PRINCE VIVIEN AND THE PRINCESS PLACIDA / HOÀNG TỬ VIVIEN VÀ NÀNG CÔNG CHÚA PLACIDA | |
---|---|
Once upon a time there lived a King and Queen who loved one another dearly. | Ngày xửa ngày xưa, có một vị Vua và một Hoàng hậu yêu thương nhau hết mực. |
Indeed the Queen, whose name was Santorina, was so pretty and so kind-hearted that it would have been a wonder if her husband had not been fond of her, while King Gridelin himself was a perfect bundle of good qualities, for the Fairy who presided at his christening had summoned the shades of all his ancestors, and taken something good from each of them to form his character. | Quả thật, Hoàng hậu Santorina xinh đẹp và nhân hậu đến mức, thật lạ nếu đức vua không sủng ái bà. Về phần mình, Vua Gridelin lại là người hội tụ gần như mọi phẩm chất tốt đẹp, bởi vị Tiên Mẫu đỡ đầu trong lễ rửa tội của ngài đã triệu hồi linh hồn của tất cả các bậc tổ tiên và chắt lọc từ mỗi người một đức tính tốt để hun đúc nên tính cách cho ngài. |
Unfortunately, though, she had given him rather too much kindness of heart, which is a thing that generally gets its possessor into trouble, but so far all things had prospered with King Gridelin. | Nhưng chẳng may thay, bà lại ban cho ngài lòng tốt có phần thái quá, một đức tính thường đẩy chủ nhân của nó vào rắc rối. Dù vậy, cho đến lúc ấy, mọi sự với Vua Gridelin vẫn luôn hanh thông, tốt đẹp. |
However, it was not to be expected such good fortune could last, and before very long the Queen had a lovely little daughter who was named Placida. | Tuy nhiên, chẳng ai mong vận may như thế kéo dài mãi, và chẳng bao lâu sau, Hoàng hậu đã hạ sinh một nàng công chúa bé nhỏ đáng yêu, được đặt tên là Placida. |
Now the King, who thought that if she resembled her mother in face and mind she would need no other gift, never troubled to ask any of the Fairies to her christening, and this offended them mortally, so that they resolved to punish him severely for thus depriving them of their rights. | Đức vua nghĩ rằng, nếu công chúa giống mẹ cả về dung mạo lẫn tâm hồn thì đã là món quà quý giá nhất rồi, nên ngài chẳng bận tâm mời bất kỳ vị tiên nào đến dự lễ rửa tội của nàng. Điều này đã khiến các vị tiên vô cùng phật ý, và họ quyết định sẽ trừng phạt ngài thật nặng vì đã tước đi quyền lợi chính đáng của họ. |
So, to the despair of King Gridelin, the Queen first of all became very ill, and then disappeared altogether. | Thế là, trong nỗi tuyệt vọng của Vua Gridelin, Hoàng hậu bỗng lâm bệnh nặng, rồi đột ngột biến mất không một dấu vết. |
If it had not been for the little Princess there is no saying what would have become of him, he was so miserable, but there she was to be brought up, and luckily the good Fairy Lolotte, in spite of all that had passed, was willing to come and take charge of her, and of her little cousin Prince Vivien, who was an orphan and had been placed under the care of his uncle, King Gridelin, when he was quite a baby. | Nếu không vì còn có công chúa nhỏ, chẳng ai biết đức vua sẽ ra sao trong nỗi đau khôn xiết. Nhưng ngài còn phải nuôi nấng nàng, và may thay, bà tiên phúc hậu Lolotte, dù đã xảy ra chuyện không vui, vẫn bằng lòng đến để chăm lo cho nàng và cả người em họ, Hoàng tử Vivien. Vivien mồ côi từ nhỏ và được chú của mình là Vua Gridelin đón về chăm sóc từ khi còn ẵm trên tay. |
Although she neglected nothing that could possibly have been done for them, their characters, as they grew up, plainly proved that education only softens down natural defects, but cannot entirely do away with them; for Placida, who was perfectly lovely, and with a capacity and intelligence which enabled her to learn and understand anything that presented itself, was at the same time as lazy and indifferent as it is possible for anyone to be, while Vivien on the contrary was only too lively, and was for ever taking up some new thing and as promptly tiring of it, and flying off to something else which held his fickle fancy an equally short time. | Mặc dù bà tiên Lolotte đã dốc hết lòng dạy dỗ, nhưng khi lớn lên, tính cách của hai đứa trẻ đã cho thấy một điều rõ ràng: giáo dục chỉ có thể mài giũa những khiếm khuyết bẩm sinh, chứ không thể hoàn toàn xóa bỏ chúng. Placida, một nàng công chúa xinh đẹp tuyệt trần, thông minh xuất chúng, học gì hiểu nấy, nhưng đồng thời lại lười biếng và thờ ơ đến mức không ai sánh bằng. Trái lại, Vivien thì lại hiếu động quá mức, luôn hào hứng với những điều mới mẻ nhưng cũng nhanh chóng chán nản và lập tức chạy theo thứ khác hấp dẫn mình trong thoáng chốc rồi lại bỏ dở giữa chừng. |
As these two children would possibly inherit the kingdom, it was natural that their people should take a great interest in them, and it fell out that all the tranquil and peace-loving citizens desired that Placida should one day be their Queen, while the rash and quarrelsome hoped great things for Vivien. | Vì hai đứa trẻ này có khả năng sẽ kế thừa vương quốc, dân chúng tự nhiên rất quan tâm đến chúng. Và thế là trong vương quốc nảy sinh hai phe: những thần dân yêu chuộng hòa bình, an ổn thì mong muốn một ngày nào đó Placida sẽ trở thành Nữ hoàng, trong khi những kẻ nóng nảy, hiếu chiến lại đặt hy vọng lớn lao vào Vivien. |
Such a division of ideas seemed to promise civil wars and all kinds of troubles to the State, and even in the Palace the two parties frequently came into collision. | Sự chia rẽ này dường như báo trước những cuộc nội chiến và đủ mọi thứ rắc rối cho vương quốc. Ngay cả trong hoàng cung, hai phe cũng thường xuyên xung đột. |
As for the children themselves, though they were too well brought up to quarrel, still the difference in all their tastes and feelings made it impossible for them to like one another, so there seemed no chance of their ever consenting to be married, which was a pity, since that was the only thing that would have satisfied both parties. | Về phần hai đứa trẻ, dù được dạy dỗ chu đáo để không gây gổ, nhưng sự khác biệt trong mọi sở thích và suy nghĩ khiến chúng chẳng thể nào quý mến nhau. Dường như chẳng có cơ hội nào để chúng đồng ý kết hôn, mà đó lại là điều duy nhất có thể làm hài lòng cả hai phe. |
Prince Vivien was fully aware of the feeling in his favour, but being too honourable to wish to injure his pretty cousin, and perhaps too impatient and volatile to care to think seriously about anything, he suddenly took it into his head that he would go off by himself in search of adventure. | Hoàng tử Vivien nhận thức rõ sự ủng hộ dành cho mình, nhưng bản tính quá cao thượng không cho phép chàng làm tổn thương người em họ xinh đẹp, và có lẽ cũng vì quá bồn chồn, bay nhảy nên chàng chẳng bận tâm suy nghĩ nghiêm túc về bất cứ điều gì. Bỗng một ngày, chàng nảy ra ý định sẽ một mình lên đường tìm kiếm những cuộc phiêu lưu. |
Luckily this idea occurred to him when he was on horseback, for he would certainly have set out on foot rather than lose an instant. | May mắn thay, ý nghĩ này đến khi chàng đang ngồi trên lưng ngựa, bởi nếu không, chàng chắc chắn đã cuốc bộ lên đường chứ không thể trì hoãn dù chỉ một giây. |
As it was, he simply turned his horse’s head, without another thought than that of getting out of the kingdom as soon as possible. | Ngay lập tức, chàng quay đầu ngựa, trong đầu không có suy nghĩ nào khác ngoài việc phải rời khỏi vương quốc càng nhanh càng tốt. |
This abrupt departure was a great blow to the State, especially as no one had any idea what had become of the Prince. | Sự ra đi đột ngột này là một cú sốc lớn đối với vương quốc, đặc biệt là khi không ai biết tung tích của Hoàng tử. |
Even King Gridelin, who had never cared for anything since the disappearance of Queen Santorina, was roused by this new loss, and though he could not so much as look at the Princess Placida without shedding floods of tears, he resolved to see for himself what talents and capabilities she showed. | Ngay cả Vua Gridelin, người đã chẳng còn màng đến điều gì kể từ khi Hoàng hậu Santorina biến mất, cũng bị lay động bởi mất mát mới này. Dù rằng chỉ cần nhìn Công chúa Placida là ngài lại tuôn trào nước mắt, ngài vẫn quyết định tự mình xem xét tài năng và phẩm chất của nàng. |
He very soon found out that in addition to her natural indolence, she was being as much indulged and spoilt day by day as if the Fairy had been her grandmother, and was obliged to remonstrate very seriously upon the subject. | Ngài sớm nhận ra rằng, ngoài sự lười biếng bẩm sinh, công chúa ngày càng được bà tiên nuông chiều và làm hư như thể bà là bà ngoại của nàng vậy. Đức vua buộc phải góp ý nghiêm khắc về chuyện này. |
Lolotte took his reproaches meekly, and promised faithfully that she would not encourage the Princess in her idleness and indifference any more. | Tiên Lolotte khiêm tốn nhận lỗi và hứa chắc rằng sẽ không dung túng cho sự lười biếng và thờ ơ của công chúa nữa. |
From this moment poor Placida’s troubles began! | Từ lúc này, chuỗi ngày phiền muộn của nàng Placida tội nghiệp bắt đầu! |
She was actually expected to choose her own dresses, to take care of her jewels, and to find her own amusements; but rather than take so much trouble she wore the same old frock from morning till night, and never appeared in public if she could possibly avoid it. | Nàng thực sự bị yêu cầu phải tự chọn xiêm y, tự quản lý trang sức và tự tìm thú vui cho mình. Nhưng thay vì chịu phiền phức như vậy, nàng mặc đi mặc lại một bộ váy cũ từ sáng đến tối, và không bao giờ xuất hiện trước công chúng nếu có thể tránh được. |
However, this was not all, King Gridelin insisted that the affairs of the kingdom should be explained to her, and that she should attend all the councils and give her opinion upon the matter in hand whenever it was asked of her, and this made her life such a burden to her that she implored Lolotte to take her away from a country where too much was required of an unhappy Princess. | Nhưng đó chưa phải là tất cả. Vua Gridelin còn khăng khăng rằng nàng phải tìm hiểu việc triều chính, tham dự mọi buổi thiết triều và đưa ra ý kiến bất cứ khi nào được hỏi. Điều này khiến cuộc sống của nàng trở thành một gánh nặng đến nỗi nàng phải van nài tiên Lolotte đưa mình đi khỏi một đất nước mà ở đó người ta đòi hỏi quá nhiều ở một nàng công chúa bất hạnh. |
The Fairy refused at first with a great show of firmness, but who could resist the tears and entreaties of anyone so pretty as Placida? | Bà tiên từ chối lúc đầu với vẻ rất kiên quyết, nhưng ai có thể cưỡng lại được những giọt nước mắt và lời cầu xin của một người xinh đẹp như Placida? |
It came to this in the end, that she transported the Princess just as she was, cosily tucked up upon her favourite couch, to her own Grotto, and this new disappearance left all the people in despair, and Gridelin went about looking more distracted than ever. | Cuối cùng, bà đã đưa công chúa đi ngay lập tức, khi nàng vẫn đang cuộn mình thoải mái trên chiếc trường kỷ yêu thích, đến thẳng hang động của mình. Sự biến mất mới này khiến toàn dân tuyệt vọng, còn Vua Gridelin thì trông càng lúc càng quẫn trí hơn bao giờ hết. |
But now let us return to Prince Vivien, and see what his restless spirit has brought him to. | Nhưng giờ, chúng ta hãy quay lại với Hoàng tử Vivien để xem tính khí hiếu động không yên của chàng đã đưa chàng đến đâu. |
Though Placida’s kingdom was a large one; his horse had carried him gallantly to the limit of it, but it could go no further, and the Prince was obliged to dismount and continue his journey on foot, though this slow mode of progress tired his patience severely. | Dù vương quốc của Placida rất rộng lớn, con ngựa của chàng đã anh dũng đưa chàng đến tận biên giới, nhưng nó không thể đi xa hơn được nữa. Hoàng tử đành phải xuống ngựa và tiếp tục hành trình bằng đôi chân, dù cách di chuyển chậm chạp này thử thách nghiêm trọng sự kiên nhẫn của chàng. |
