and the sledge moved slowly along. Sóc vâng lời, và chiếc xe lại chầm chậm lăn bánh.
By-and-by a hare came running across a field, but stopped to see what wonderful thing was coming. Một lát sau, có một chị thỏ từ cánh đồng chạy ngang qua, thấy lạ bèn dừng lại xem.
‘What have you got there?’ she asked, and the marten told his story and begged the hare to help them pull. “Các vị chở gì thế kia?” chị hỏi. Chồn lại kể câu chuyện của mình rồi nhờ Thỏ giúp một tay.
The hare pulled her hardest, and after a while they were joined by a fox, and then by a wolf, and at length a bear was added to the company, and he was of more use than all the other five beasts put together. Thỏ cũng gắng hết sức kéo, và chẳng mấy chốc họ gặp thêm một con cáo, rồi một con sói, và cuối cùng là một con gấu to lớn nhập hội. Sức của một mình gấu thôi cũng bằng cả năm con kia cộng lại.
Besides, when the whole six had supped off the man he was not so heavy to draw. Hơn nữa, sau khi cả sáu con cùng nhau xơi tái người đàn ông, cái xe cũng nhẹ bẫng đi.
The worst of it was that they soon began to get hungry again, and the wolf, who was the hungriest of all, said to the rest: ‘What shall we eat now, my friends, as there is no more man?’ Nhưng khổ nỗi, chúng lại nhanh chóng thấy đói meo, và Sói, con đói nhất trong bầy, lên tiếng hỏi: “Các bạn ơi, giờ hết thịt người rồi, chúng ta ăn gì đây?”
‘I suppose we shall have to eat the smallest of us,’ replied the bear, and the marten turned round to seize the squirrel who was much smaller than any of the rest. “Ta cho rằng chúng ta đành phải ăn đứa nhỏ nhất trong bầy,” Gấu đáp. Nghe vậy, Chồn quay ngoắt lại định vồ Sóc, con nhỏ nhất trong bọn.
But the squirrel ran up a tree like lightning, and the marten remembering, just in time, that he was the next in size, slipped quick as thought into a hole in the rocks. Nhưng Sóc nhanh như chớp phóng tót lên cây. Chồn sực nhớ ra, mình là đứa nhỏ thứ hai, bèn nhanh như cắt lủi vào một hốc đá.
‘What shall we eat now?’ asked the wolf again, when he had recovered from his surprise. “Giờ chúng ta ăn gì đây?” Sói lại hỏi sau một hồi ngơ ngác.
‘We must eat the smallest of us,’ repeated the bear, stretching out a paw towards the hare; but the hare was not a hare for nothing, and before the paw had touched her, she had darted deep into the wood. “Đành phải ăn đứa nhỏ nhất trong bọn thôi,” Gấu lặp lại, vươn móng vuốt về phía Thỏ; nhưng Thỏ đâu phải tầm thường, vuốt chưa kịp chạm tới mình, nó đã co cẳng chạy biến vào rừng sâu.
Now that the squirrel, the marten, and the hare had all gone, the fox was the smallest of the three who were left, and the wolf and the bear explained that they were very sorry, but they would have to eat him. Giờ thì Sóc, ChồnThỏ đều đã đi mất, Cáo là con nhỏ nhất trong ba đứa còn lại. SóiGấu ái ngại giải thích rằng chúng rất tiếc, nhưng đành phải chén Cáo thôi.
Michael, the fox, did not run away as the others had done, but smiled in a friendly manner, and remarked: ‘Things taste so stale in a valley; one’s appetite is so much better up on a mountain.’ Cáo, vốn là một tay khôn ranh, không bỏ chạy như những con khác mà mỉm cười thân thiện, nhận xét: “Ăn uống dưới thung lũng này chán phèo. Phải lên núi cao thưởng thức mới ngon miệng chứ.”
The wolf and the bear agreed, and they turned out of the hollow where they had been walking, and chose a path that led up the mountain side. SóiGấu đồng tình, thế là cả ba rời thung lũng, men theo con đường mòn lên núi.
The fox trotted cheerfully by his two big companions, but on the way he managed to whisper to the wolf: ‘Tell me, Peter, when I am eaten, what will you have for your next dinner?’ Cáo vui vẻ sóng bước bên hai người bạn to xác, nhưng trên đường đi, nó đã kịp thì thầm vào tai Sói: “Này anh Sói, cho tôi hỏi, khi tôi bị ăn thịt xong, bữa tiếp theo của anh sẽ là gì?”
