27 – Chàng Niels và Gã Khổng Lồ

Niels and the Giants Chàng Niels và Gã Khổng Lồ
Part 1
On one of the great moors over in Jutland, where trees won't grow because the soil is so sandy and the wind so strong, there once lived a man and his wife, who had a little house and some sheep, and two sons who helped them to herd them. Trên một trong những cánh đồng hoang vĩ đại ở Jutland, nơi cây cối chẳng thể nào mọc nổi bởi đất thì đầy cát mà gió lại thổi hun hút, ngày xửa ngày xưa có hai vợ chồng nọ sống trong một ngôi nhà nhỏ, với một đàn cừu, và hai người con trai phụ giúp việc chăn dắt.
The elder of the two was called Rasmus, and the younger Niels. Người anh tên là Rasmus, còn người em là Niels.
Rasmus was quite content to look after sheep, as his father had done before him, but Niels had a fancy to be a hunter, and was not happy till he got hold of a gun and learned to shoot. Rasmus thì an phận với nghề chăn cừu nối nghiệp cha, nhưng Niels thì lại ôm mộng trở thành một tay thợ săn, và cậu chẳng lúc nào nguôi ngoai cho đến khi kiếm được một khẩu súng và học cách bắn.
It was only an old muzzle-loading flint-lock after all, but Niels thought it a great prize, and went about shooting at everything he could see. Dù đó chỉ là một khẩu súng hỏa mai cổ lỗ sĩ nạp đạn từ họng súng, Niels vẫn xem nó như báu vật, và lang thang khắp chốn, thấy cái gì là giương súng bắn cái đó.
So much did he practice that in the long run he became a wonderful shot, and was heard of even where he had never been seen. Luyện mãi rồi cũng thành tài, cậu trở thành một tay thiện xạ cừ khôi, tiếng tăm vang xa đến cả những nơi cậu chưa từng đặt chân đến.
Some people said there was very little in him beyond this, but that was an idea they found reason to change in the course of time. Có người cho rằng ngoài tài lẻ đó ra, cậu chẳng có gì đặc biệt. Nhưng rồi thời gian đã khiến họ phải suy nghĩ lại.
The parents of Rasmus and Niels were good Catholics, and when they were getting old the mother took it into her head that she would like to go to Rome and see the Pope. Cha mẹ của RasmusNiels là những người Công giáo ngoan đạo. Khi họ ngày một già đi, bỗng một ngày, người mẹ nảy ra ý định hành hương đến Rome để diện kiến Đức Giáo Hoàng.
The others didn't see much use in this, but she had her way in the end: they sold all the sheep, shut up the house, and set out for Rome on foot. Dù những người còn lại không thấy ý nghĩa gì trong chuyện đó, nhưng cuối cùng bà vẫn thuyết phục được cả nhà. Họ bèn bán hết đàn cừu, khoá cửa nhà lại, và đi bộ thẳng tiến đến Rome.
Niels took his gun with him. Niels cũng mang theo khẩu súng của mình.
'What do you want with that?' said Rasmus; 'we have plenty to carry without it.' “Em vác nó theo làm gì cho vướng?” Rasmus nói. “Đồ đạc của mình đã đủ nhiều rồi.”
But Niels could not be happy without his gun, and took it all the same. Nhưng với Niels, thiếu súng thì còn gì là vui, thế là cậu vẫn khăng khăng mang theo.
It was in the hottest part of summer that they began their journey, so hot that they could not travel at all in the middle of the day, and they were afraid to do it by night lest they might lose their way or fall into the hands of robbers. Họ bắt đầu cuộc hành trình vào giữa mùa hè nóng như đổ lửa, đến nỗi họ không thể đi lại giữa ban ngày, còn đi đêm thì lại sợ lạc đường hoặc rơi vào tay bọn cướp.
One day, a little before sunset, they came to an inn which lay at the edge of a forest. Một hôm, lúc gần hoàng hôn, họ đến một quán trọ nằm ở bìa rừng.
'We had better stay here for the night,' said Rasmus. “Tốt hơn hết chúng ta nên nghỉ lại đây đêm nay,” Rasmus nói.
'What an idea!' said Niels, who was growing impatient at the slow progress they were making. “Ý kiến gì kỳ vậy!” Niels, vốn đã bắt đầu sốt ruột vì chuyến đi quá chậm chạp, liền phản đối.
'We can't travel by day for the heat, and we remain where we are all night. It will be long enough before we get to Rome if we go on at this rate.' “Ban ngày thì không đi được vì nóng, ban đêm thì lại ngồi yên một chỗ. Cứ cái đà này thì đến bao giờ mới tới Rome?”
Rasmus was unwilling to go on, but the two old people sided with Niels, who said, 'The nights aren't dark, and the moon will soon be up. We can ask at the inn here, and find out which way we ought to take.' Rasmus không muốn đi tiếp, nhưng hai cụ già lại đứng về phía Niels. Cậu nói thêm: “Ban đêm trời không tối hẳn, vả lại trăng sắp lên rồi. Chúng ta có thể hỏi đường ở quán trọ.”
So they held on for some time, but at last they came to a small opening in the forest, and here they found that the road split in two. Thế là họ đi tiếp một lúc, nhưng rồi họ đến một khoảng đất trống nhỏ trong rừng, nơi con đường chia làm hai ngả.