After what seemed to him a very long time, he found himself all alone in a vast forest, so dark and gloomy that he secretly shuddered; however, he chose the most promising looking path he could find, and marched along it courageously at his best speed, but in spite of all his efforts, night fell before he reached the edge of the wood. | Sau một khoảng thời gian dài dằng dặc, chàng thấy mình đơn độc giữa một khu rừng bao la, âm u và tăm tối đến nỗi chàng phải thầm rùng mình. Tuy nhiên, chàng chọn con đường trông có vẻ hứa hẹn nhất và dũng cảm rảo bước thật nhanh. Nhưng dù đã cố gắng hết sức, màn đêm vẫn buông xuống trước khi chàng ra khỏi được bìa rừng. |
For some time he stumbled along, keeping to the path as well as he could in the darkness, and just as he was almost wearied out he saw before him a gleam of light. | Chàng loạng choạng bước đi trong bóng tối, cố gắng bám theo lối mòn. Khi đã gần như kiệt sức, chàng chợt thấy một ánh đèn le lói phía trước. |
This sight revived his drooping spirits, and he made sure that he was now close to the shelter and supper he needed so much, but the more he walked towards the light the further away it seemed; sometimes he even lost sight of it altogether, and you may imagine how provoked and impatient he was by the time he finally arrived at the miserable cottage from which the light proceeded. | Cảnh tượng này đã vực dậy tinh thần rệu rã của chàng, và chàng tin chắc mình đã đến rất gần nơi trú chân và bữa tối mà chàng đang vô cùng khao khát. Nhưng lạ thay, chàng càng đi về phía ánh sáng thì nó dường như càng lùi xa; đôi khi nó còn biến mất hoàn toàn. Bạn có thể tưởng tượng chàng đã bực bội và mất kiên nhẫn đến thế nào khi cuối cùng cũng đến được túp lều tồi tàn, nơi phát ra ánh sáng ấy. |
He gave a loud knock at the door, and an old woman’s voice answered from within, but as she did not seem to be hurrying herself to open it he redoubled his blows, and demanded to be let in imperiously, quite forgetting that he was no longer in his own kingdom. | Chàng đập cửa thật mạnh, và một giọng nói già nua từ bên trong vọng ra. Nhưng vì thấy bà lão có vẻ chẳng vội vã gì mở cửa, chàng lại càng đập mạnh hơn, và hống hách đòi vào, quên bẵng rằng mình không còn ở trong vương quốc của mình nữa. |
But all this had no effect upon the old woman, who only noticed all the uproar he was making by saying gently: ‘You must have patience.’ | Nhưng tất cả những điều đó chẳng hề ảnh hưởng đến bà lão, bà chỉ đáp lại sự ồn ào của chàng bằng một câu nói nhẹ nhàng: “Phải có kiên nhẫn chứ.” |
He could hear that she really was coming to open the door to him, only she was so very long about it. | Chàng nghe thấy bà đang thực sự tiến ra mở cửa, chỉ là bà làm mọi thứ rất lâu. |
First she chased away her cat, lest it should run away when the door was opened, then he heard her talking to herself and made out that her lamp wanted trimming, that she might see better who it was that knocked, and then that it lacked fresh oil, and she must refill it. | Đầu tiên, bà đuổi con mèo đi, sợ nó sẽ chạy mất khi cửa mở. Rồi chàng nghe bà lẩm bẩm một mình, nhận ra rằng cây đèn của bà cần được cắt bấc để nhìn rõ hơn xem ai đang gõ cửa. Sau đó lại đến lượt nó hết dầu, và bà phải đi châm thêm. |
So what with one thing and another she was an immense time trotting to and fro, and all the while she now and again bade the Prince have patience. | Cứ thế, bà tất bật đi đi lại lại mất một khoảng thời gian rất lâu, và thỉnh thoảng lại nhắc hoàng tử phải kiên nhẫn. |
When at last he stood within the little hut he saw with despair that it was a picture of poverty, and that not a crumb of anything eatable was to be seen, and when he explained to the old woman that he was dying of hunger and fatigue she only answered tranquilly that he must have patience. | Khi cuối cùng được bước vào trong túp lều nhỏ, chàng thất vọng nhìn quanh: đó là một bức tranh của sự nghèo đói, chẳng có một mẩu đồ ăn nào. Khi chàng giải thích với bà lão rằng mình đang chết dần vì đói và mệt, bà chỉ bình thản đáp lại rằng chàng phải kiên nhẫn. |
However, she presently showed him a bundle of straw on which he could sleep. | Tuy nhiên, sau đó bà chỉ cho chàng một đống rơm để ngủ. |
‘But what can I have to eat?’ cried Prince Vivien sharply. | “Nhưng cháu có gì để ăn không ạ?” Hoàng tử Vivien gắt gỏng. |
‘Wait a little, wait a little,’ she replied. ‘If you will only have patience I am just going out into the garden to gather some peas: we will shell them at our leisure, then I will light a fire and cook them, and when they are thoroughly done, we can enjoy them peaceably; there is no hurry.’ | “Chờ một chút, chờ một chút,” bà đáp. “Nếu cậu chịu kiên nhẫn, ta sẽ ra vườn hái ít hạt đậu. Chúng ta sẽ thong thả ngồi tách vỏ, rồi ta sẽ nhóm lửa nấu chúng. Khi nào đậu chín nhừ, chúng ta có thể yên bình thưởng thức. Chẳng có gì phải vội cả.” |
‘I shall have died of starvation by the time all that is done,’ said the Prince ruefully. | “Đến lúc đó thì ta chết đói mất rồi!” Hoàng tử thiểu não nói. |
‘Patience, patience,’ said the old woman looking at him with her slow gentle smile, ‘I can’t be hurried. “All things come at last to him who waits;” you must have heard that often.’ | “Kiên nhẫn, kiên nhẫn,” bà lão nói, nhìn chàng với nụ cười hiền từ, chậm rãi. “Ta không vội được đâu. ‘Mọi thứ rồi sẽ đến với người biết chờ đợi;’ chắc cậu đã nghe câu này nhiều rồi.” |
Prince Vivien was wild with aggravation, but there was nothing to be done. | Hoàng tử Vivien tức điên lên, nhưng chẳng thể làm gì được. |
‘Come then,’ said the old woman, ‘you shall hold the lamp to light me while I pick the peas.’ | “Nào,” bà lão nói, “cậu hãy cầm đèn soi cho ta hái đậu.” |
The Prince in his haste snatched it up so quickly that it went out, and it took him a long time to light it again with two little bits of glowing charcoal which he had to dig out from the pile of ashes upon the hearth. | Hoàng tử vội vàng chộp lấy chiếc đèn nhanh đến nỗi làm nó phụt tắt, và chàng phải mất một lúc lâu mới nhóm lại được lửa từ hai hòn than hồng nhỏ mà chàng phải bới trong đống tro trên bếp. |
However, at last the peas were gathered and shelled, and the fire lighted, but then they had to be carefully counted, since the old woman declared that she would cook fifty-four, and no more. | Cuối cùng, đậu cũng được hái và tách vỏ xong, lửa cũng được nhóm lên. Nhưng rồi chúng lại phải được đếm một cách cẩn thận, vì bà lão tuyên bố bà sẽ chỉ nấu đúng năm mươi tư hạt, không hơn không kém. |
In vain did the Prince represent to her that he was famished—that fifty-four peas would go no way towards satisfying his hunger—that a few peas, more or less, surely could not matter. | Hoàng tử van nài trong vô vọng rằng chàng đang đói lả, rằng năm mươi tư hạt đậu chẳng thấm vào đâu so với cơn đói của chàng, rằng thêm bớt vài hạt thì có hề gì. |
It was quite useless, in the end he had to count out the fifty-four, and worse than that, because he dropped one or two in his hurry, he had to begin again from the very first, to be sure the number was complete. | Nhưng tất cả đều vô ích. Cuối cùng, chàng phải đếm ra năm mươi tư hạt, và tệ hơn nữa, vì quá vội vàng làm rơi mất một hai hạt, chàng lại phải đếm lại từ đầu để chắc chắn đủ số lượng. |
As soon as they were cooked the old dame took a pair of scales and a morsel of bread from the cupboard, and was just about to divide it when Prince Vivien, who really could wait no longer, seized the whole piece and ate it up, saying in his turn, ‘Patience.’ | Ngay khi đậu vừa chín, bà lão lấy ra một cái cân và một mẩu bánh mì từ trong tủ, và đang chuẩn bị chia nó ra thì Hoàng tử Vivien, người thực sự không thể chờ đợi thêm được nữa, tóm lấy cả mẩu bánh và ăn ngấu nghiến, rồi đến lượt mình nói, “Kiên nhẫn.” |
‘You mean that for a joke,’ said the old woman, as gently as ever, ‘but that is really my name, and some day you will know more about me.’ | “Cậu định đùa đấy à,” bà lão nói, vẫn dịu dàng như trước, “nhưng đó chính là tên của ta đấy, và một ngày nào đó cậu sẽ hiểu rõ hơn về ta.” |
Then they each ate their twenty-seven peas, and the Prince was surprised to find that he wanted nothing more, and he slept as sweetly upon his bed of straw as he had ever done in his palace. | Sau đó, mỗi người ăn hai mươi bảy hạt đậu của mình, và Hoàng tử ngạc nhiên thấy rằng mình không còn muốn ăn thêm gì nữa. Chàng ngủ một giấc ngon lành trên đống rơm, say sưa như chưa từng được ngủ trong cung điện của mình. |
In the morning the old woman gave him milk and bread for his breakfast, which he ate contentedly, rejoicing that there was nothing to be gathered, or counted, or cooked, and when he had finished he begged her to tell him who she was. | Buổi sáng, bà lão cho chàng sữa và bánh mì cho bữa sáng, chàng ăn một cách hài lòng, mừng rỡ vì không phải hái, hay đếm, hay nấu nướng gì cả. Khi ăn xong, chàng nhờ bà cho biết bà là ai. |
‘That I will, with pleasure,’ she replied. ‘But it will be a long story.’ | “Được chứ, ta rất sẵn lòng,” bà đáp. “Nhưng đó sẽ là một câu chuyện dài.” |
‘Oh! if it’s long, I can’t listen,’ cried the Prince. ‘But,’ said she, ‘at your age, you should attend to what old people say, and learn to have patience.’ | “Ôi! Nếu dài thì cháu không nghe đâu ạ,” Hoàng tử kêu lên. “Nhưng,” bà nói, “ở tuổi của cậu, cậu nên lắng nghe lời người già nói, và học cách kiên nhẫn.” |
‘But, but,’ said the Prince, in his most impatient tone, ‘old people should not be so long-winded! Tell me what country I have got into, and nothing else.’ | “Nhưng, nhưng,” Hoàng tử nói với giọng mất kiên nhẫn nhất, “người già thì không nên dài dòng! Xin bà chỉ cần cho cháu biết cháu đang ở xứ nào thôi.” |
‘With all my heart,’ said she. ‘You are in the Forest of the Black Bird; it is here that he utters his oracles.’ | “Rất sẵn lòng,” bà nói. “Cậu đang ở trong Khu Rừng của Hắc Điểu; đây là nơi Người ban lời sấm truyền.” |
‘An Oracle,’ cried the Prince. ‘Oh! I must go and consult him.’ | “Sấm truyền ư!” Hoàng tử reo lên. “Ồ! Ta phải đến tham vấn Người mới được.” |
Thereupon he drew a handful of gold from his pocket, and offered it to the old woman, and when she would not take it, he threw it down upon the table and was off like a flash of lightning, without even staying to ask the way. | Nói rồi, chàng rút một vốc vàng từ trong túi ra đưa cho bà lão, và khi bà không nhận, chàng ném nó lên bàn rồi biến mất nhanh như chớp, thậm chí còn không kịp hỏi đường. |
He took the first path that presented itself and followed it at the top of his speed, often losing his way, or stumbling over some stone, or running up against a tree, and leaving behind him without regret the cottage which had been as little to his taste as the character of its possessor. | Chàng chọn ngay lối mòn đầu tiên hiện ra trước mắt và đi theo với tốc độ nhanh nhất có thể, thường xuyên bị lạc đường, vấp phải đá, hay đâm sầm vào cây. Chàng bỏ lại sau lưng mà không hề tiếc nuối túp lều chẳng hợp với sở thích của mình, cũng như tính cách của người chủ nơi ấy. |
After some time he saw in the distance a huge black castle which commanded a view of the whole forest. | Sau một lúc, chàng thấy ở phía xa một tòa lâu đài đen kịt khổng lồ, sừng sững nhìn bao quát cả khu rừng. |