This simple question seemed to put out the wolf very much. Câu hỏi đơn giản này dường như làm Sói vô cùng bối rối.
What would they have for their next dinner, and, what was more important still, who would there be to eat it? Bữa tiếp theo chúng sẽ ăn gì, và quan trọng hơn, ai sẽ là kẻ bị ăn?
They had made a rule always to dine off the smallest of the party, and when the fox was gone, why of course, he was smaller than the bear. Chúng đã đặt ra quy tắc là luôn xơi đứa nhỏ nhất, và khi Cáo đi đời, thì dĩ nhiên, nó nhỏ hơn Gấu.
These thoughts flashed quickly through his head, and he said hastily: ‘Dear brothers, would it not be better for us to live together as comrades, and everyone to hunt for the common dinner? Những ý nghĩ đó loé lên trong đầu Sói, nó vội nói: “Các anh em thân mến, hay là chúng ta cứ sống với nhau như những người đồng đội, cùng nhau đi săn bữa tối chung có phải tốt hơn không?
Is not my plan a good one?’ Kế của tôi có hay không?”
‘It is the best thing I have ever heard,’ answered the fox; and as they were two to one the bear had to be content, though in his heart he would much have preferred a good dinner at once to any friendship. “Đó là ý hay nhất tôi từng được nghe,” Cáo đáp. Và vì là hai chọi một, Gấu đành phải bằng lòng, dù trong thâm tâm nó vẫn thích một bữa tối no nê ngay lập tức hơn là cái tình bằng hữu vớ vẩn nào đó.
For a few days all went well; there was plenty of game in the forest, and even the wolf had as much to eat as he could wish. Mọi chuyện êm đẹp được vài ngày; rừng có rất nhiều thú săn, và ngay cả Sói cũng được ăn no căng bụng.
One morning the fox as usual was going his rounds when he noticed a tall, slender tree, with a magpie’s nest in one of the top branches. Một buổi sáng, Cáo như thường lệ đi dạo một vòng thì thấy một cái cây cao, mảnh khảnh, trên một nhánh cao tít có tổ của một con chim ác là.
Now the fox was particularly fond of young magpies, and he set about making a plan by which he could have one for dinner. Cáo đặc biệt thích món ác là non, nên nó bắt đầu tính kế để có một bữa trưa thịnh soạn.
At last he hit upon something which he thought would do, and accordingly he sat down near the tree and began to stare hard at it. Cuối cùng, nó nghĩ ra một diệu kế, bèn ngồi xuống gốc cây và bắt đầu nhìn chằm chằm lên đó.
‘What are you looking at, Michael?’ asked the magpie, who was watching him from a bough. “Anh Cáo nhìn gì thế?” con ác là đang đậu trên cành hỏi.
‘I’m looking at this tree. It has just struck me what a good tree it would be to cut my new snow-shoes out of.’ “Tôi đang ngắm cái cây này. Vừa nảy ra ý định dùng cây này để đẽo một đôi giày đi tuyết mới.”
But at this answer the magpie screeched loudly, and exclaimed: ‘Oh, not this tree, dear brother, I implore you! Nghe vậy, chim ác là kêu ré lên, van xin: “Ôi, đừng đốn cây này, anh Cáo thân mến ơi, tôi van anh!
I have built my nest on it, and my young ones are not yet old enough to fly.’ Tôi xây tổ trên này, và các con tôi còn chưa đủ lông đủ cánh để bay.”
‘It will not be easy to find another tree that would make such good snow-shoes,’ answered the fox, cocking his head on one side, and gazing at the tree thoughtfully; ‘but I do not like to be ill-natured, so if you will give me one of your young ones I will seek my snow-shoes elsewhere.’ “Khó mà tìm được cái cây nào khác làm giày đi tuyết tốt như cây này,” Cáo đáp, nghiêng đầu, ra chiều đăm chiêu ngắm nghía cái cây. “Nhưng tôi không thích làm kẻ ác, nên nếu chị cho tôi một đứa con của chị, tôi sẽ đi nơi khác tìm cây.”
Not knowing what to do the poor magpie had to agree, and flying back, with a heavy heart, he threw one of his young ones out of the nest. Chẳng biết làm thế nào, chim ác là tội nghiệp đành phải đồng ý. Với trái tim nặng trĩu, nó bay về tổ, đẩy một đứa con non rơi xuống đất.