There was no sign-post to direct them, and the people in the inn had not told them which of the two roads to take. Chẳng có biển chỉ đường, mà người trong quán trọ cũng quên không chỉ cho họ phải đi ngả nào.
'What's to be done now?' said Rasmus. 'I think we had better have stayed at the inn.' “Bây giờ làm sao đây?” Rasmus nói. “Tôi đã bảo rồi, lẽ ra chúng ta nên ở lại quán trọ.”
'There's no harm done,' said Niels. 'The night is warm, and we can wait here till morning. One of us will keep watch till midnight, and then waken the other.' “Có sao đâu,” Niels đáp. “Đêm nay trời ấm, chúng ta có thể đợi ở đây đến sáng. Một người sẽ canh đến nửa đêm, rồi gọi người kia dậy.”
Rasmus chose to take the first watch, and the others lay down to sleep. Rasmus chọn canh gác ca đầu, còn những người khác thì nằm xuống ngủ.
It was very quiet in the forest, and Rasmus could hear the deer and foxes and other animals moving about among the rustling leaves. Khu rừng tĩnh mịch, Rasmus có thể nghe rõ tiếng hươu nai, cáo và các loài thú khác xáo động trong lùm cây, làm lá khô xào xạc.
After the moon rose he could see them occasionally, and when a big stag came quite close to him he got hold of Niels' gun and shot it. Khi trăng lên, anh còn thoáng thấy bóng chúng lướt qua. Bất chợt, một con hươu đực to lớn tiến lại rất gần, Rasmus liền chộp lấy khẩu súng của Niels và bắn hạ nó.
Niels was wakened by the report. 'What's that?' he said. Tiếng súng nổ làm Niels choàng tỉnh. “Có chuyện gì vậy?” cậu hỏi.
'I've just shot a stag,' said Rasmus, highly pleased with himself. “Anh vừa bắn hạ một con hươu,” Rasmus đáp, vô cùng đắc ý.
'That's nothing,' said Niels. 'I've often shot a sparrow, which is a much more difficult thing to do.' “Chẳng có gì ghê gớm,” Niels nói. “Em còn bắn được cả chim sẻ, việc đó khó hơn nhiều.”
It was now close on midnight, so Niels began his watch, and Rasmus went to sleep. Bấy giờ đã gần nửa đêm, Niels bắt đầu ca gác của mình, còn Rasmus thì đi ngủ.
It began to get colder, and Niels began to walk about a little to keep himself warm. Trời bắt đầu trở lạnh, Niels đi đi lại lại một chút để giữ ấm.
He soon found that they were not far from the edge of the forest, and when he climbed up one of the trees there he could see out over the open country beyond. Cậu sớm nhận ra họ đang ở không xa rìa khu rừng. Khi trèo lên một cái cây cao, cậu có thể nhìn bao quát cả vùng quê rộng lớn bên ngoài.
At a little distance he saw a fire, and beside it there sat three giants, busy with broth and beef. Cách đó không xa, cậu thấy một đống lửa, và ngồi bên cạnh là ba gã khổng lồ, đang hì hụi với món súp và thịt bò.
They were so huge that the spoons they used were as large as spades, and their forks as big as hay-forks: with these they lifted whole bucketfuls of broth and great joints of meat out of an enormous pot which was set on the ground between them. Chúng to lớn đến nỗi chiếc thìa chúng dùng cũng to bằng cái xẻng, còn nĩa thì vĩ đại như cây chĩa rơm. Bằng những thứ đó, chúng xúc lên cả xô súp và xiên những tảng thịt khổng lồ từ một cái nồi vĩ đại đặt trên mặt đất.
Niels was startled and rather scared at first, but he comforted himself with the thought that the giants were a good way off, and that if they came nearer he could easily hide among the bushes. Thoạt đầu, Niels giật mình và có chút hoảng sợ, nhưng cậu tự trấn an rằng bọn khổng lồ còn ở khá xa, và nếu chúng đến gần, cậu có thể dễ dàng nấp vào bụi rậm.
After watching them for a little, however, he began to get over his alarm, and finally slid down the tree again, resolved to get his gun and play some tricks with them. Sau khi quan sát chúng một lúc, cậu dần hết sợ hãi, và cuối cùng tuột xuống khỏi cây, quyết định lấy súng để trêu chọc chúng một phen.
When he had climbed back to his former position, he took good aim, and waited till one of the giants was just in the act of putting a large piece of meat into his mouth. Khi đã trèo lại vị trí cũ, cậu ngắm bắn rất kỹ, và đợi đến khi một trong ba gã khổng lồ vừa chuẩn bị đưa một miếng thịt lớn vào miệng.
Bang! went Niels' gun, and the bullet struck the handle of the fork so hard that the point went into the giant's chin, instead of his mouth. “Đoàng!” Khẩu súng của Niels vang lên, viên đạn găm thẳng vào cán nĩa mạnh đến nỗi đầu nhọn của chiếc nĩa đâm vào cằm gã khổng lồ thay vì vào miệng hắn.
'None of your tricks,' growled the giant to the one who sat next him. 'What do you mean by hitting my fork like that, and making me prick myself?' “Đừng có giở trò,” gã khổng lồ gầm gừ với kẻ ngồi cạnh. “Ngươi định làm gì mà đánh vào nĩa của ta, làm ta tự đâm vào mình thế hả?”