The Prince felt certain that this must be the abode of the Oracle, and just as the sun was setting he reached its outermost gates. | Hoàng tử tin chắc đó hẳn là nơi ở của Vị Thần Truyền Sấm, và khi mặt trời vừa lặn, chàng đã đến được cánh cổng ngoài cùng. |
The whole castle was surrounded by a deep moat, and the drawbridge and the gates, and even the water in the moat, were all of the same sombre hue as the walls and towers. | Toàn bộ lâu đài được bao quanh bởi một con hào sâu, và cây cầu kéo, những cánh cổng, ngay cả dòng nước trong hào, tất cả đều mang một màu sắc u ám hệt như những bức tường và ngọn tháp. |
Upon the gate hung a huge bell, upon which was written in red letters: ‘Mortal, if thou art curious to know thy fate, strike this bell, and submit to what shall befall thee.’ | Trên cổng treo một quả chuông khổng lồ, trên đó khắc những chữ màu đỏ: “Hỡi kẻ hữu sinh, nếu hiếu kỳ muốn biết vận mệnh của mình, hãy gióng lên hồi chuông này và chấp nhận những gì sẽ đến.” |
The Prince, without the smallest hesitation, snatched up a great stone, and hammered vigorously upon the bell, which gave forth a deep and terrible sound, the gate flew open, and closed again with a thundering clang the moment the Prince had passed through it, while from every tower and battlement rose a wheeling, screaming crowd of bats which darkened the whole sky with their multitudes. | Hoàng tử không một chút do dự, chộp lấy một tảng đá lớn và dùng hết sức nện vào quả chuông. Nó phát ra một âm thanh trầm và ghê rợn, cánh cổng bay mở ra, rồi đóng sầm lại một tiếng vang trời ngay khi Hoàng tử vừa bước qua. Cùng lúc đó, từ mọi tháp canh và thành lũy, cả một bầy dơi khổng lồ, kêu gào réo rắt, túa ra, đông nghịt đến nỗi làm tối sầm cả bầu trời. |
Anyone but Prince Vivien would have been terrified by such an uncanny sight, but he strode stoutly forward till he reached the second gate, which was opened to him by sixty black slaves covered from head to foot in long mantles. | Bất kỳ ai khác ngoài Hoàng tử Vivien hẳn đã khiếp sợ trước cảnh tượng kỳ quái này, nhưng chàng vẫn vững bước tiến tới cho đến khi đến được cánh cổng thứ hai. Mở cổng cho chàng là sáu mươi nô lệ khoác áo choàng đen từ đầu đến chân. |
He wished to speak to them, but soon discovered that they spoke an utterly unknown language, and did not seem to understand a word he said. | Chàng muốn nói chuyện với họ, nhưng sớm nhận ra rằng họ nói một thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ và dường như chẳng hiểu một lời nào chàng nói. |
This was a great aggravation to the Prince, who was not accustomed to keep his ideas to himself, and he positively found himself wishing for his old friend Patience. | Điều này làm Hoàng tử vô cùng bực bội, vì chàng vốn không quen giữ kín những suy nghĩ của mình. Chàng thấy mình thực sự ước ao có được người bạn cũ, nàng Kiên Nhẫn, ở bên cạnh. |
However, he had to follow his guides in silence, and they led him into a magnificent hall; the floor was of ebony, the walls of jet, and all the hangings were of black velvet, but the Prince looked round it in vain for something to eat, and then made signs that he was hungry. | Dù vậy, chàng vẫn phải lặng lẽ đi theo những người dẫn đường. Họ đưa chàng vào một sảnh đường lộng lẫy; sàn nhà bằng gỗ mun, tường bằng đá huyền, và mọi tấm rèm đều bằng nhung đen. Hoàng tử đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm thứ gì đó để ăn nhưng vô vọng, bèn làm hiệu rằng mình đang đói. |
In the same manner he was respectfully given to understand that he must wait, and after several hours the sixty hooded and shrouded figures re-appeared, and conducted him with great ceremony, and also very very slowly, to a banqueting hall, where they all placed themselves at a long table. | Bằng những cử chỉ tương tự, người ta kính cẩn cho chàng biết rằng chàng phải đợi. Vài giờ sau, sáu mươi hình nhân mặc áo choàng che kín mặt lại xuất hiện, và với nghi thức trang trọng—cũng như cực kỳ, cực kỳ chậm rãi—họ đưa chàng đến một phòng tiệc, nơi tất cả cùng ngồi vào một chiếc bàn dài. |
The dishes were arranged down the centre of it, and with his usual impetuosity the Prince seized the one that stood in front of him to draw it nearer, but soon found that it was firmly fixed in its place. | Các món ăn được bày dọc giữa bàn. Với sự nóng vội thường thấy, Hoàng tử chộp lấy đĩa thức ăn trước mặt mình để kéo lại gần, nhưng sớm nhận ra nó đã được gắn chặt vào bàn. |
Then he looked at his solemn and lugubrious neighbours, and saw that each one was supplied with a long hollow reed through which he slowly sucked up his portion, and the Prince was obliged to do the same, though he found it a frightfully tedious process. | Rồi chàng nhìn những người bạn láng giềng trang nghiêm, sầu thảm của mình và thấy rằng mỗi người đều được trang bị một chiếc ống sậy dài và rỗng, qua đó họ từ từ hút phần thức ăn của mình. Hoàng tử buộc phải làm theo, dù chàng thấy đó là một quy trình cực kỳ tẻ nhạt. |
After supper, they returned as they had come to the ebony room, where he was compelled to look on while his companions played interminable games of chess, and not until he was nearly dying of weariness did they, slowly and ceremoniously as before, conduct him to his sleeping apartment. | Sau bữa tối, họ trở lại phòng gỗ mun như lúc đến. Tại đây, chàng bị buộc phải ngồi nhìn những người bạn đồng hành của mình chơi những ván cờ vua kéo dài vô tận. Và mãi cho đến khi chàng gần như chết lả vì mệt mỏi, họ mới lại từ tốn và trang trọng như trước, đưa chàng về phòng ngủ. |
The hope of consulting the Oracle woke him very early the next morning, and his first demand was to be allowed to present himself before it, but, without replying, his attendants conducted him to a huge marble bath, very shallow at one end, and quite deep at the other, and gave him to understand that he was to go into it. | Hy vọng được tham vấn Thần Truyền Sấm đã đánh thức chàng dậy từ rất sớm sáng hôm sau. Yêu cầu đầu tiên của chàng là được phép diện kiến Người, nhưng không một lời đáp, những người hầu cận lại đưa chàng đến một bể tắm bằng đá cẩm thạch khổng lồ, một đầu rất cạn, còn đầu kia thì khá sâu, rồi ra hiệu cho chàng bước vào. |
The Prince, nothing loth, was for springing at once into deep water, but he was gently but forcibly held back and only allowed to stand where it was about an inch deep, and he was nearly wild with impatience when he found that this process was to be repeated every day in spite of all he could say or do, the water rising higher and higher by inches, so that for sixty days he had to live in perpetual silence, ceremoniously conducted to and fro, supping all his meals through the long reed, and looking on at innumerable games of chess, the game of all others which he detested most. | Hoàng tử chẳng chút ngần ngại, định nhảy ngay xuống chỗ nước sâu, nhưng chàng bị nhẹ nhàng mà cương quyết giữ lại và chỉ được phép đứng ở chỗ nước sâu chừng một inch. Chàng gần như phát điên vì mất kiên nhẫn khi biết rằng quy trình này sẽ được lặp lại mỗi ngày, dù chàng có nói hay làm gì đi chăng nữa, nước sẽ dâng cao hơn từng inch một. Thế là trong sáu mươi ngày, chàng phải sống trong sự im lặng triền miên, được hộ tống đi đi lại lại một cách trang trọng, dùng bữa tối qua chiếc ống sậy dài, và ngồi xem vô số ván cờ vua – trò mà chàng ghét nhất trên đời. |
But at last the water rose as high as his chin, and his bath was complete. | Cuối cùng, nước cũng dâng cao đến cằm chàng, và nghi thức tắm của chàng đã hoàn tất. |
And that day the slaves in their black robes, and each having a large bat perched upon his head, marched in slow procession with the Prince in their midst, chanting a melancholy song, to the iron gate that led into a kind of Temple. | Vào ngày hôm đó, các nô lệ trong trang phục đen, mỗi người có một con dơi lớn đậu trên đầu, diễu hành chậm rãi với Hoàng tử ở giữa, hát một bài ca ai oán, tiến đến cánh cổng sắt dẫn vào một nơi giống như một ngôi đền. |
At the sound of their chanting, another band of slaves appeared, and took possession of the unhappy Vivien. | Khi nghe thấy tiếng hát của họ, một toán nô lệ khác xuất hiện và tiếp quản chàng Vivien bất hạnh. |
They looked to him exactly like the ones he had left, except that they moved more slowly still, and each one held a raven upon his wrist, and their harsh croakings re-echoed through the dismal place. | Với chàng, họ trông giống hệt những người chàng vừa rời đi, chỉ có điều họ di chuyển còn chậm hơn, và mỗi người đều giữ một con quạ trên cổ tay. Tiếng quạ kêu khàn khàn của chúng vang vọng khắp nơi chốn ảm đạm. |
Holding the Prince by the arms, not so much to do him honour as to restrain his impatience, they proceeded by slow degrees up the steps of the Temple, and when they at last reached the top he thought his long waiting must be at an end. | Họ giữ chặt hai tay Hoàng tử, không hẳn là để tỏ lòng tôn kính mà là để kiềm chế sự thiếu kiên nhẫn của chàng, rồi từ từ từng bước tiến lên các bậc thềm của ngôi đền. Khi cuối cùng họ lên đến đỉnh, chàng nghĩ rằng sự chờ đợi mòn mỏi của mình sắp kết thúc. |
But on the contrary, after slowly enshrouding him in a long black robe like their own, they led him into the Temple itself, where he was forced to witness numbers of lengthy rites and ceremonies. | Nhưng ngược lại, sau khi chậm rãi khoác cho chàng một chiếc áo choàng đen dài giống như của họ, họ dẫn chàng vào chính ngôi đền, nơi chàng bị buộc phải chứng kiến vô số nghi lễ và nghi thức dài dòng. |
By this time Vivien’s active impatience had subsided into passive weariness, his yawns were continual and scandalous, but nobody heeded him, he stared hopelessly at the thick black curtain which hung down straight in front of him, and could hardly believe his eyes when it presently began to slide back, and he saw before him the Black Bird. | Đến lúc này, sự sốt ruột hiếu động của Vivien đã lắng xuống thành nỗi mệt mỏi thụ động. Chàng ngáp liên tục và trông thật khiếm nhã, nhưng chẳng ai thèm để ý. Chàng tuyệt vọng nhìn chằm chằm vào tấm rèm đen dày đang buông thẳng trước mặt và gần như không tin vào mắt mình khi nó từ từ kéo sang hai bên, để lộ ra Hắc Điểu. |
It was of enormous size, and was perched upon a thick bar of iron which ran across from one side of the Temple to the other. | Con chim có kích thước khổng lồ, đậu trên một thanh sắt dày vắt ngang từ bên này sang bên kia ngôi đền. |
At the sight of it all the slaves fell upon their knees and hid their faces, and when it had three times flapped its mighty wings it uttered distinctly in Prince Vivien’s own language the words: ‘Prince, your only chance of happiness depends upon that which is most opposed to your own nature.’ | Trước cảnh tượng đó, tất cả nô lệ đều quỳ xuống và úp mặt. Khi Hắc Điểu vỗ đôi cánh uy nghi ba lần, nó cất tiếng, rõ ràng bằng chính ngôn ngữ của Hoàng tử Vivien, phán những lời này: “Hoàng tử, cơ hội duy nhất để có được hạnh phúc của ngươi phụ thuộc vào thứ đối nghịch nhất với bản tính của ngươi.” |
Then the curtain fell before it once more, and the Prince, after many ceremonies, was presented with a raven which perched upon his wrist, and was conducted slowly back to the iron gate. | Rồi tấm rèm lại buông xuống trước mặt nó. Hoàng tử, sau nhiều nghi lễ, được tặng một con quạ đậu trên cổ tay chàng, và được dẫn từ từ trở lại cổng sắt. |
Here the raven left him and he was handed over once more to the care of the first band of slaves, while a large bat flickered down and settled upon his head of its own accord, and so he was taken back to the marble bath, and had to go through the whole process again, only this time he began in deep water which receded daily inch by inch. | Tại đây, con quạ rời khỏi chàng và chàng được trao lại cho sự chăm sóc của toán nô lệ đầu tiên. Một con dơi lớn bay lượn xuống và tự đậu lên đầu chàng. Cứ thế, chàng bị đưa trở lại bồn tắm cẩm thạch và phải trải qua toàn bộ quá trình một lần nữa, chỉ khác là lần này chàng bắt đầu ở chỗ nước sâu, và nước rút đi từng inch mỗi ngày. |