The fox seized it in his mouth and ran off in triumph, while the magpie, though deeply grieved for the loss of his little one, found some comfort in the thought that only a bird of extraordinary wisdom would have dreamed of saving the rest by the sacrifice of the one. Cáo ngoạm lấy con chim rồi đắc thắng bỏ đi, trong khi chim ác là, dù vô cùng đau khổ vì mất con, cũng tự an ủi rằng chỉ một con chim thông thái phi thường mới nghĩ ra cách hy sinh một đứa để cứu những đứa còn lại.
But what do you think happened? Nhưng bạn nghĩ chuyện gì đã xảy ra?
Why, a few days later, Michael the fox might have been seen sitting under the very same tree, and a dreadful pang shot through the heart of the magpie as he peeped at him from a hole in the nest. Vài ngày sau, người ta lại thấy Cáo ngồi chễm chệ dưới gốc cây đó. Một nỗi đau nhói tim xuyên qua lồng ngực chim ác là khi nó nhìn trộm Cáo từ trong tổ.
‘What are you looking at?’ he asked in a trembling voice. “Anh lại nhìn gì thế?” nó hỏi bằng giọng run rẩy.
‘At this tree. I was just thinking what good snow-shoes it would make,’ answered the fox in an absent voice, as if he was not thinking of what he was saying. “Lại ngắm cái cây này. Tôi đang nghĩ nó sẽ làm được một đôi giày đi tuyết tuyệt làm sao,” Cáo lơ đãng đáp, như thể không để tâm đến lời mình nói.
‘Oh, my brother, my dear little brother, don’t do that,’ cried the magpie, hopping about in his anguish. “Ôi, anh Cáo ơi, anh bạn thân mến của tôi ơi, đừng làm thế,” chim ác là vừa kêu vừa nhảy nhót trong đau khổ.
‘You know you promised only a few days ago that you would get your snow-shoes elsewhere.’ “Mới mấy ngày trước anh đã hứa sẽ đi tìm cây ở nơi khác rồi mà.”
‘So I did; but though I have searched through the whole forest, there is not a single tree that is as good as this. “Đúng là tôi đã hứa; nhưng tôi đã lùng sục khắp khu rừng mà chẳng có cái cây nào tốt bằng cây này.
I am very sorry to put you out, but really it is not my fault. Tôi rất tiếc vì làm phiền chị, nhưng thực sự đây không phải lỗi của tôi.
The only thing I can do for you is to offer to give up my snow-shoes altogether if you will throw me down one of your young ones in exchange.’ Điều duy nhất tôi có thể làm là từ bỏ hẳn ý định làm giày đi tuyết nếu chị chịu ném xuống cho tôi một đứa con nữa để trao đổi.”
And the poor magpie, in spite of his wisdom, was obliged to throw another of his little ones out of the nest; and this time he was not able to console himself with the thought that he had been much cleverer than other people. Và con ác là tội nghiệp, bất chấp sự “thông thái” của mình, buộc phải ném thêm một đứa con nhỏ nữa ra khỏi tổ. Lần này, nó không thể tự an ủi mình rằng nó đã khôn ngoan hơn người khác.
He sat on the edge of his nest, his head drooping and his feathers all ruffled, looking the picture of misery. Nó đậu bên rìa tổ, đầu rũ xuống, lông xù lên, trông thảm thương vô cùng.
Indeed he was so different from the gay, jaunty magpie whom every creature in the forest knew, that a crow who was flying past, stopped to inquire what was the matter. Dáng vẻ của nó khác hẳn với con ác là vui tươi, bảnh bao mà mọi sinh vật trong rừng đều biết, đến nỗi một con quạ bay qua đã phải dừng lại hỏi thăm.
‘Where are the two young ones who are not in the nest?’ asked he. “Hai đứa con non không có trong tổ đâu rồi?” Quạ hỏi.
‘I had to give them to the fox,’ replied the magpie in a quivering voice; ‘he has been here twice in the last week, and wanted to cut down my tree for the purpose of making snow-shoes out of it, and the only way I could buy him off was by giving him two of my young ones.’ “Tôi phải đưa chúng cho con Cáo,” chim ác là đáp bằng giọng run rẩy. “Tuần trước nó đến đây hai lần, doạ đốn cây của tôi để làm giày đi tuyết, và cách duy nhất để nó tha cho là tôi phải nộp hai đứa con.”
‘Oh, you fool,’ cried the crow, ‘the fox was only trying to frighten you. “Ôi, đồ ngốc!” Quạ hét lên, “Nó chỉ doạ mi thôi.