'I never touched your fork,' said the other. 'Don't try to get up a quarrel with me.' “Ta không hề đụng vào nĩa của ngươi,” gã kia đáp. “Đừng có kiếm chuyện với ta.”
'Look at it, then,' said the first. 'Do you suppose I stuck it into my own chin for fun?' “Thế thì nhìn đây này,” gã thứ nhất nói. “Ngươi nghĩ ta tự đâm vào cằm mình cho vui à?”
The two got so angry over the matter that each offered to fight the other there and then, but the third giant acted as peace-maker, and they again fell to their eating. Hai gã trở nên tức giận đến mức đòi lao vào đánh nhau ngay lập tức, nhưng gã khổng lồ thứ ba đã đứng ra hòa giải, và chúng lại ngồi xuống ăn tiếp.
While the quarrel was going on, Niels had loaded the gun again, and just as the second giant was about to put a nice tit-bit into his mouth, bang! went the gun again, and the fork flew into a dozen pieces. Trong lúc chúng cãi nhau, Niels đã nạp lại đạn. Ngay khi gã khổng lồ thứ hai sắp sửa đưa một miếng ngon vào miệng, “Đoàng!”, khẩu súng lại nổ, và chiếc nĩa vỡ tan thành cả tá mảnh.
This giant was even more furious than the first had been, and words were just coming to blows, when the third giant again interposed. này còn tức giận hơn gã đầu, và lời qua tiếng lại sắp sửa biến thành một trận ẩu đả thì gã khổng lồ thứ ba lại can thiệp.
'Don't be fools,' he said to them; 'what's the good of beginning to fight among ourselves, when it is so necessary for the three of us to work together and get the upper hand over the king of this country.' “Đừng có ngốc thế,” gã nói với họ. “Đánh nhau bây giờ thì được ích gì, trong khi cả ba chúng ta phải hợp sức lại để lật đổ vua của xứ này.”
'It will be a hard enough task as it is, but it will be altogether hopeless if we don't stick together.' “Nhiệm vụ này đã đủ khó rồi, nhưng nếu chúng ta không đoàn kết thì sẽ hoàn toàn vô vọng.”
'Sit down again, and let us finish our meal; I shall sit between you, and then neither of you can blame the other.' “Ngồi xuống đi, ăn cho xong bữa đã; ta sẽ ngồi giữa hai ngươi, thế là không ai đổ lỗi cho ai được nữa.”
Niels was too far away to hear their talk, but from their gestures he could guess what was happening, and thought it good fun. Niels ở quá xa nên không nghe được chúng nói gì, nhưng qua cử chỉ, cậu có thể đoán được chuyện gì đang xảy ra và thấy khá thú vị.
'Thrice is lucky,' said he to himself; 'I'll have another shot yet.' “Quá tam ba bận,” cậu tự nhủ, “mình sẽ bắn thêm phát nữa.”
This time it was the third giant's fork that caught the bullet, and snapped in two. Lần này, đến lượt chiếc nĩa của gã khổng lồ thứ ba trúng đạn và gãy làm đôi.
'Well,' said he, 'if I were as foolish as you two, I would also fly into a rage, but I begin to see what time of day it is, and I'm going off this minute to see who it is that's playing these tricks with us.' “Chà,” hắn nói, “nếu ta cũng ngốc như hai ngươi, ta cũng sẽ nổi điên. Nhưng ta bắt đầu hiểu chuyện gì đang xảy ra rồi đấy. Ta sẽ đi xem kẻ nào đang bày trò với chúng ta.”
So well had the giant made his observations, that though Niels climbed down the tree as fast as he could, so as to hide among the bushes, he had just got to the ground when the enemy was upon him. Gã khổng lồ quả đã quan sát rất kỹ, dù Niels tuột xuống cây nhanh hết mức có thể để nấp vào bụi rậm, thì khi cậu vừa chạm đất, kẻ thù đã ập đến.
'Stay where you are,' said the giant, 'or I'll put my foot on you, and there won't be much of you left after that.' “Đứng yên đấy,” gã khổng lồ nói, “nếu không ta sẽ dẫm bẹp ngươi, và ngươi sẽ chẳng còn lại gì đâu.”
Niels gave in, and the giant carried him back to his comrades. Niels đành chịu thua, và gã khổng lồ xách cậu về chỗ đồng bọn.
'You don't deserve any mercy at our hands,' said his captor 'but as you are such a good shot you may be of great use to us, so we shall spare your life, if you will do us a service.' “Ngươi không đáng được tha mạng,” kẻ bắt cậu nói, “nhưng vì ngươi là một tay thiện xạ nên có thể giúp ích rất nhiều cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta sẽ tha mạng cho ngươi, nếu ngươi chịu giúp chúng ta một việc.”
'Not far from here there stands a castle, in which the king's daughter lives; we are at war with the king, and want to get the upper hand of him by carrying off the princess, but the castle is so well guarded that there is no getting into it.' “Cách đây không xa có một lâu đài, nơi con gái của nhà vua đang sống; chúng ta đang giao chiến với đức vua, và muốn chiếm thế thượng phong bằng cách bắt cóc công chúa, nhưng lâu đài được canh gác quá cẩn mật nên không thể đột nhập.”