When this was over the slaves escorted him to the outer gate, and took leave of him with every mark of esteem and politeness, to which it is to be feared he responded but indifferently, since the gate was no sooner opened than he took to his heels, and fled away with all his might, his one idea being to put as much space as possible between himself and the dreary place into which he had ventured so rashly, just to consult a tedious Oracle who after all had told him nothing. | Khi mọi việc kết thúc, các nô lệ hộ tống chàng đến cổng ngoài, và chia tay chàng với mọi cử chỉ tôn kính và lịch sự, mà e rằng chàng chẳng đáp lại một cách tương xứng cho lắm. Bởi lẽ, cánh cổng vừa mở ra, chàng đã co cẳng bỏ chạy, chạy hết tốc lực. Ý nghĩ duy nhất trong đầu chàng lúc này là phải tạo ra một khoảng cách càng xa càng tốt giữa mình và cái nơi u ám mà chàng đã liều lĩnh dấn thân vào, chỉ để tham vấn một Vị Thần Truyền Sấm tẻ nhạt, người cuối cùng chẳng nói cho chàng biết điều gì cả. |
He actually reflected for about five seconds on his folly, and came to the conclusion that it might sometimes be advisable to think before one acted. | Chàng thực sự suy ngẫm về sự ngu ngốc của mình trong khoảng năm giây và đi đến kết luận rằng, đôi khi, suy nghĩ trước khi hành động có lẽ cũng là điều nên làm. |
After wandering about for several days until he was weary and hungry, he at last succeeded in finding a way out of the forest, and soon came to a wide and rapid river, which he followed, hoping to find some means of crossing it, and it happened that as the sun rose the next morning he saw something of a dazzling whiteness moored out in the middle of the stream. | Sau nhiều ngày lang thang đến mệt lả và đói khát, cuối cùng chàng cũng tìm được lối ra khỏi khu rừng, và chẳng bao lâu thì đến một con sông rộng và chảy xiết. Chàng đi dọc theo bờ sông, hy vọng tìm được phương tiện nào đó để qua bờ. Rồi một buổi sáng khi mặt trời mọc, chàng thấy một vật gì đó trắng toát rực rỡ đang neo đậu giữa dòng. |
Upon looking more attentively at it he found that it was one of the prettiest little ships he had ever seen, and the boat that belonged to it was made fast to the bank quite close to him. | Nhìn kỹ hơn, chàng nhận ra đó là một trong những con tàu nhỏ xinh xắn nhất mà chàng từng thấy, và chiếc thuyền nhỏ của nó đang buộc vào bờ, ngay gần chỗ chàng đứng. |
The Prince was immediately seized with the most ardent desire to go on board the ship, and shouted loudly to attract the notice of her crew, but no one answered. | Hoàng tử lập tức nảy sinh một khát khao mãnh liệt được lên con tàu, và chàng hét lớn để thu hút sự chú ý của thủy thủ đoàn, nhưng không một ai trả lời. |
So he sprang into the little boat and rowed away without finding it at all hard work, for the boat was made all of white paper and was as light as a rose leaf. | Vậy là chàng nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ và tự mình chèo đi. Việc đó chẳng hề khó khăn, vì chiếc thuyền được làm hoàn toàn bằng giấy trắng và nhẹ như một cánh hồng. |
The ship was made of white paper too, as the Prince presently discovered when he reached it. | Con tàu lớn cũng được làm bằng giấy trắng, như Hoàng tử nhận ra khi đến gần. |
He found not a soul on board, but there was a very cosy little bed in the cabin, and an ample supply of all sorts of good things to eat and drink, which he made up his mind to enjoy until something new happened. | Chàng không tìm thấy một bóng người nào trên tàu, nhưng trong khoang có một chiếc giường nhỏ rất ấm cúng và nguồn cung cấp dồi dào đủ loại thức ăn và đồ uống ngon lành. Chàng quyết định sẽ tận hưởng chúng cho đến khi có chuyện mới xảy ra. |
Having been thoroughly well brought up at the court of King Gridelin, of course he understood the art of navigation, but when once he had started, the current carried the vessel down at such a pace that before he knew where he was the Prince found himself out at sea, and a wind springing up behind him just at this moment soon drove him out of sight of land. | Được dạy dỗ cẩn thận tại triều đình Vua Gridelin, tất nhiên chàng thông thạo nghệ thuật đi biển. Nhưng một khi con tàu đã khởi hành, dòng nước đã cuốn nó đi với tốc độ nhanh đến nỗi, trước khi Hoàng tử kịp nhận ra mình đang ở đâu, chàng đã thấy mình ra đến biển khơi. Và đúng lúc này, một cơn gió nổi lên từ phía sau đã nhanh chóng đẩy chàng ra xa khỏi đất liền. |
By this time he was somewhat alarmed, and did his best to put the ship about and get back to the river, but wind and tide were too strong for him, and he began to think of the number of times, from his childhood up, that he had been warned not to meddle with water. | Lúc này, chàng đã có chút lo lắng và cố hết sức xoay tàu lại để trở về dòng sông, nhưng gió và thủy triều quá mạnh. Chàng bắt đầu nghĩ đến vô số lần, từ thuở nhỏ, chàng đã được cảnh báo không nên nghịch nước. |
But it was too late now to do anything but wish vainly that he had stayed on shore, and to grow heartily weary of the boat and the sea and everything connected with it. | Nhưng giờ đây đã quá muộn để làm gì khác ngoài việc vô ích ước ao rằng mình đã ở lại trên bờ, và cảm thấy vô cùng chán ngán con tàu, biển cả và mọi thứ liên quan đến nó. |
These two things, however, he did most thoroughly. | Và quả thật, chàng đã làm hai việc đó một cách triệt để. |
To put the finishing touch to his misfortunes he presently found himself becalmed in mid-ocean, a state of affairs which would be considered trying by the most patient of men, so you may imagine how it affected Prince Vivien! | Như giọt nước tràn ly cho những bất hạnh của chàng, con tàu bỗng dưng lặng gió giữa đại dương—một tình cảnh mà ngay cả những người kiên nhẫn nhất cũng thấy khó chịu, nên bạn có thể tưởng tượng nó đã ảnh hưởng đến Hoàng tử Vivien như thế nào! |
He even came to wishing himself back at the Castle of the Black Bird, for there at least he saw some living beings, whereas on board the white-paper ship he was absolutely alone, and could not imagine how he was ever to get away from his wearisome prison. | Chàng thậm chí còn ước mình được trở lại Lâu đài của Hắc Điểu, vì ít ra ở đó chàng còn thấy được những sinh vật sống. Còn trên con tàu giấy trắng này, chàng hoàn toàn đơn độc, và không thể tưởng tượng làm cách nào để thoát khỏi nhà tù tẻ nhạt này. |
However, after a very long time, he did see land, and his impatience to be on shore was so great that he at once flung himself over the ship’s side that he might reach it sooner by swimming. | Tuy nhiên, sau một thời gian rất dài, chàng cũng nhìn thấy đất liền. Lòng mong mỏi được lên bờ của chàng lớn đến mức chàng lập tức nhảy khỏi mạn tàu để có thể đến đó sớm hơn bằng cách bơi. |
But this was quite useless, for spring as far as he might from the vessel, it was always under his feet again before he reached the water, and he had to resign himself to his fate, and wait with what patience he could muster until the winds and waves carried the ship into a kind of natural harbour which ran far into the land. | Nhưng điều này hoàn toàn vô ích. Dù chàng có nhảy xa khỏi con tàu đến đâu, nó vẫn luôn ở ngay dưới chân chàng trước khi chàng chạm tới mặt nước. Chàng đành phải chấp nhận số phận, và chờ đợi với chút kiên nhẫn ít ỏi mà chàng có thể gom góp được, cho đến khi gió và sóng đưa con tàu vào một vịnh tự nhiên ăn sâu vào đất liền. |
After his long imprisonment at sea the Prince was delighted with the sight of the great trees which grew down to the very edge of the water, and leaping lightly on shore he speedily lost himself in the thick forest. | Sau thời gian dài bị giam cầm trên biển, Hoàng tử vui mừng khôn xiết khi thấy những cây đại thụ mọc um tùm xuống tận mép nước. Nhảy nhẹ nhàng lên bờ, chàng nhanh chóng lạc lối trong khu rừng rậm. |
When he had wandered a long way he stopped to rest beside a clear spring of water, but scarcely had he thrown himself down upon the mossy bank when there was a great rustling in the bushes close by, and out sprang a pretty little gazelle panting and exhausted, which fell at his feet gasping out— ‘Oh! Vivien, save me!’ | Khi đã đi một quãng đường dài, chàng dừng lại nghỉ bên một con suối trong vắt. Nhưng chàng vừa mới ngả mình xuống thảm rêu, đã có tiếng sột soạt lớn trong bụi cây gần đó, và từ trong đó nhảy ra một chú linh dương nhỏ xinh xắn, đang thở hổn hển và kiệt sức. Nó ngã xuống chân chàng, thều thào nói: “Ôi! Vivien, cứu em!” |
The Prince in great astonishment leapt to his feet, and had just time to draw his sword before he found himself face to face with a large green lion which had been hotly pursuing the poor little gazelle. | Hoàng tử kinh ngạc tột độ, bật dậy và vừa kịp rút kiếm ra thì thấy mình đang đối mặt với một con sư tử xanh khổng lồ, kẻ đã truy đuổi ráo riết chú linh dương bé nhỏ đáng thương. |
Prince Vivien attacked it gallantly and a fierce combat ensued, which, however, ended before long in the Prince’s dealing his adversary a terrific blow which felled him to the earth. | Hoàng tử Vivien dũng cảm tấn công nó và một trận chiến khốc liệt nổ ra. Tuy nhiên, trận đấu không kéo dài lâu. Hoàng tử giáng cho đối thủ một đòn trời giáng, khiến nó ngã vật xuống đất. |
As he fell the lion whistled loudly three times with such force that the forest rang again, and the sound must have been heard for more than two leagues round, after which having apparently nothing more to do in the world he rolled over on his side and died. | Khi ngã xuống, con sư tử huýt lên ba tiếng thật to, mạnh đến nỗi cả khu rừng rung chuyển. Âm thanh hẳn đã vang xa hơn hai dặm. Sau đó, dường như chẳng còn việc gì để làm trên cõi đời này nữa, nó lăn qua một bên và chết. |
The Prince without paying any further heed to him or to his whistling returned to the pretty gazelle, saying: ‘Well! are you satisfied now? Since you can talk, pray tell me instantly what all this is about, and how you happen to know my name.’ | Hoàng tử không để ý đến nó hay tiếng huýt sáo của nó nữa, quay lại với chú linh dương xinh đẹp, nói: “Sao? Giờ em đã hài lòng chưa? Vì em có thể nói chuyện, hãy nói cho ta biết ngay lập tức chuyện này là thế nào, và làm sao em lại biết tên ta.” |
‘Oh, I must rest for a long time before I can talk,’ she replied, ‘and beside, I very much doubt if you will have leisure to listen, for the affair is by no means finished. In fact,’ she continued in the same languid tone, ‘you had better look behind you now.’ | “Ôi, em phải nghỉ ngơi một lúc lâu nữa mới nói được,” nó đáp, “vả lại, em rất nghi ngờ liệu chàng có rảnh để nghe không, vì chuyện vẫn chưa kết thúc đâu. Thực ra,” nó tiếp tục với giọng uể oải, “chàng nên nhìn ra sau lưng mình thì hơn.” |
The Prince turned sharply round and to his horror saw a huge Giant approaching with mighty strides, crying fiercely— ‘Who has made my lion whistle I should like to know?’ | Hoàng tử quay phắt lại và kinh hãi nhìn thấy một tên Khổng Lồ to lớn đang sải những bước dài tiến đến, gầm lên một cách hung dữ: “Kẻ nào đã làm con sư tử của ta huýt sáo, ta muốn biết!” |
‘I have,’ replied Prince Vivien boldly, ‘but I can answer for it that he will not do it again!’ | “Là ta đây,” Hoàng tử Vivien dũng cảm đáp, “nhưng ta có thể đảm bảo rằng nó sẽ không làm vậy nữa đâu!” |