He could not have cut down the tree, for he has neither axe nor knife. Nó làm sao mà đốn cây được khi không có rìu hay dao.
Dear me, to think that you have sacrificed your young ones for nothing! Trời ạ, mi đã hy sinh con mình một cách vô ích!
Dear, dear! how could you be so very foolish!’ And the crow flew away, leaving the magpie overcome with shame and sorrow. Thật là, sao mi có thể ngớ ngẩn đến thế!” Và Quạ bay đi, bỏ lại chim ác là chìm trong xấu hổ và buồn bã.
The next morning the fox came to his usual place in front of the tree, for he was hungry, and a nice young magpie would have suited him very well for dinner. Sáng hôm sau, Cáo lại đến chỗ cũ trước gốc cây, bụng nó đang đói, và một con ác là non béo tròn sẽ là một bữa trưa tuyệt vời.
But this time there was no cowering, timid magpie to do his bidding, but a bird with his head erect and a determined voice. Nhưng lần này, không còn con ác là rụt rè, sợ sệt tuân lệnh nó nữa, mà là một con chim đầu ngẩng cao, cất giọng quả quyết.
‘My good fox,’ said the magpie putting his head on one side and looking very wise—’my good fox, if you take my advice, you will go home as fast as you can. “Này anh Cáo tốt bụng,” chim ác là nói, nghiêng đầu ra vẻ uyên bác, “nếu anh nghe lời tôi, hãy về nhà càng nhanh càng tốt.
There is no use your talking about making snow-shoes out of this tree, when you have neither knife nor axe to cut it down with!’ Đừng có nói chuyện làm giày đi tuyết từ cây này nữa, khi mà anh chẳng có dao cũng chẳng có rìu để mà đốn nó!”
‘Who has been teaching you wisdom?’ asked the fox, forgetting his manners in his surprise at this new turn of affairs. “Ai đã dạy cho chị sự khôn ngoan vậy?” Cáo hỏi, quên cả lễ độ vì ngạc nhiên trước sự thay đổi đột ngột này.
‘The crow, who paid me a visit yesterday,’ answered the magpie. “Là bác Quạ, hôm qua có ghé thăm tôi,” chim ác là đáp.
‘The crow was it?’ said the fox, ‘well, the crow had better not meet me for the future, or it may be the worse for him.’ “Là Quạ ư?” Cáo nói, “Thế thì tốt hơn hết là sau này Quạ đừng gặp ta, nếu không thì đừng trách!”
As Michael, the cunning beast, had no desire to continue the conversation, he left the forest; but when he came to the high road he laid himself at full length on the ground, stretching himself out, just as if he was dead. Vì chẳng còn hứng thú nói chuyện nữa, con Cáo tinh ranh rời khỏi khu rừng. Nhưng khi ra đến đường cái, nó nằm duỗi dài trên đất, giả vờ như đã chết.
Very soon he noticed, out of the corner of his eye, that the crow was flying towards him, and he kept stiller and stifer than ever, with his tongue hanging out of his mouth. Chẳng mấy chốc, liếc mắt qua khoé mi, nó thấy Quạ đang bay về phía mình. Nó nằm im bất động, cứng đờ hơn bao giờ hết, lưỡi thè cả ra ngoài.
The crow, who wanted her supper very badly, hopped quickly towards him, and was stooping forward to peck at his tongue when the fox gave a snap, and caught him by the wing. Con Quạ đang đói cồn cào, liền nhảy nhanh về phía nó, vừa cúi xuống định mổ vào lưỡi Cáo thì Cáo táp một phát, ngoạm được cánh của nó.
The crow knew that it was of no use struggling, so he said: ‘Ah, brother, if you are really going to eat me, do it, I beg of you, in good style. Quạ biết giãy giụa cũng vô ích, liền nói: “À, anh Cáo ơi, nếu anh đã định ăn thịt tôi, tôi xin anh hãy làm cho ra hồn một chút.
Throw me first over this precipice, so that my feathers may be strewn here and there, and that all who see them may know that your cunning is greater than mine.’ Hãy ném tôi xuống vực thẳm này trước, để đám lông vũ của tôi bay tứ tán, và để tất cả những ai nhìn thấy đều biết rằng sự khôn ranh của anh còn cao hơn của tôi.”
This idea pleased the fox, for he had not yet forgiven the crow for depriving him of the young magpies, so he carried the crow to the edge of the precipice and threw him over, intending to go round by a path he knew and pick him up at the bottom. Ý tưởng này làm Cáo hài lòng, vì nó vẫn chưa tha thứ cho Quạ đã cướp mất bữa trưa ác là non của nó. Thế là nó tha Quạ ra mép vực rồi ném xuống, định bụng sẽ đi vòng theo một con đường mòn quen thuộc để nhặt xác ở dưới.