'By our skill in magic we have cast sleep on every living thing in the castle, except a little black dog, and, as long as he is awake, we are no better off than before; for, as soon as we begin to climb over the wall, the little dog will hear us, and its barking will waken all the others again.' “Bằng phép thuật, chúng ta đã khiến mọi sinh vật trong lâu đài chìm vào giấc ngủ, ngoại trừ một con chó đen nhỏ. Chừng nào nó còn thức, chúng ta cũng chẳng làm gì được, vì ngay khi chúng ta bắt đầu trèo tường, con chó nhỏ sẽ nghe thấy và tiếng sủa của nó sẽ đánh thức những người khác.”
'Having got you, we can place you where you will be able to shoot the dog before it begins to bark, and then no one can hinder us from getting the princess into our hands.' “Giờ đã có ngươi, chúng ta có thể đưa ngươi đến vị trí thuận lợi để bắn hạ con chó trước khi nó kịp sủa, và khi đó không ai có thể cản chúng ta bắt công chúa.”
'If you do that, we shall not only let you off, but reward you handsomely.' “Nếu ngươi làm được việc đó, chúng ta không chỉ tha mạng cho ngươi, mà còn thưởng rất hậu.”
Niels had to consent, and the giants set out for the castle at once. Niels đành phải đồng ý, và bọn khổng lồ lập tức lên đường đến lâu đài.
It was surrounded by a very high rampart, so high that even the giants could not touch the top of it. Lâu đài được bao quanh bởi một tường thành rất cao, cao đến nỗi ngay cả bọn khổng lồ cũng không thể chạm tới đỉnh.
'How am I to get over that?' said Niels. “Làm sao cháu trèo qua được đó?” Niels hỏi.
'Quite easily,' said the third giant; ' I'll throw you up on it.' “Dễ thôi,” gã khổng lồ thứ ba nói. “Ta sẽ ném ngươi lên đó.”
'No, thanks,' said Niels. 'I might fall down on the other side, or break my leg or neck, and then the little dog wouldn't get shot after all.' “Không, cảm ơn,” Niels đáp. “Cháu có thể bị rơi xuống phía bên kia, hoặc gãy chân gãy cổ, và rồi con chó nhỏ sẽ không bị bắn hạ.”
'No fear of that,' said the giant; 'the rampart is quite wide on the top, and covered with long grass, so that you will come down as softly as though you fell on a feather-bed.' “Không phải sợ,” gã khổng lồ nói. “Đỉnh tường thành khá rộng, lại phủ đầy cỏ dài, nên ngươi sẽ tiếp đất êm như rơi trên nệm lông vũ vậy.”
Part 2
Niels had to believe him, and allowed the giant to throw him up. Niels đành tin lời, và để gã khổng lồ ném mình lên.
He came down on his feet quite unhurt, but the little black dog heard the dump, and rushed out of its kennel at once. Cậu tiếp đất bằng đôi chân, hoàn toàn vô sự, nhưng tiếng “bịch” nặng nề đã khiến con chó đen nhỏ giật mình, lập tức lao ra khỏi chuồng.
It was just opening its mouth to bark, when Niels fired, and it fell dead on the spot. Nó vừa há miệng định sủa, thì Niels đã nổ súng. Con chó ngã lăn ra chết ngay tại chỗ.
'Go down on the inside now,' said the giant, 'and see if you can open the gate to us.' “Giờ thì đi xuống phía trong xem,” gã khổng lồ nói, “và tìm cách mở cổng cho chúng ta vào.”
Niels made his way down into the courtyard, but on his way to the outer gate he found himself at the entrance to the large hall of the castle. Niels đi xuống khoảng sân trong. Nhưng trên đường đến cổng chính, cậu tình cờ đứng trước lối vào sảnh lớn của lâu đài.
The door was open, and the hall was brilliantly lighted, though there was no one to be seen. Cánh cửa để ngỏ, và đại sảnh sáng rực ánh đèn, dù không một bóng người.
Niels went in here and looked round him: on the wall there hung a huge sword without a sheath, and beneath it was a large drinking-horn, mounted with silver. Niels bước vào và nhìn quanh: trên tường treo một thanh gươm khổng lồ không vỏ, bên dưới là một chiếc tù và uống rượu lớn, được nạm bạc.
Niels went closer to look at these, and saw that the horn had letters engraved on the silver rim: when he took it down and turned it round, he found that the inscription was:— Niels lại gần để quan sát kỹ hơn, và thấy những dòng chữ khắc trên vành bạc của chiếc tù và: khi cậu lấy nó xuống và xoay vòng, cậu đọc được dòng minh văn:—
Whoever drinks the wine I hold, Can wield the sword that hangs above; Then let him use it for the right, And win a royal maiden's love. Ai cạn dòng rượu ta chứa trong lòng, Sẽ vung được thanh gươm treo phía trên; Vậy hãy dùng nó vì lẽ phải, Để chiếm được trái tim nàng thiếu nữ hoàng gia.
Niels took out the silver stopper of the horn, and drank some of the wine, but when he tried to take down the sword he found himself unable to move it. Niels rút chiếc nút bạc ra khỏi tù và, rồi uống một ngụm rượu. Nhưng khi cậu thử nhấc thanh gươm xuống, cậu thấy mình không tài nào lay chuyển được nó.
So he hung up the horn again, and went further in to the castle. 'The giants can wait a little,' he said. Thế là cậu lại treo chiếc tù và lên, và đi sâu hơn vào trong lâu đài. “Cứ để bọn khổng lồ chờ một chút,” cậu nói.