At these words the Giant began to howl and lament. ‘Alas, my poor Tiny, my sweet little pet,’ he cried, ‘but at least I can avenge thy death.’ | Nghe những lời đó, tên Khổng Lồ bắt đầu gào thét và than khóc. “Than ôi, Tiny đáng thương của ta, cục cưng ngọt ngào của ta,” hắn khóc, “nhưng ít ra ta có thể trả thù cho cái chết của ngươi.” |
Thereupon he rushed at the Prince, brandishing an immense serpent which was coiled about his wrist. | Nói rồi, hắn lao vào Hoàng tử, vung vẩy một con rắn khổng lồ đang quấn quanh cổ tay hắn. |
Vivien, without losing his coolness, aimed a terrific blow at it with his sword, but no sooner did he touch the snake than it changed into a Giant and the Giant into a snake, with such rapidity that the Prince felt perfectly giddy, and this happened at least half-a-dozen times, until at last with a fortunate stroke he cut the serpent in halves, and picking up one morsel flung it with all his force at the nose of the Giant, who fell insensible on top of the lion, and in an instant a thick black cloud rolled up which hid them from view, and when it cleared away they had all disappeared. | Vivien, không mất bình tĩnh, nhắm một cú chém kinh hoàng vào con rắn bằng thanh kiếm của mình. Nhưng chàng vừa chạm vào con rắn thì nó biến thành tên Khổng Lồ và tên Khổng Lồ lại biến thành con rắn, nhanh đến nỗi Hoàng tử cảm thấy chóng mặt. Chuyện này xảy ra ít nhất nửa tá lần, cho đến khi, bằng một nhát chém may mắn, chàng đã chém đứt đôi con rắn. Chàng nhặt một mẩu lên và dùng hết sức ném vào mũi tên Khổng Lồ, khiến hắn ngã bất tỉnh đè lên con sư tử. Ngay lập tức, một đám mây đen kịt cuộn lên che khuất chúng, và khi đám mây tan đi, tất cả đã biến mất. |
Then the Prince, without even waiting to sheathe his sword, rushed back to the gazelle, crying: ‘Now you have had plenty of time to recover your wits, and you have nothing more to fear, so tell me who you are, and what this horrible Giant, with his lion and his serpent, have to do with you and for pity’s sake be quick about it.’ | Rồi Hoàng tử, thậm chí không đợi để tra kiếm vào vỏ, vội vã quay lại chỗ linh dương, kêu lên: “Giờ thì em đã có đủ thời gian để trấn tĩnh lại rồi đấy, và em chẳng còn gì phải sợ nữa. Hãy nói cho ta biết em là ai, và tên Khổng Lồ kinh khủng này, cùng với con sư tử và con rắn của hắn, có liên quan gì đến em. Và vì lòng thương, hãy nhanh lên một chút.” |
‘I will tell you with pleasure,’ she answered, ‘but where is the hurry? I want you to come back with me to the Green Castle, but I don’t want to walk there, it is so far, and walking is so fatiguing.’ | “Em sẽ kể cho chàng nghe với niềm vui,” nó trả lời, “nhưng có gì mà phải vội? Em muốn chàng cùng em trở về Lâu Đài Xanh, nhưng em không muốn đi bộ đến đó, xa lắm, và đi bộ thì mệt mỏi lắm.” |
‘Let us set out at once then,’ replied the Prince severely, ‘or else really I shall have to leave you where you are. Surely a young and active gazelle like you ought to be ashamed of not being able to walk a few steps. The further off this castle is the faster we ought to walk, but as you don’t appear to enjoy that, I will promise that we will go gently, and we can talk by the way.’ | “Vậy thì chúng ta lên đường ngay lập tức,” Hoàng tử nghiêm nghị đáp, “nếu không, thực sự ta sẽ phải bỏ em lại đây. Chắc chắn một chú linh dương trẻ trung và năng động như em phải cảm thấy xấu hổ vì không thể đi bộ được vài bước. Lâu đài đó càng xa, chúng ta càng phải đi nhanh hơn. Nhưng vì em có vẻ không thích điều đó, ta hứa chúng ta sẽ đi từ tốn, và chúng ta có thể nói chuyện trên đường đi.” |
‘It would be better still if you would carry me,’ said she sweetly, ‘but as I don’t like to see people giving themselves trouble, you may carry me, and make that snail carry you.’ | “Sẽ còn tốt hơn nữa nếu chàng cõng em,” nó nói một cách ngọt ngào, “nhưng vì em không thích thấy người khác phải vất vả, chàng có thể cõng em, và bảo con ốc sên kia cõng chàng.” |
So saying, she pointed languidly with one tiny foot at what the Prince had taken for a block of stone, but now he saw that it was a huge snail. | Nói rồi, nó uể oải chỉ một bàn chân nhỏ xíu vào thứ mà Hoàng tử đã tưởng là một tảng đá, nhưng giờ chàng mới thấy đó là một con ốc sên khổng lồ. |
‘What! I ride a snail!’ cried the Prince; ‘you are laughing at me, and beside we should not get there for a year.’ | “Cái gì! Ta cưỡi một con ốc sên ư!” Hoàng tử kêu lên; “em đang chế nhạo ta đấy à, vả lại chúng ta sẽ không đến nơi trong một năm đâu.” |
‘Oh! well then don’t do it,’ replied the gazelle, ‘I am quite willing to stay here. The grass is green, and the water clear. But if I were you I should take the advice that was given me and ride the snail.’ | “Ồ! Vậy thì đừng làm thế,” con linh dương đáp, “em rất sẵn lòng ở lại đây. Cỏ thì xanh, nước thì trong. Nhưng nếu em là chàng, em sẽ nghe theo lời khuyên được cho và cưỡi con ốc sên.” |
So, though it did not please him at all, the Prince took the gazelle in his arms, and mounted upon the back of the snail, which glided along very peaceably, entirely declining to be hurried by frequent blows from the Prince’s heels. | Vì vậy, dù chẳng hề vui vẻ chút nào, Hoàng tử vẫn bế con linh dương trong tay, và leo lên lưng con ốc sên. Nó trườn đi rất yên bình, hoàn toàn từ chối bị thúc giục bởi những cú thúc gót chân liên tục của Hoàng tử. |
In vain did the gazelle represent to him that she was enjoying herself very much, and that this was the easiest mode of conveyance she had ever discovered. | Con linh dương có giải thích rằng nó đang rất tận hưởng và đây là phương tiện di chuyển dễ dàng nhất nó từng khám phá cũng vô ích. |
Prince Vivien was wild with impatience, and thought that the Green Castle would never be reached. | Hoàng tử Vivien phát điên lên vì sốt ruột, và nghĩ rằng Lâu Đài Xanh sẽ không bao giờ đến được. |
However, at last, they did get there, and everyone who was in it ran to see the Prince dismount from his singular steed. | Tuy nhiên, cuối cùng, họ cũng đã đến nơi. Mọi người trong lâu đài chạy ra xem Hoàng tử xuống khỏi con tuấn mã kỳ dị của mình. |
But what was his surprise, when having at her request set the gazelle gently down upon the steps which led up to the castle, he saw her suddenly change into a charming Princess, and recognized in her his pretty cousin Placida, who greeted him with her usual tranquil sweetness. | Nhưng chàng đã ngạc nhiên biết bao, khi theo lời yêu cầu của con linh dương, chàng nhẹ nhàng đặt nó xuống bậc thềm dẫn lên lâu đài, chàng thấy nó đột nhiên biến thành một Nàng Công chúa duyên dáng, và nhận ra trong nàng chính là cô em họ xinh đẹp Placida. Nàng chào chàng bằng sự ngọt ngào, điềm tĩnh thường thấy. |
His delight knew no bounds, and he followed her eagerly up into the castle, impatient to know what strange events had brought her there. | Niềm vui của chàng không sao tả xiết, và chàng háo hức đi theo nàng vào lâu đài, nôn nóng muốn biết những sự kiện kỳ lạ nào đã đưa nàng đến đây. |
But after all he had to wait for the Princess’s story, for the inhabitants of the Green Lands, hearing that the Giant was dead, ran to offer the kingdom to his vanquisher, and Prince Vivien had to listen to various complimentary harangues, which took a great deal of time, though he cut them as short as politeness allowed—if not shorter. | Nhưng rốt cuộc, chàng vẫn phải chờ đợi câu chuyện của Công chúa. Bởi vì cư dân của Vùng Đất Xanh, nghe tin tên Khổng Lồ đã chết, đã chạy đến dâng vương quốc cho người chiến thắng hắn. Hoàng tử Vivien phải lắng nghe những bài diễn văn tán dương khác nhau, tốn rất nhiều thời gian, dù chàng đã cắt chúng ngắn hết mức lịch sự cho phép—hoặc có lẽ còn ngắn hơn thế. |
But at last he was free to rejoin Placida, who at once began the story of her adventures. | Nhưng cuối cùng, chàng cũng được tự do để gặp lại Placida, và nàng lập tức bắt đầu kể câu chuyện phiêu lưu của mình. |
‘After you had gone away,’ said she, ‘they tried to make me learn how to govern the kingdom, which wearied me to death, so that I begged and prayed Lolotte to take me away with her, and this she presently did, but very reluctantly. | “Sau khi chàng ra đi,” nàng nói, “họ cố gắng bắt em học cách cai trị vương quốc, điều đó làm em mệt mỏi muốn chết. Thế nên em đã cầu xin và van nài tiên Lolotte đưa em đi cùng bà, và chẳng bao lâu sau bà đã làm vậy, dù rất miễn cưỡng.” |
However, having been transported to her grotto upon my favourite couch, I spent several delicious days, soothed by the soft green light, which was like a beech wood in the spring, and by the murmuring of bees and the tinkle of falling water. | “Tuy nhiên, sau khi được đưa đến hang động của bà trên chiếc trường kỷ yêu thích của mình, em đã trải qua vài ngày tuyệt vời, được vỗ về bởi ánh sáng xanh dịu dàng, tựa như ánh sáng trong một khu rừng sồi vào mùa xuân, cùng tiếng ong vo ve và tiếng nước róc rách.” |
But alas! Lolotte was forced to go away to a general assembly of the Fairies, and she came back in great dismay, telling me that her indulgence to me had cost her dear, for she had been severely reprimanded and ordered to hand me over to the Fairy Mirlifiche, who was already taking charge of you, and who had been much commended for her management of you.’ | “Nhưng than ôi! Tiên Lolotte buộc phải đi dự một đại hội của các vị tiên, và bà trở về trong tâm trạng hết sức hoang mang, nói với em rằng sự nuông chiều của bà đối với em đã phải trả giá đắt. Bà đã bị khiển trách nặng nề và bị ra lệnh phải giao em lại cho Tiên Mirlifiche, người vốn đang chăm sóc chàng, và đã được khen ngợi rất nhiều về cách quản lý chàng.” |
‘Fine management, indeed,’ interrupted the Prince, ‘if it is to her I owe all the adventures I have met with! But go on with your story, my cousin. I can tell you all about my doings afterwards, and then you can judge for yourself.’ | “Quản lý tuyệt vời thật,” Hoàng tử ngắt lời, “nếu chính nhờ bà ta mà ta đã gặp phải tất cả những cuộc phiêu lưu này! Nhưng hãy kể tiếp câu chuyện của em đi, em họ. Ta có thể kể cho em nghe về những việc của ta sau, rồi em có thể tự mình phán xét.” |
‘At first I was grieved to see Lolotte cry,’ resumed the Princess, ‘but I soon found that grieving was very troublesome, so I thought it better to be calm, and very soon afterwards I saw the Fairy Mirlifiche arrive, mounted upon her great unicorn. | “Lúc đầu, em buồn khi thấy tiên Lolotte khóc,” Công chúa tiếp tục, “nhưng em sớm nhận ra rằng buồn bã thật phiền phức, nên em nghĩ tốt hơn hết là nên bình tĩnh. Và rất nhanh sau đó, em thấy Tiên Mirlifiche đến, cưỡi trên con kỳ lân khổng lồ của bà.” |
She stopped before the grotto and bade Lolotte bring me out to her, at which she cried worse than ever, and kissed me a dozen times, but she dared not refuse. | “Bà dừng lại trước hang động và bảo tiên Lolotte đưa em ra cho bà. Nghe vậy, bà lại càng khóc dữ hơn, và hôn em cả chục lần, nhưng bà không dám từ chối.” |
I was lifted up on to the unicorn, behind Mirlifiche, who said to me— “Hold on tight, little girl, if you don’t want to break your neck.” | “Em được bế lên con kỳ lân, ngồi sau lưng Mirlifiche, bà nói với em: ‘Giữ chặt vào, cô bé, nếu không muốn gãy cổ.’” |
‘And, indeed, I had to hold on with all my might, for her horrible steed trotted so violently that it positively took my breath away. However, at last we stopped at a large farm, and the farmer and his wife ran out as soon as they saw the Fairy, and helped us to dismount. | “‘Và quả thực, em đã phải giữ chặt hết sức mình, vì con quái thú kinh khủng của bà chạy nước kiệu mạnh đến nỗi khiến em nghẹt thở. Tuy nhiên, cuối cùng chúng em cũng dừng lại ở một trang trại lớn, và người nông dân cùng vợ ông ta chạy ra ngay khi thấy vị tiên, rồi giúp chúng em xuống ngựa.’” |