But no sooner had the fox let the crow go than he soared up into the air, and hovering just out of teach of his enemy’s jaws, he cried with a laugh: ‘Ah, fox! you know well how to catch, but you cannot keep.’ Nhưng Cáo vừa thả ra, Quạ liền vút bay lên không trung, lượn lờ ngay ngoài tầm với của kẻ thù rồi cười lớn mà chế nhạo: “Này Cáo ơi! Bắt thì giỏi đấy, nhưng giữ thì dở lắm!”
With his tail between his legs, the fox slunk into the forest. Cúp đuôi lại, Cáo lủi thủi vào rừng.
He did not know where to look for a dinner, as he guessed that the crow would have flown back before him, and put every one on their guard. Nó không biết tìm bữa tối ở đâu, vì đoán rằng Quạ đã bay về trước và báo cho mọi người cảnh giác.
The notion of going to bed supperless was very unpleasant to him, and he was wondering what in the world he should do, when he chanced to meet with his old friend the bear. Ý nghĩ phải đi ngủ với cái bụng rỗng thật khó chịu, và đang không biết phải làm gì, nó tình cờ gặp lại người bạn cũ là Gấu.
This poor animal had just lost his wife, and was going to get some one to mourn over her, for he felt her loss greatly. Con vật đáng thương này vừa mất vợ, và đang đi tìm người đến khóc thuê, vì nó quá đau lòng.
He had hardly left his comfortable cave when he had come across the wolf, who inquired where he was going. Nó vừa rời khỏi hang thì gặp Sói. Sói hỏi nó đi đâu.
‘I am going to find a mourner,’ answered the bear, and told his story. “Ta đi tìm người khóc thuê,” Gấu đáp và kể lại câu chuyện của mình.
‘Oh, let me mourn for you,’ cried the wolf. “Ôi, để cháu khóc cho bác!” Sói la lên.
‘Do you understand how to howl?’ said the bear. “Cậu có biết tru thế nào không?” Gấu hỏi.
‘Oh, certainly, godfather, certainly,’ replied the wolf; but the bear said he should like to have a specimen of his howling, to make sure that he knew his business. “Ồ, dĩ nhiên rồi, thưa bác, dĩ nhiên rồi ạ,” Sói đáp; nhưng Gấu bảo muốn nghe thử một đoạn để chắc rằng nó biết việc.
So the wolf broke forth in his song of lament: ‘Hu, hu, hu, hum, hoh,’ he shouted, and he made such a noise that the bear put up his paws to his ears, and begged him to stop. Thế là Sói cất lên bài ai oán của mình: “Hú, hú, hú, hùm, hô,” nó gào lên, và tiếng gào to đến nỗi Gấu phải lấy tay bịt tai lại và van nó dừng ngay.
‘You have no idea how it is done. Be off with you,’ said he angrily. “Mi chẳng biết gì cả. Biến đi cho khuất mắt,” Gấu giận dữ nói.
A little further down the road the hare was resting in a ditch, but when she saw the bear, she came out and spoke to him, and inquired why he looked so sad. Đi xuống một đoạn, chị Thỏ đang nghỉ trong một con mương, nhưng khi thấy Gấu, chị liền chạy ra chào và hỏi sao trông bác buồn thế.
The bear told her of the loss of his wife, and of his search after a mourner that could lament over her in the proper style. Gấu kể cho Thỏ nghe về nỗi mất mát của mình, và việc đi tìm một người khóc thuê thật hay.
The hare instantly offered her services, but the bear took care to ask her to give him a proof of her talents, before he accepted them. Thỏ liền ngỏ ý giúp, nhưng Gấu cẩn thận yêu cầu Thỏ cho xem tài nghệ trước.
‘Pu, pu, pu, pum, poh,’ piped the hare; but this time her voice was so small that the bear could hardly hear her. “Pu, pu, pu, pum, poh,” Thỏ kêu lên a e, nhưng giọng của nó nhỏ đến mức Gấu chẳng nghe thấy gì.
‘That is not what I want,’ he said, ‘I will bid you good morning.’ “Đấy không phải thứ ta cần,” Gấu nói, “Thôi chào cô.”