Before long he came to an apartment in which a beautiful princess lay asleep in a bed, and on a table by her side there lay a gold-hemmed handkerchief. Chẳng bao lâu, cậu đến một căn phòng nơi một nàng công chúa xinh đẹp đang say ngủ trên giường, và bên cạnh là một chiếc khăn tay viền vàng đặt trên bàn.
Niels tore this in two, and put one half in his pocket, leaving the other half on the table. Niels xé chiếc khăn làm đôi, nhét một nửa vào túi mình, còn nửa kia để lại trên bàn.
On the floor he saw a pair of gold-embroidered slippers, and one of these he also put in his pocket. Trên sàn nhà, cậu thấy một đôi hài thêu vàng, và cậu cũng nhét một chiếc vào túi.
After that he went back to the hall, and took down the horn again. Sau đó, cậu quay trở lại đại sảnh, và một lần nữa lấy chiếc tù và xuống.
'Perhaps I have to drink all that is in it before I can move the sword,' he thought; so he put it to his lips again and drank till it was quite empty. “Có lẽ mình phải uống cạn thì mới nhấc nổi thanh gươm,” cậu nghĩ; thế là cậu kề môi vào và uống một hơi đến khi cạn sạch.
When he had done this, he could wield the sword with the greatest of ease, and felt himself strong enough to do anything, even to fight the giants he had left outside, who were no doubt wondering why he had not opened the gate to them before this time. Uống xong, cậu có thể vung thanh gươm một cách dễ dàng nhất, và cảm thấy mình đủ mạnh để làm bất cứ điều gì, ngay cả việc chiến đấu với bọn khổng lồ mà cậu đã bỏ lại bên ngoài, chắc chúng đang tự hỏi tại sao cậu vẫn chưa mở cổng.
To kill the giants, he thought, would be using the sword for the right; but as to winning the love of the princess, that was a thing which the son of a poor sheep-farmer need not hope for. Giết bọn khổng lồ, cậu nghĩ, chính là dùng gươm vì lẽ phải; còn chuyện chiếm được trái tim công chúa, đó là điều mà con trai một người chăn cừu nghèo khó chẳng bao giờ dám mơ tưởng.
When Niels came to the gate of the castle, he found that there was a large door and a small one, so he opened the latter. Khi Niels đến cổng lâu đài, cậu thấy có một cánh cổng lớn và một cánh cổng nhỏ. Cậu bèn mở cánh cổng nhỏ.
'Can't you open the big door?' said the giants; 'we shall hardly be able to get in at this one.' “Ngươi không mở được cổng lớn à?” bọn khổng lồ hỏi. “Cái cổng này khó mà chui lọt được.”
'The bars are too heavy for me to draw,' said Niels; 'if you stoop a little you can quite well come in here.' “Then cài nặng quá, cháu không kéo nổi,” Niels đáp. “Các bác cúi người xuống một chút là qua được thôi.”
The first giant accordingly bent down and entered in a stooping posture, but before he had time to straighten his back again Niels made a sweep with the sword, and oft went the giant's head. khổng lồ đầu tiên liền cúi xuống, lom khom đi vào. Nhưng trước khi hắn kịp đứng thẳng lưng trở lại, Niels đã vung gươm một đường ngọt lịm, và cái đầu của gã khổng lồ văng đi.
To push the body aside as it fell was quite easy for Niels, so strong had the wine made him, and the second giant as he entered met the same reception. Nhờ dòng rượu thần, Niels khỏe đến mức dễ dàng đẩy cái xác không đầu sang một bên. Gã khổng lồ thứ hai bước vào cũng nhận được một kết cục tương tự.
The third was slower in coming, so Niels called out to him: 'Be quick,' he said, 'you are surely the oldest of the three, since you are so slow in your movements, but I can't wait here long; I must get back to my own people as soon as possible.' Gã thứ ba thì chậm chạp hơn, nên Niels gọi lớn: “Nhanh lên,” cậu nói, “chắc bác là người già nhất trong ba người nên mới chậm chạp như vậy, nhưng cháu không thể đợi lâu được đâu. Cháu phải về với gia đình mình càng sớm càng tốt.”
So the third also came in, and was served in the same way. It appears from the story that giants were not given fair play! Thế là gã thứ ba cũng bước vào, và cũng bị xử lý gọn ghẽ y như hai gã trước. Xem ra trong câu chuyện này, bọn khổng lồ đã không được đối xử công bằng cho lắm!
By this time day was beginning to break, and Niels thought that his folks might already be searching for him, so, instead of waiting to see what took place at the castle, he ran off to the forest as fast as he could, taking the sword with him. Lúc này, trời đã tờ mờ sáng, và Niels nghĩ rằng gia đình chắc đang đi tìm mình, nên thay vì ở lại xem chuyện gì sẽ xảy ra trong lâu đài, cậu mang theo thanh gươm và chạy nhanh hết sức về phía khu rừng.
He found the others still asleep, so he woke them up, and they again set out on their journey. Cậu thấy mọi người vẫn còn ngủ say, bèn đánh thức họ dậy. Thế là cả nhà lại tiếp tục cuộc hành trình.