‘I knew that they were really a King and Queen, whom the Fairies were punishing for their ignorance and idleness. | “‘Em biết họ thực ra là một vị Vua và một Hoàng hậu, đang bị các vị tiên trừng phạt vì sự thiếu hiểu biết và lười biếng của họ.’” |
You may imagine that I was by this time half dead with fatigue, but Mirlifiche insisted upon my feeding her unicorn before I did anything else. | “Chàng có thể tưởng tượng được lúc đó em đã mệt lả như thế nào, nhưng Mirlifiche khăng khăng bắt em phải cho con kỳ lân của bà ăn trước khi làm bất cứ việc gì khác.” |
To accomplish this I had to climb up a long ladder into the hayloft, and bring down, one after another, twenty-four handfuls of hay. Never, never before, did I have such a wearisome task! | “Để làm việc đó, em phải trèo lên một chiếc thang dài vào gác chứa cỏ khô, và mang xuống, từng nắm một, hai mươi tư nắm cỏ. Chưa bao giờ, chưa bao giờ trước đây, em phải làm một công việc mệt nhọc như vậy!” |
It makes me shudder to think of it now, and that was not all. In the same way I had to carry the twenty-four handfuls of hay to the stable, and then it was supper time, and I had to wait upon all the others. | “Nghĩ lại giờ em vẫn còn rùng mình, mà đó chưa phải là tất cả. Cứ như thế, em phải mang hai mươi tư nắm cỏ đến chuồng ngựa, rồi đến giờ ăn tối, và em phải phục vụ tất cả những người khác.” |
After that I really thought I should be allowed to go peaceably to my little bed, but, oh dear no! First of all I had to make it, for it was all in confusion, and then I had to make one for the Fairy, and tuck her in, and draw the curtains round her, beside rendering her a dozen little services which I was not at all accustomed to. | “Sau đó, em thực sự nghĩ rằng mình sẽ được yên ổn về chiếc giường nhỏ của mình. Nhưng, ôi không! Trước hết, em phải dọn dẹp nó, vì nó hoàn toàn lộn xộn. Rồi em phải dọn một chiếc giường cho bà tiên, đắp chăn cho bà, và kéo rèm quanh bà, bên cạnh đó còn phải làm hàng tá những việc vặt mà em hoàn toàn không quen làm.” |
Finally, when I was perfectly exhausted by all this toil, I was free to go to bed myself, but as I had never before undressed myself, and really did not know how to begin, I lay down as I was. | “Cuối cùng, khi em đã hoàn toàn kiệt sức vì tất cả những công việc nặng nhọc đó, em mới được tự do đi ngủ. Nhưng vì em chưa bao giờ tự cởi quần áo trước đây, và thực sự không biết bắt đầu từ đâu, em đã nằm xuống nguyên như vậy.” |
Unfortunately, the Fairy found this out, and just as I was falling into a sweet slumber, she made me get up once more, but even then I managed to escape her vigilance, and only took off my upper robe. | “Thật không may, bà tiên đã phát hiện ra điều này, và đúng lúc em đang chìm vào một giấc ngủ ngọt ngào, bà bắt em dậy một lần nữa. Nhưng ngay cả lúc đó, em vẫn xoay sở thoát khỏi sự giám sát của bà, và chỉ cởi bỏ lớp áo choàng bên ngoài.” |
Indeed, I may tell you in confidence, that I always find disobedience answer very well. One is often scolded, it is true, but then one has been saved some trouble. | “Thật vậy, em có thể nói riêng với chàng rằng, em luôn thấy sự không vâng lời rất hiệu quả. Đúng là người ta thường bị mắng, nhưng sau đó người ta lại đỡ được một số phiền phức.’” |
‘At the earliest dawn of day Mirlifiche woke me, and made me take many journeys to the stable to bring her word how her unicorn had slept, and how much hay he had eaten, and then to find out what time it was, and if it was a fine day. | “Vào lúc rạng đông sớm nhất, Tiên Mirlifiche đánh thức em dậy, và bắt em phải đi đi lại lại nhiều lần đến chuồng ngựa để báo cáo cho bà biết con kỳ lân của bà đã ngủ ra sao, đã ăn bao nhiêu cỏ khô, rồi sau đó phải đi xem mấy giờ rồi, và trời hôm nay có đẹp không.” |
I was so slow, and did my errands so badly, that before she left she called the King and Queen and said to them: “I am much more pleased with you this year. Continue to make the best of your farm, if you wish to get back to your kingdom, and also take care of this little Princess for me, and teach her to be useful, that when I come I may find her cured of her faults. If she is not—” | “Em vừa chậm chạp lại vừa làm việc chẳng ra hồn, nên trước khi rời đi, bà gọi đức Vua và Hoàng hậu đến và nói với họ: ‘Năm nay ta hài lòng với các ngươi hơn nhiều. Hãy tiếp tục quản lý trang trại của các ngươi cho tốt, nếu các ngươi muốn trở lại vương quốc của mình. Và cũng hãy chăm sóc nàng Công chúa nhỏ này giúp ta, dạy cho nó trở nên có ích, để khi ta quay lại, ta thấy nó đã được chữa khỏi những tật xấu. Nếu nó không được chữa khỏi—’” |
‘Here she broke off with a significant look, and mounting my enemy the unicorn, speedily disappeared. | “Đến đây, bà ngưng lại với một cái nhìn đầy ẩn ý, rồi leo lên kẻ thù của em, con kỳ lân, và nhanh chóng biến mất.” |
‘Then the King and Queen, turning to me, asked me what I could do. “Nothing at all, I assure you,” I replied in a tone which really ought to have convinced them, but they went on to describe various employments, and tried to discover which of them would be most to my taste. | “Khi đó, đức Vua và Hoàng hậu quay sang hỏi em có thể làm được gì. ‘Hoàn toàn không làm được gì cả, em cam đoan với bệ hạ,’ em đáp với một giọng mà đáng lẽ ra phải thuyết phục được họ. Nhưng họ vẫn tiếp tục mô tả các công việc khác nhau, và cố gắng tìm ra việc nào sẽ hợp với sở thích của em nhất.” |
However, at last I persuaded them that to do nothing whatever would be the only thing that would suit me, and that if they really wanted to be kind to me, they would let me go to bed and to sleep, and not tease me about doing anything. | “Tuy nhiên, cuối cùng em cũng thuyết phục được họ rằng việc không làm gì cả sẽ là điều duy nhất phù hợp với em, và nếu họ thực sự muốn tốt với em, thì hãy để em đi ngủ và đừng làm phiền em về việc làm bất cứ điều gì nữa.” |
To my great joy, they not only permitted this, but actually, when they had their own meals, the Queen brought my portion up to me. | “Trong niềm vui sướng khôn xiết, họ không chỉ cho phép điều này, mà thực tế, khi họ dùng bữa, Hoàng hậu còn mang phần ăn của em lên cho em.” |
But early the next morning she appeared at my bedside, saying, with an apologetic air: “My pretty child, I am afraid you must really make up your mind to get up to-day. I know quite well how delightful it is to be thoroughly idle, for when my husband and I were King and Queen we did nothing at all from morning to night, and I sincerely hope that it will not be long before those happy days will come again for us. But at present we have not reached them, nor have you, and you know from what the Fairy said that perhaps worse things may happen to us if she is not obeyed. Make haste, I beg of you, and come down to breakfast, for I have put by some delicious cream for you.” | “Nhưng sáng sớm hôm sau, bà xuất hiện bên giường em, nói với một vẻ ái ngại: ‘Hỡi đứa trẻ xinh đẹp của ta, ta e rằng hôm nay con thực sự phải quyết định dậy thôi. Ta biết rõ cảm giác hoàn toàn lười biếng thật tuyệt vời làm sao, vì khi ta và đức vua còn là Vua và Hoàng hậu, chúng ta chẳng làm gì cả từ sáng đến tối, và ta thành thật hy vọng rằng những ngày hạnh phúc ấy sẽ không lâu nữa sẽ trở lại với chúng ta. Nhưng hiện tại, chúng ta chưa đạt được điều đó, và con cũng vậy. Và con cũng biết từ những gì bà tiên đã nói rằng có lẽ những điều tồi tệ hơn có thể xảy ra với chúng ta nếu không tuân theo lời bà. Hãy nhanh lên, ta xin con, và xuống nhà ăn sáng, vì ta đã để dành một ít kem ngon tuyệt cho con đấy.’” |
‘It was really very tiresome, but as there was no help for it I went down! | “Thật là phiền phức, nhưng vì không còn cách nào khác, em đã phải đi xuống!” |
‘But the instant breakfast was over they began again their cuckoo-cry of “What will you do?” In vain did I answer— “Nothing at all, if it please you, madam.” | “Nhưng bữa sáng vừa kết thúc, họ lại bắt đầu điệp khúc quen thuộc: ‘Con sẽ làm gì?’ Em trả lời trong vô vọng: ‘Hoàn toàn không làm gì cả, thưa phu nhân.’” |
‘The Queen at last gave me a spindle and about four pounds of hemp upon a distaff, and sent me out to keep the sheep, assuring me that there could not be a pleasanter occupation, and that I could take my ease as much as I pleased. | “Cuối cùng, Hoàng hậu đưa cho em một con quay và khoảng bốn cân gai dầu trên một con cúi, rồi sai em đi chăn cừu, quả quyết rằng không thể có một công việc nào dễ chịu hơn thế, và rằng em có thể nghỉ ngơi tùy thích.” |
I was forced to set out, very unwillingly, as you may imagine, but I had not walked far before I came to a shady bank in what seemed to me a charming place. | “Em bị buộc phải lên đường, rất miễn cưỡng, như chàng có thể tưởng tượng. Nhưng em chưa đi được bao xa thì đã đến một bờ cỏ râm mát, ở một nơi mà em thấy thật quyến rũ.” |
I stretched myself cosily upon the soft grass, and with the bundle of hemp for a pillow slept as tranquilly as if there were no such things as sheep in the world, while they for their part wandered hither and thither at their own sweet will, as if there were no such thing as a shepherdess, invading every field, and browsing upon every kind of forbidden dainty, until the peasants, alarmed by the havoc they were making, raised a clamour, which at last reached the ears of the King and Queen, who ran out, and seeing the cause of the commotion, hastily collected their flock. | “Em duỗi mình thoải mái trên thảm cỏ mềm, và dùng bó gai dầu làm gối, ngủ một giấc yên bình như thể không có thứ gì gọi là cừu trên đời. Trong khi đó, lũ cừu lang thang đây đó theo ý thích của chúng, như thể chẳng có cô chăn cừu nào tồn tại. Chúng xâm chiếm mọi cánh đồng và gặm nhấm đủ loại cây trái cấm, cho đến khi những người nông dân, hoảng sợ vì sự tàn phá của chúng, đã làm ầm lên. Tiếng ồn ào cuối cùng cũng đến tai đức Vua và Hoàng hậu, họ vội vàng chạy ra, và khi thấy nguyên nhân của sự náo động, đã vội vàng lùa đàn cừu của mình về.” |
And, indeed, the sooner the better, since they had to pay for all the damage they had done. | “Và quả thực, càng sớm càng tốt, vì họ phải đền bù cho tất cả những thiệt hại mà chúng đã gây ra.” |
As for me I lay still and watched them run, for I was very comfortable, and there I might be still if they had not come up, all panting and breathless, and compelled me to get up and follow them; they also reproached me bitterly, but I need hardly tell you that they did not again entrust me with the flock. | “Về phần em, em vẫn nằm yên và nhìn họ chạy, vì em đang rất thoải mái, và em có lẽ vẫn còn ở đó nếu họ không chạy đến, tất cả đều thở hổn hển, và bắt em phải dậy đi theo họ. Họ cũng trách mắng em thậm tệ, nhưng em không cần phải nói chàng cũng biết rằng họ đã không giao lại đàn cừu cho em nữa.” |
‘But whatever they found for me to do it was always the same thing, I spoilt and mismanaged it all, and was so successful in provoking even the most patient people, that one day I ran away from the farm, for I was really afraid the Queen would be obliged to beat me. | “Nhưng dù họ giao cho em việc gì thì cũng như nhau cả thôi, em làm hỏng và làm rối tung mọi thứ, và đã thành công trong việc chọc tức cả những người kiên nhẫn nhất. Thế là một ngày nọ, em trốn khỏi trang trại, vì em thực sự sợ Hoàng hậu sẽ buộc phải đánh em.” |
When I came to the little river in which the King used to fish, I found the boat tied to a tree, and stepping in I unfastened it, and floated gently down with the current. | “Khi đến con sông nhỏ nơi đức Vua thường câu cá, em thấy chiếc thuyền buộc vào một cái cây. Em bước vào, cởi dây, và trôi nhẹ nhàng theo dòng nước.” |