It was after this that the fox came up, and he also was struck with the bear‘s altered looks, and stopped. Sau đó thì Cáo đến. Nó cũng ngạc nhiên trước vẻ mặt ủ dột của Gấu và dừng lại hỏi:
‘What is the matter with you, godfather?’ asked he, ‘and where are you going?’ “Có chuyện gì thế bác Gấu? Bác đi đâu vậy?”
‘I am going to find a mourner for my wife,’ answered the bear. “Ta đi tìm người khóc tang cho vợ ta,” Gấu trả lời.
‘Oh, do choose me,’ cried the fox, and the bear looked at him thoughtfully. “Ôi, hãy chọn cháu đi bác,” Cáo kêu lên. Gấu đăm chiêu nhìn nó.
‘Can you howl well?’ he said. “Ngươi có biết than khóc hay không?” Gấu hỏi.
‘Yes, beautifully, just listen,’ and the fox lifted up his voice and sang weeping: ‘Lou, lou, lou! the famous spinner, the baker of good cakes, the prudent housekeeper is torn from her husband! “Hay lắm ạ, bác nghe thử xem,” rồi Cáo cất giọng bi ai mà ca rằng: “Tung… tung… tung! Người thợ dệt nức danh, người làm bánh tuyệt trần, tay hòm chìa khoá đảm đang nay đã lìa xa chồng!
Lou, lou, lou! she is gone! she is gone!’ Tung… tung… tung! Nàng đi rồi! Nàng đi rồi!”
‘Now at last I have found some one who knows the art of lamentation,’ exclaimed the bear, quite delighted; and he led the fox back to his cave, and bade him begin his lament over the dead wife who was lying stretched out on her bed of grey moss. “Giờ thì ta đã tìm được người biết nghệ thuật than khóc,” Gấu thốt lên, vui mừng khôn xiết. Nó dẫn Cáo về hang và bảo Cáo bắt đầu khóc cho người vợ đã chết đang nằm trên giường rêu xám.
But this did not suit the fox at all. Nhưng Cáo lại không chịu.
‘One cannot wail properly in this cave,’ he said, ‘it is much too damp. You had better take the body to the storehouse. It will sound much finer there.’ “Khóc trong cái hang này không hay đâu ạ,” nó nói, “ẩm thấp quá. Bác nên đưa thi thể ra nhà kho. Ở đó tiếng khóc sẽ vang và bi thương hơn nhiều.”
So the bear carried his wife’s body to the storehouse, while he himself went back to the cave to cook some pap for the mourner. Thế là Gấu mang xác vợ ra nhà kho, còn mình thì quay về hang nấu cháo cho người khóc thuê.
From time to time he paused and listened for the sound of wailing, but he heard nothing. Thỉnh thoảng, Gấu lại dừng tay lắng nghe, nhưng chẳng nghe thấy tiếng khóc nào cả.
At last he went to the door of the storehouse, and called to the fox: ‘Why don’t you howl, godfather? What are you about?’ Cuối cùng, nó ra cửa nhà kho và gọi Cáo: “Sao ngươi không khóc, này anh bạn? Ngươi đang làm gì vậy?”
And the fox, who, instead of weeping over the dead bear, had been quietly eating her, answered: ‘There only remain now her legs and the soles of her feet. Cáo, thay vì khóc lóc bên xác Gấu cái, đã âm thầm chén sạch bà, trả lời: “Chỉ còn lại đôi chân với gan bàn chân thôi.
Give me five minutes more and they will be gone also!’ Cho tôi năm phút nữa là xong nốt!”
When the bear heard that he ran back for the kitchen ladle, to give the traitor the beating he deserved. Nghe thấy vậy, Gấu tức tốc chạy vào bếp vớ lấy cái muôi để cho kẻ phản bội một trận nên thân.
But as he opened the door of the storehouse, Michael was ready for him, and slipping between his legs, dashed straight off into the forest. Nhưng khi nó vừa mở cửa nhà kho, Cáo đã chờ sẵn, lách qua giữa hai chân Gấu rồi phóng thẳng vào rừng.
The bear, seeing that the traitor had escaped, flung the ladle after him, and it just caught the tip of his tail, and that is how there comes to be a spot of white on the tails of all foxes. Thấy kẻ phản bội đã tẩu thoát, Gấu giận dữ ném cái muôi theo. Cái muôi bay trúng ngay chóp đuôi của Cáo, và đó là lý do vì sao ngày nay, đuôi của loài cáo nào cũng có một chỏm lông trắng.
[From Finnische Mahrchen.] [Truyện cổ Phần Lan]
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.