Of the night's adventures he said not a word, and when they asked where he got the sword, he only pointed in the direction of the castle, and said, 'Over that way.' Về những cuộc phiêu lưu trong đêm, cậu không hé một lời. Khi mọi người hỏi cậu kiếm đâu ra thanh gươm, cậu chỉ chỉ về hướng lâu đài và nói: “Ở đằng kia.”
They thought he had found it, and asked no more questions. Họ nghĩ cậu nhặt được, nên không hỏi thêm gì nữa.
When Niels left the castle, he shut the door behind him, and it closed with such a bang that the porter woke up. Khi Niels rời lâu đài, cậu đã đóng cánh cửa lại sau lưng, và nó sập vào mạnh đến nỗi người gác cổng tỉnh giấc.
He could scarcely believe his eyes when he saw the three headless giants lying in a heap in the courtyard, and could not imagine what had taken place. Anh ta không thể tin vào mắt mình khi thấy ba gã khổng lồ không đầu nằm thành một đống trong sân, và không thể tưởng tượng nổi chuyện gì đã xảy ra.
The whole castle was soon aroused, and then everybody wondered at the affair: it was soon seen that the bodies were those of the king's great enemies, but how they came to be there and in that condition was a perfect mystery. Cả lâu đài sớm bị đánh thức, và ai nấy đều kinh ngạc trước sự việc: người ta nhanh chóng nhận ra đó là xác của những kẻ thù lớn nhất của đức vua, nhưng tại sao chúng lại ở đây trong tình trạng này thì quả là một bí ẩn.
Then it was noticed that the drinking-horn was empty and the sword gone, while the princess reported that half of her handkerchief and one of her slippers had been taken away. Rồi người ta để ý thấy chiếc tù và uống rượu đã cạn sạch, và thanh gươm đã biến mất, trong khi công chúa thì báo rằng một nửa chiếc khăn tay và một chiếc hài của nàng đã bị lấy đi.
How the giants had been killed seemed a little clearer now, but who had done it was as great a puzzle as before. Việc bọn khổng lồ bị giết dường như đã sáng tỏ hơn một chút, nhưng ai đã làm điều đó thì vẫn là một câu đố nan giải.
The old knight who had charge of the castle said that in his opinion it must have been some young knight, who had immediately set off to the king to claim the hand of the princess. Lão hiệp sĩ cai quản lâu đài cho rằng, theo ý ông, đó hẳn là một hiệp sĩ trẻ nào đó, đã lập tức lên đường đến gặp đức vua để cầu hôn công chúa.
This sounded likely, but the messenger who was sent to the Court returned with the news that no one there knew anything about the matter. Giả thuyết này nghe có vẻ hợp lý, nhưng sứ giả được cử đến triều đình đã trở về với tin rằng không một ai ở đó biết gì về chuyện này.
'We must find him, however,' said the princess; 'for if he is willing to marry me I cannot in honour refuse him, after what my father put on the horn.' “Nhưng chúng ta phải tìm được chàng,” công chúa nói, “bởi nếu chàng muốn cưới ta, ta không thể từ chối vì danh dự, sau những gì cha ta đã khắc lên chiếc tù và.”
She took council with her father's wisest men as to what ought to be done, and among other things they advised her to build a house beside the highway, and put over the door this inscription:—'Whoever will tell the story of his life, may stay here three nights for nothing.' Nàng tham vấn những vị hiền triết khôn ngoan nhất của vương quốc về những việc cần làm. Trong số các lời khuyên, họ gợi ý nàng nên xây một ngôi nhà bên cạnh con đường lớn, và treo một tấm biển trên cửa với dòng chữ:—“Bất kỳ ai kể lại câu chuyện đời mình, sẽ được ở lại đây ba đêm miễn phí.”
This was done, and many strange tales were told to the princess, but none of the travellers said a word about the three giants. Ngôi nhà được xây lên, và nhiều câu chuyện kỳ lạ đã được kể cho công chúa nghe, nhưng không một người khách qua đường nào nhắc đến ba gã khổng lồ.
In the meantime Niels and the others tramped on towards Rome. Trong khi đó, Niels và gia đình vẫn tiếp tục hành trình về Rome.
Autumn passed, and winter was just beginning when they came to the foot of a great range of mountains, towering up to the sky. Mùa thu qua đi, và mùa đông vừa chớm đến thì họ dừng chân dưới một dãy núi lớn, cao chọc trời.
'Must we go over these?' said they. 'We shall be frozen to death or buried in the snow.' “Chúng ta phải đi qua những ngọn núi này sao?” họ nói. “Chúng ta sẽ chết cóng hoặc bị chôn vùi trong tuyết mất.”
'Here comes a man,' said Niels; 'let us ask him the way to Rome.' They did so, and were told that there was no other way. “Có một người đang đến kìa,” Niels nói, “chúng ta hãy hỏi ông ấy đường đến Rome.” Họ hỏi, và được biết rằng không còn con đường nào khác.
'And is it far yet?' said the old people, who were beginning to be worn out by the long journey. “Thế còn xa không?” hai cụ già, vốn đã bắt đầu kiệt sức vì chuyến đi dài, hỏi.
The man held up his foot so that they could see the sole of his shoe; it was worn as thin as paper, and there was a hole in the middle of it. Người đàn ông giơ chân lên để họ thấy đế giày của ông; nó đã mòn mỏng như tờ giấy, và có một lỗ thủng ở giữa.