The gliding of the boat was so soothing that I did not trouble myself in the least when the Queen caught sight of me and ran along the bank, crying— “My boat, my boat! Husband, come and catch the little Princess who is running away with my boat!” | “Cảm giác thuyền trôi thật êm dịu, em chẳng bận tâm chút nào khi Hoàng hậu trông thấy em và chạy dọc bờ sông, la lớn: ‘Thuyền của ta, thuyền của ta! Chồng ơi, mau đến bắt Công chúa nhỏ đang bỏ trốn cùng chiếc thuyền của ta!’” |
‘The current soon carried me out of hearing of her cries, and I dreamed to the song of the ripples and the whisper of the trees, until the boat suddenly stopped, and I found it was stuck fast beside a fresh green meadow, and that the sun was rising. | “Dòng nước nhanh chóng cuốn em đi xa khỏi tiếng la hét của bà. Em mơ màng theo tiếng sóng vỗ và tiếng cây rì rào, cho đến khi chiếc thuyền đột ngột dừng lại. Em nhận ra nó đã mắc kẹt bên một đồng cỏ xanh tươi, và mặt trời đang lên.” |
In the distance I saw some little houses which seemed to be built in a most singular fashion, but as I was by this time very hungry I set out towards them, but before I had walked many steps, I saw that the air was full of shining objects which seemed to be fixed, and yet I could not see what they hung from. | “Xa xa, em thấy một vài ngôi nhà nhỏ được xây theo kiểu rất lạ. Vì lúc này đã rất đói, em liền đi về phía chúng, nhưng chưa đi được bao nhiêu bước, em thấy không khí đầy những vật thể sáng lấp lánh dường như đang được treo lơ lửng, nhưng em không thể thấy chúng được treo bằng gì.” |
‘I went nearer, and saw a silken cord hanging down to the ground, and pulled it just because it was so close to my hand. | “Em đến gần hơn và thấy một sợi dây lụa rủ xuống đất, em kéo nó chỉ vì nó ở ngay gần tay em.” |
Instantly the whole meadow resounded to the melodious chiming of a peal of silver bells, and they sounded so pretty that I sat down to listen, and to watch them as they swung shining in the sunbeams. | “Ngay lập tức, cả đồng cỏ vang lên tiếng chuông bạc du dương. Âm thanh thật hay đến nỗi em ngồi xuống lắng nghe và ngắm nhìn những chiếc chuông lấp lánh dưới ánh nắng.” |
Before they ceased to sound, came a great flight of birds, and each one perching upon a bell added its charming song to the concert. | “Trước khi tiếng chuông dứt, một đàn chim lớn bay đến, mỗi con đậu lên một chiếc chuông và cất tiếng hót quyến rũ, hòa vào bản hợp xướng.” |
As they ended, I looked up and saw a tall and stately dame advancing towards me, surrounded and followed by a vast flock of every kind of bird. | “Khi chúng kết thúc, em ngước lên và thấy một phu nhân cao lớn, trang nghiêm đang tiến về phía em, được bao quanh và theo sau bởi một đàn chim khổng lồ đủ loại.” |
‘”Who are you, little girl,” said she, “who dares to come where I allow no mortal to live, lest my birds should be disturbed? Still, if you are clever at anything,” she added, “I might be able to put up with your presence.” | “‘Cô bé là ai,’ bà nói, ‘mà dám đến nơi ta không cho phép một người trần nào sống, vì sợ chim của ta bị quấy rầy? Tuy nhiên, nếu cô bé thông minh về một việc gì đó,’ bà nói thêm, ‘ta có lẽ sẽ chịu đựng được sự hiện diện của cô.’” |
‘”Madam,” I answered, rising, “you may be very sure that I shall not do anything to alarm your birds. I only beg you, for pity’s sake, to give me something to eat.” | “‘Thưa phu nhân,’ em đứng dậy đáp, ‘ngài có thể yên tâm rằng con sẽ không làm gì để làm chim của ngài hoảng sợ đâu ạ. Con chỉ xin ngài, vì lòng thương, hãy cho con thứ gì đó để ăn.’” |
‘”I will do that,” she replied, “before I send you where you deserve to go.” ‘And thereupon she despatched six jays, who were her pages, to fetch me all sorts of biscuits, while some of the other birds brought ripe fruits. | “‘Ta sẽ làm điều đó,’ bà đáp, ‘trước khi ta gửi cô đến nơi cô đáng phải đến.’ Và ngay lập tức, bà phái sáu con chim giẻ cùi, là tiểu đồng của bà, đi lấy cho em đủ loại bánh quy, trong khi một số con chim khác mang đến hoa quả chín mọng.” |
In fact, I had a delicious breakfast, though I do not like to be waited upon so quickly. It is so disagreeable to be hurried. | “Thật vậy, em đã có một bữa sáng ngon tuyệt, dù em không thích được phục vụ quá nhanh. Bị thúc giục thật khó chịu.” |
I began to think I should like very well to stay in this pleasant country, and I said so to the stately lady, but she answered with the greatest disdain: ‘”Do you think I would keep you here? _You_! Why what do you suppose would be the good of you in this country, where everybody is wide-awake and busy? No, no, I have shown you all the hospitality you will get from me.” | “Em bắt đầu nghĩ rằng em rất muốn ở lại đất nước dễ chịu này, và em đã nói điều đó với vị phu nhân trang nghiêm, nhưng bà đáp lại với vẻ khinh miệt tột độ: ‘Cô nghĩ ta sẽ giữ cô ở lại đây ư? *Cô*! Cô nghĩ mình có ích gì ở đất nước này, nơi mọi người đều tỉnh táo và bận rộn? Không, không, ta đã thể hiện lòng hiếu khách của mình với cô như vậy là đủ rồi.’” |
‘With these words she turned and gave a vigorous pull to the silken rope which I mentioned before, but instead of a melodious chime, there arose a hideous clanging which quite terrified me, and in an instant a huge Black Bird appeared, which alighted at the Fairy’s feet, saying in a frightful voice— ‘”What do you want of me, my sister?” | “Với những lời đó, bà quay lại và kéo mạnh sợi dây lụa mà em đã đề cập trước đó. Nhưng thay vì một tiếng chuông du dương, lại vang lên một tiếng kêu ghê rợn làm em kinh hãi. Ngay lập tức, một con Hắc Điểu khổng lồ xuất hiện, đậu xuống chân bà tiên và nói bằng một giọng khủng khiếp: ‘Ngươi muốn gì ở ta, em gái?’” |
‘”I wish you to take this little Princess to my cousin, the Giant of the Green Castle, at once,” she replied, “and beg him from me to make her work day and night upon his beautiful tapestry.” | “‘Ta muốn ngươi đưa nàng Công chúa nhỏ này đến chỗ anh họ của ta, tên Khổng Lồ ở Lâu Đài Xanh, ngay lập tức,’ bà đáp, ‘và xin hắn giúp ta bắt nó làm việc ngày đêm trên tấm thảm thêu tuyệt đẹp của hắn.’” |
‘At these words the great Bird snatched me up, regardless of my cries, and flew off at a terrific pace—’ | “Nghe những lời đó, con chim lớn đã ngoạm lấy em, mặc cho em la hét, và bay đi với tốc độ kinh hoàng—” |
‘Oh! you are joking, cousin,’ interrupted Prince Vivien; ‘you mean as slowly as possible. I know that horrible Black Bird, and the lengthiness of all his proceedings and surroundings.’ | “Ôi! Em đang đùa đấy à, em họ,” Hoàng tử Vivien ngắt lời; “ý em là chậm nhất có thể. Ta biết con Hắc Điểu kinh khủng đó, và sự lê thê của tất cả mọi việc và mọi thứ xung quanh nó.” |
‘Have it your own way,’ replied Placida, tranquilly. ‘I cannot bear arguing. Perhaps, this was not even the same bird. At any rate, he carried me off at a prodigious speed, and set me gently down in this very castle of which you are now the master. | “Tùy chàng nghĩ,” Placida điềm tĩnh đáp. “Em không thích tranh cãi. Có lẽ, đây còn không phải là con chim đó. Dù sao đi nữa, nó đã đưa em đi với tốc độ kinh người, và đặt em nhẹ nhàng xuống chính tòa lâu đài này, nơi mà chàng hiện là chủ nhân.” |
We entered by one of the windows, and when the Bird had handed me over to the Giant from whom you have been good enough to deliver me, and given the Fairy’s message, it departed. | “Chúng em vào bằng một trong những cửa sổ, và khi con chim đã giao em lại cho tên Khổng Lồ mà chàng đã giải thoát em khỏi hắn, và truyền đi thông điệp của bà tiên, nó liền rời đi.” |
‘Then the Giant turned to me, saying, “So you are an idler! Ah! well, we must teach you to work. You won’t be the first we have cured of laziness. See how busy all my guests are.” | “Sau đó, tên Khổng Lồ quay sang em và nói: ‘Vậy ra ngươi là một kẻ lười biếng! À! Vậy thì, chúng ta phải dạy ngươi làm việc. Ngươi sẽ không phải là người đầu tiên chúng ta chữa khỏi bệnh lười. Hãy xem tất cả khách của ta bận rộn như thế nào.’” |
‘I looked up as he spoke, and saw that an immense gallery ran all round the hall, in which were tapestry frames, spindles, skeins of wool, patterns, and all necessary things. | “Khi hắn nói, em ngước lên và thấy một hành lang khổng lồ chạy quanh sảnh, trên đó có các khung thêu, trục quay, những cuộn len, mẫu thêu và tất cả những thứ cần thiết khác.” |
Before each frame about a dozen people were sitting, hard at work, at which terrible sight I fainted away, and as soon as I recovered they began to ask me what I could do. | “Trước mỗi khung thêu, khoảng một tá người đang ngồi, làm việc chăm chỉ. Trước cảnh tượng khủng khiếp đó, em đã ngất đi, và ngay khi em tỉnh lại, họ bắt đầu hỏi em có thể làm gì.” |
‘It was in vain that I replied as before, and with the strongest desire to be taken at my word, “Nothing at all.” | “Em đã trả lời như trước, và với mong muốn mạnh mẽ nhất là được người ta tin lời mình, rằng ‘Hoàn toàn không làm được gì cả’, nhưng tất cả đều vô ích.” |
‘The Giant only said, “Then you must learn to do something; in this world there is enough work for everybody.” | “Tên Khổng Lồ chỉ nói: ‘Vậy thì ngươi phải học làm một việc gì đó; trên thế giới này, có đủ việc cho mọi người.’” |
‘It appeared that they were working into the tapestry all the stories the Fairies liked best, and they began to try and teach me to help them, but from the first class, where they tried me to begin with, I sank lower and lower, and not even the most simple stitches could I learn. | “Hóa ra họ đang thêu vào tấm thảm tất cả những câu chuyện mà các vị tiên thích nhất. Và họ bắt đầu cố gắng dạy em cách giúp đỡ họ, nhưng từ lớp đầu tiên, nơi họ thử cho em bắt đầu, em cứ ngày càng thụt lùi, và ngay cả những mũi khâu đơn giản nhất em cũng không thể học được.” |
‘In vain they punished me by all the usual methods. In vain the Giant showed me his menagerie, which was entirely composed of children who would not work! | “Họ trừng phạt em bằng mọi cách thông thường cũng vô ích. Tên Khổng Lồ cho em xem vườn thú của hắn, nơi chỉ toàn là những đứa trẻ không chịu làm việc cũng vô ích!” |
Nothing did me any good, and at last I was reduced to drawing water for the dyeing of the wools, and even over that I was so slow that this morning the Giant flew into a rage and changed me into a gazelle. | “Chẳng có gì có tác dụng với em cả, và cuối cùng, em bị giáng xuống làm công việc kéo nước để nhuộm len. Ngay cả việc đó em cũng làm rất chậm, đến nỗi sáng nay tên Khổng Lồ đã nổi giận và biến em thành một con linh dương.” |
He was just putting me into the menagerie when I happened to catch sight of a dog, and was seized with such terror that I fled away at my utmost speed, and escaped through the outer court of the castle. | “Hắn vừa mới định nhốt em vào vườn thú thì em tình cờ thấy một con chó và hoảng sợ đến nỗi đã bỏ chạy với tốc độ nhanh nhất của mình, thoát ra khỏi sân ngoài của lâu đài.” |
The Giant, fearing that I should be lost altogether, sent his green lion after me, with orders to bring me back, cost what it might, and I should certainly have let myself be caught, or eaten up, or anything, rather than run any further, if I had not luckily met you by the fountain. | “Tên Khổng Lồ, sợ rằng em sẽ mất tích hoàn toàn, đã sai con sư tử xanh của hắn đuổi theo em, ra lệnh phải mang em về bằng bất cứ giá nào. Và em chắc chắn đã để mình bị bắt, hoặc bị ăn thịt, hoặc bất cứ điều gì, thay vì phải chạy thêm nữa, nếu em không may mắn gặp chàng bên suối.” |