'These shoes were quite new when I left Rome,' he said, 'and look at them now; that will tell you whether you are far from it or not.' “Đôi giày này còn mới cứng khi tôi rời Rome,” ông nói, “giờ thì nhìn chúng xem. Điều đó sẽ cho các vị biết mình còn xa hay không.”
This discouraged the old people so much that they gave up all thought of finishing the journey, and only wished to get back to Denmark as quickly as they could. Việc này làm hai cụ già nản lòng đến mức họ từ bỏ mọi ý định hoàn thành chuyến hành hương, và chỉ muốn trở về Đan Mạch càng nhanh càng tốt.
What with the winter and bad roads they took longer to return than they had taken to go, but in the end they found themselves in sight of the forest where they had slept before. Với mùa đông lạnh giá và những con đường tồi tệ, họ mất nhiều thời gian để trở về hơn là lúc đi, nhưng cuối cùng họ cũng đã thấy khu rừng nơi họ từng nghỉ chân.
'What's this?' said Rasmus. 'Here's a big house built since we passed this way before.' “Cái gì thế này?” Rasmus nói. “Có một ngôi nhà lớn được xây lên từ lúc chúng ta đi qua đây.”
'So it is,' said Niels; 'let's stay all night in it.' “Đúng vậy,” Niels đồng tình, “chúng ta hãy ở lại đây một đêm đi.”
'No, we can't afford that,' said the old people; 'it will be too dear for the like of us.' “Không, chúng ta không đủ tiền đâu,” hai cụ già nói, “nó sẽ quá đắt đỏ với những người như chúng ta.”
However, when they saw what was written above the door, they were all well pleased to get a night's lodging for nothing. Tuy nhiên, khi họ thấy dòng chữ viết trên cửa, tất cả đều vui mừng vì được ở trọ một đêm miễn phí.
They were well received, and had so much attention given to them, that the old people were quite put out by it. Họ được tiếp đón nồng hậu, và được quan tâm chăm sóc đến nỗi hai cụ già cảm thấy vô cùng áy náy.
After they had got time to rest themselves, the princess's steward came to hear their story. Sau khi họ đã nghỉ ngơi, viên quản gia của công chúa đến để nghe câu chuyện của họ.
'You saw what was written above the door,' he said to the father. 'Tell me who you are and what your history has been.' “Ông đã thấy dòng chữ trên cửa rồi chứ?” ông ta hỏi người cha. “Hãy cho tôi biết ông là ai và câu chuyện đời ông thế nào.”
'Dear me, I have nothing of any importance to tell you,' said the old man, 'and I am sure we should never have made so bold as to trouble you at all if it hadn't been for the youngest of our two sons here.' “Trời đất ơi, tôi chẳng có gì quan trọng để kể cả,” ông lão nói, “và tôi chắc rằng chúng tôi đã không dám làm phiền ngài chút nào nếu không phải vì thằng con út của chúng tôi đây.”
'Never mind that,' said the steward; ' you are very welcome if you will only tell me the story of your life.' “Không sao đâu,” viên quản gia nói, “ông cứ thoải mái nếu ông chịu kể lại câu chuyện đời mình.”
'Well, well, I will,' said he, 'but there is nothing to tell about it. I and my wife have lived all our days on a moor in North Jutland, until this last year, when she took a fancy to go to Rome.' “Thôi được, tôi sẽ kể,” ông nói, “nhưng thật sự chẳng có gì đáng nói cả. Vợ chồng tôi đã sống cả đời trên một cánh đồng hoang ở Bắc Jutland, cho đến năm ngoái, bà ấy nảy ra ý muốn đến Rome.”
'We set out with our two sons but turned back long before we got there, and are now on our way home again. That's all my own story, and our two sons have lived with us all their days, so there is nothing more to be told about them either.' “Chúng tôi khởi hành cùng hai con trai nhưng đã quay về trước khi đến nơi, và giờ đang trên đường về nhà. Đó là toàn bộ câu chuyện của tôi, và hai con trai tôi sống với chúng tôi suốt cả đời, nên cũng chẳng có gì thêm để kể về chúng cả.”
'Yes there is,' said Rasmus; 'when we were on our way south, we slept in the wood near here one night, and I shot a stag.' “Có chứ ạ,” Rasmus xen vào, “khi chúng ta trên đường về phía nam, chúng ta đã ngủ trong khu rừng này một đêm, và con đã bắn hạ một con hươu.”
The steward was so much accustomed to hearing stories of no importance that he thought there was no use going further with this, but reported to the princess that the newcomers had nothing to tell. Viên quản gia đã quá quen với việc nghe những câu chuyện vô bổ đến mức ông nghĩ không cần phải hỏi thêm nữa. Ông quay về báo cáo với công chúa rằng những người mới đến không có gì để kể.
'Did you question them all?' she said. “Khanh đã hỏi tất cả họ chưa?” nàng hỏi.
'Well, no; not directly,' said he; 'but the father said that none of them could tell me any more than he had done.' “À, chưa ạ, chưa hỏi trực tiếp từng người,” ông ta nói, “nhưng người cha nói rằng không ai trong số họ có thể kể gì thêm ngoài những gì ông ấy đã kể.”
'You are getting careless,' said the princess; 'I shall go and talk to them myself.' “Khanh bắt đầu lơ là rồi đấy,” công chúa nói, “ta sẽ tự mình đến nói chuyện với họ.”
Niels knew the princess again as soon as she entered the room, and was greatly alarmed, for he immediately supposed that all this was a device to discover the person who had run away with the sword, the slipper and the half of the handkerchief, and that it would fare badly with him if he were discovered. Niels nhận ra công chúa ngay khi nàng bước vào phòng, và cậu vô cùng hoảng sợ. Cậu lập tức cho rằng tất cả chuyện này là một cái bẫy để tìm ra kẻ đã trộm đi thanh gươm, chiếc hài và nửa chiếc khăn tay, và cậu sẽ gặp đại họa nếu bị phát hiện.
So he told his story much the same as the others did (Niels was not very particular), and thought he had escaped all further trouble, when Rasmus put in his word. Thế nên cậu cũng kể lại câu chuyện y như những người khác (Niels không phải là người quá cầu kỳ), và nghĩ rằng mình đã thoát nạn, thì Rasmus xen vào.
'You've forgotten something, Niels,' he said; 'you remember you found a sword near here that night I shot the stag.' “Em quên mất một chuyện rồi, Niels,” anh ta nói, “em nhớ chứ, em đã tìm thấy một thanh gươm gần đây vào cái đêm anh bắn con hươu ấy.”
'Where is the sword?' said the princess. Thanh gươm đâu?” công chúa hỏi.
'I know,' said the steward, 'I saw where he laid it down when they came in;' and off he went to fetch it, while Niels wondered whether he could make his escape in the meantime. “Thần biết ạ,” viên quản gia nói, “thần thấy cậu ta đặt nó xuống đâu đó khi họ mới vào.” Rồi ông ta chạy đi lấy, trong khi Niels tự hỏi liệu mình có thể trốn thoát trong lúc này không.
Before he had made up his mind, however, the steward was back with the sword, which the princess recognised at once. Tuy nhiên, trước khi cậu kịp quyết định, viên quản gia đã trở lại với thanh gươm trên tay, và công chúa nhận ra nó ngay lập tức.
'Where did you get this?' she said to Niels. “Ngươi lấy cái này ở đâu?” nàng hỏi Niels.
Niels was silent, and wondered what the usual penalty was for a poor sheep-farmer's son who was so unfortunate as to deliver a princess and carry off things from her bed-room. Niels im lặng, và tự hỏi hình phạt thông thường cho một người con trai chăn cừu nghèo khó, người đã không may giải cứu một nàng công chúa và lấy trộm đồ từ phòng ngủ của nàng, là gì.
'See what else he has about him,' said the princess to the steward, and Niels had to submit to be searched: out of one pocket came a gold-embroidered slipper, and out of another the half of a gold-hemmed handkerchief. “Xem trong người cậu ta còn có gì nữa không,” công chúa nói với viên quản gia. Niels đành phải để cho người ta khám xét: từ một túi, họ lôi ra một chiếc hài thêu vàng, và từ túi kia, là một nửa chiếc khăn tay viền vàng.
'That is enough,' said the princess; 'now we needn't ask any more questions. Send for my father the king at once.' “Đủ rồi,” công chúa nói, “giờ chúng ta không cần hỏi thêm gì nữa. Hãy cho người đi mời cha ta, đức vua, đến đây ngay lập tức.”
'Please let me go,' said Niels; 'I did you as much good as harm, at any rate.' “Xin hãy để cháu đi,” Niels nói. “Dù sao thì cháu đã giúp công nương nhiều hơn là gây hại mà.”
'Why, who said anything about doing harm?' said the princess. 'You must stay here till my father comes.' “Ai nói gì đến chuyện gây hại chứ?” công chúa nói. “Ngươi phải ở lại đây cho đến khi cha ta đến.”
The way in which the princess smiled when she said this gave Niels some hope that things might not be bad for him after all, and he was yet more encouraged when he thought of the words engraved on the horn, though the last line still seemed too good to be true. Cách công chúa mỉm cười khi nói những lời này đã cho Niels một tia hy vọng rằng mọi chuyện có thể không tệ như cậu nghĩ, và cậu càng được khích lệ hơn khi nhớ lại những dòng chữ khắc trên chiếc tù và, mặc dù dòng cuối cùng vẫn có vẻ quá tốt đẹp để thành sự thật.
However, the arrival of the king soon settled the matter: the princess was willing and so was Niels, and in a few days the wedding bells were ringing. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nhà vua đã sớm giải quyết mọi chuyện: công chúa đồng ý và Niels cũng vậy. Vài ngày sau, tiếng chuông đám cưới vang lên.
Niels was made an earl by that time, and looked as handsome as any of them when dressed in all his robes. Niels lúc đó đã được phong làm bá tước, và khi khoác lên mình bộ lễ phục sang trọng, trông chàng cũng tuấn tú không kém ai.
Before long the old king died, and Niels reigned after him; but whether his father and mother stayed with him, or went back to the moor in Jutland, or were sent to Rome in a carriage and four, is something that all the historians of his reign have forgotten to mention. Chẳng bao lâu, vị vua già băng hà, và Niels lên ngôi kế vị; nhưng còn chuyện cha mẹ chàng có ở lại cùng chàng, hay trở về cánh đồng hoang ở Jutland, hay được gửi đến Rome trên một cỗ xe bốn ngựa, thì đó là điều mà tất cả các sử gia trong triều đại của chàng đều đã quên ghi lại.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.