And oh!’ concluded the Princess, ‘how delightful it is once more to be able to sit still in peace. I was so tired of trying to learn things.’ | “Và ôi!” Công chúa kết luận, “thật tuyệt vời khi một lần nữa được ngồi yên trong thanh bình. Em đã quá mệt mỏi với việc phải cố gắng học hỏi.” |
Prince Vivien said that, for his part, he had been kept a great deal too still, and had not found it at all amusing, and then he recounted all his adventures with breathless rapidity. | Hoàng tử Vivien nói rằng, về phần mình, chàng đã bị giữ yên quá nhiều, và chẳng thấy vui vẻ gì cả, rồi chàng kể lại tất cả những cuộc phiêu lưu của mình một cách nhanh đến nghẹt thở. |
How he had taken shelter with Dame Patience, and consulted the Oracle, and voyaged in the paper ship. | Chuyện chàng trú ngụ ở nhà bà Kiên Nhẫn, tham vấn Thần Truyền Sấm, và du hành trên con tàu giấy. |
Then they went hand in hand to release all the prisoners in the castle, and all the Princes and Princesses who were in cages in the menagerie, for the instant the Green Giant was dead they had resumed their natural forms. | Sau đó, họ tay trong tay đi giải thoát tất cả tù nhân trong lâu đài, và tất cả các Hoàng tử và Công chúa đang bị nhốt trong lồng trong vườn thú, vì ngay khi tên Khổng Lồ Xanh chết, họ đã trở lại hình dạng tự nhiên của mình. |
As you may imagine, they were all very grateful, and Princess Placida entreated them never, never to do another stitch of work so long as they lived, and they promptly made a great bonfire in the courtyard, and solemnly burnt all the embroidery frames and spinning wheels. | Như bạn có thể tưởng tượng, họ đều rất biết ơn. Công chúa Placida khẩn khoản xin họ đừng bao giờ, đừng bao giờ động đến một mũi khâu nào nữa trong suốt cuộc đời, và họ nhanh chóng đốt một đống lửa lớn trong sân, rồi trang trọng thiêu cháy tất cả các khung thêu và bánh xe quay sợi. |
Then the Princess gave them splendid presents, or rather sat by while Prince Vivien gave them, and there were great rejoicings in the Green Castle, and everyone did his best to please the Prince and Princess. | Sau đó, Công chúa tặng họ những món quà lộng lẫy, hay đúng hơn là ngồi bên cạnh trong khi Hoàng tử Vivien tặng quà. Có những lễ hội lớn trong Lâu Đài Xanh, và mọi người đều cố gắng hết sức để làm hài lòng Hoàng tử và Công chúa. |
But with all their good intentions, they often made mistakes, for Vivien and Placida were never of one mind about their plans, so it was very confusing, and they frequently found themselves obeying the Prince’s orders, very, very slowly, and rushing off with lightning speed to do something that the Princess did not wish to have done at all, until, by-and-by, the two cousins took to consulting with, and consoling one another in all these little vexations, and at last came to be so fond of each other that for Placida’s sake Vivien became quite patient, and for Vivien’s sake Placida made the most unheard-of exertions. | Nhưng với tất cả những ý định tốt đẹp của mình, họ thường mắc sai lầm, vì Vivien và Placida không bao giờ cùng một ý kiến về kế hoạch của họ, vì vậy mọi việc rất rối ren. Họ thường xuyên thấy mình tuân theo mệnh lệnh của Hoàng tử một cách rất, rất chậm rãi, rồi lại vội vã chạy đi làm một việc gì đó mà Công chúa hoàn toàn không muốn làm. Cho đến khi, dần dần, hai anh em họ bắt đầu tham khảo ý kiến và an ủi nhau trong tất cả những phiền toái nhỏ nhặt này, và cuối cùng trở nên yêu thương nhau đến nỗi, vì Placida, Vivien đã trở nên rất kiên nhẫn, và vì Vivien, Placida đã có những nỗ lực chưa từng có. |
But now the Fairies who had been watching all these proceedings with interest, thought it was time to interfere, and ascertain by further trials if this improvement was likely to continue, and if they really loved one another. | Nhưng giờ đây, các vị tiên, những người đã theo dõi tất cả những diễn biến này với sự quan tâm, nghĩ rằng đã đến lúc can thiệp và xác định bằng những thử thách xa hơn xem sự cải thiện này có khả năng tiếp tục hay không, và liệu họ có thực sự yêu nhau không. |
So they caused Placida to seem to have a violent fever, and Vivien to languish and grow dull, and made each of them very uneasy about the other, and then, finding a moment when they were apart, the Fairy Mirlifiche suddenly appeared to Placida, and said— ‘I have just seen Prince Vivien, and he seemed to me to be very ill.’ | Vì vậy, họ khiến Placida dường như bị sốt cao, còn Vivien thì héo hon và buồn bã. Họ khiến mỗi người rất lo lắng cho người kia, và sau đó, tìm được một lúc họ ở riêng, Tiên Mirlifiche đột nhiên xuất hiện trước mặt Placida và nói: “Ta vừa gặp Hoàng tử Vivien, và dường như cậu ấy rất ốm.” |
‘Alas! yes, madam,’ she answered, ‘and if you will but cure him, you may take me back to the farm, or bring the Green Giant to life again, and you shall see how obedient I will be.’ | “Than ôi! Vâng, thưa phu nhân,” nàng trả lời, “và nếu ngài chữa khỏi cho chàng, ngài có thể đưa con trở lại trang trại, hoặc hồi sinh tên Khổng Lồ Xanh, và ngài sẽ thấy con sẽ vâng lời như thế nào.” |
‘If you really wish him to recover,’ said the Fairy, ‘you have only to catch the Trotting Mouse and the Chaffinch-on-the-Wing and bring them to me. Only remember that time presses!’ | “Nếu con thực sự muốn cậu ấy bình phục,” bà tiên nói, “con chỉ cần bắt được Chuột Lon Ton và Chim Sẻ Xanh đang bay và mang chúng đến cho ta. Chỉ cần nhớ rằng thời gian không chờ đợi ai!” |
She had hardly finished speaking before the Princess was rushing headlong out of the castle gate, and the Fairy after watching her till she was lost to sight, gave a little chuckle and went in search of the Prince, who begged her earnestly to send him back to the Black Castle, or to the paper boat if she would but save Placida’s life. | Bà vừa dứt lời, Công chúa đã lao như tên bắn ra khỏi cổng lâu đài. Bà tiên nhìn theo cho đến khi nàng khuất bóng, rồi mỉm cười nhẹ và đi tìm Hoàng tử, người đã khẩn khoản xin bà gửi chàng trở lại Lâu đài Đen, hoặc lên con tàu giấy, nếu bà có thể cứu được mạng sống của Placida. |
The Fairy shook her head, and looked very grave. She quite agreed with him, the Princess was in a bad way— ‘But,’ said she, ‘if you can find the Rosy Mole, and give him to her she will recover.’ | Bà tiên lắc đầu, vẻ mặt rất nghiêm nghị. Bà hoàn toàn đồng ý với chàng, Công chúa đang trong tình trạng nguy kịch. “Nhưng,” bà nói, “nếu ngươi có thể tìm thấy Chuột Chũi Hồng, và đưa cho cô ấy, cô ấy sẽ bình phục.” |
So now it was the Prince’s turn to set off in a vast hurry, only as soon as he left the Castle he happened to go in exactly the opposite direction to the one Placida had taken. | Vậy là bây giờ đến lượt Hoàng tử vội vã lên đường. Chỉ có điều, ngay khi chàng rời Lâu đài, chàng tình cờ đi theo hướng hoàn toàn ngược lại với hướng Placida đã đi. |
Now you can imagine these two devoted lovers hunting night and day. | Bây giờ bạn có thể tưởng tượng hai người tình tận tụy này săn lùng ngày đêm. |
The Princess in the woods, always running, always listening, pursuing hotly after two creatures which seemed to her very hard to catch, which she yet never ceased from pursuing. | Nàng Công chúa trong rừng, luôn luôn chạy, luôn luôn lắng nghe, truy đuổi quyết liệt hai sinh vật mà nàng thấy rất khó bắt, nhưng nàng không bao giờ từ bỏ. |
The Prince on the other hand wandering continually across the meadows, his eyes fixed upon the ground, attentive to every movement among the moles. He was forced to walk slowly—slowly upon tip-toe, hardly venturing to breathe. | Còn Hoàng tử thì lang thang không ngừng qua các đồng cỏ, mắt dán chặt xuống đất, chú ý đến mọi cử động của những con chuột chũi. Chàng buộc phải đi chậm—chậm rãi nhón gót, gần như không dám thở. |
Often he stood for hours motionless as a statue, and if the desire to succeed could have helped him he would soon have possessed the Rosy Mole. | Thường thì chàng đứng bất động hàng giờ như một bức tượng, và nếu mong muốn thành công có thể giúp chàng, chàng đã sớm sở hữu được Chuột Chũi Hồng. |
But alas! all that he caught were black and ordinary, though strange to say he never grew impatient, but always seemed ready to begin the tedious hunt again. | Nhưng than ôi! Tất cả những con chàng bắt được đều là loại đen và bình thường, dù lạ lùng là chàng không bao giờ mất kiên nhẫn, mà dường như luôn sẵn sàng bắt đầu lại cuộc săn lùng tẻ nhạt. |
But this changing of character is one of the most ordinary miracles which love works. | Nhưng sự thay đổi tính cách này là một trong những phép màu bình thường nhất mà tình yêu tạo ra. |
Neither the Prince nor the Princess gave a thought to anything but their quest. | Cả Hoàng tử và Công chúa đều không nghĩ đến bất cứ điều gì khác ngoài nhiệm vụ của mình. |
It never even occurred to them to wonder what country they had reached. | Họ thậm chí còn không hề tự hỏi mình đã đến đất nước nào. |
So you may guess how astonished they were one day, when having at last been successful after their long and weary chase, they cried aloud at the same instant: ‘At last I have saved my beloved,’ and then recognising each other’s voice looked up, and rushed to meet one another with the wildest joy. | Vì vậy, bạn có thể đoán được họ đã ngạc nhiên như thế nào vào một ngày nọ, khi cuối cùng đã thành công sau cuộc săn đuổi dài và mệt mỏi, họ đồng thanh hét lên: “Cuối cùng ta đã cứu được người yêu của mình,” rồi nhận ra giọng nói của nhau, ngẩng đầu lên, và lao vào gặp nhau với niềm vui khôn xiết. |
Surprise kept them silent while for one delicious moment they gazed into each other’s eyes, and just then who should come up but King Gridelin, for it was into his kingdom they had accidentally strayed. | Sự ngạc nhiên khiến họ im lặng trong một khoảnh khắc ngọt ngào, họ nhìn sâu vào mắt nhau, và đúng lúc đó, không ai khác chính là Vua Gridelin xuất hiện, vì họ đã vô tình đi lạc vào vương quốc của ngài. |
He recognized them in his turn and greeted them joyfully, but when they turned afterwards to look for the Rosy Mole, the Chaffinch, and the Trotting-Mouse, they had vanished, and in their places stood a lovely lady whom they did not know, the Black Bird, and the Green Giant. | Ngài nhận ra họ và vui mừng chào đón. Nhưng khi họ quay lại để tìm Chuột Chũi Hồng, Chim Sẻ Xanh và Chuột Lon Ton, chúng đã biến mất, và thay vào đó là một phu nhân xinh đẹp mà họ không quen biết, Hắc Điểu và tên Khổng Lồ Xanh. |
King Gridelin had no sooner set eyes upon the lady than with a cry of joy he clasped her in his arms, for it was no other than his long-lost wife, Santorina. | Vua Gridelin vừa nhìn thấy phu nhân, đã kêu lên một tiếng vui mừng và ôm chầm lấy bà, vì đó không ai khác chính là người vợ thất lạc đã lâu của ngài, Santorina. |
Then the Black Bird and the Green Giant resumed their natural form, for they were enchanters, and up flew Lolotte and Mirlifiche in their chariots, and then there was a great kissing and congratulating, for everybody had regained someone he loved, including the enchanters, who loved their natural forms dearly. | Khi đó, Hắc Điểu và tên Khổng Lồ Xanh trở lại hình dạng tự nhiên của mình, vì họ là những pháp sư, và Tiên Lolotte và Tiên Mirlifiche bay đến trên cỗ xe của họ. Rồi là những nụ hôn và lời chúc mừng, vì mọi người đã tìm lại được người mình yêu thương, bao gồm cả các pháp sư, những người rất yêu quý hình dạng tự nhiên của mình. |
After this they repaired to the Palace, and the wedding of Prince Vivien and Princess Placida was held at once with all the splendour imaginable. | Sau đó, họ trở về Cung điện, và đám cưới của Hoàng tử Vivien và Công chúa Placida được tổ chức ngay lập tức với tất cả sự huy hoàng có thể tưởng tượng được. |
King Gridelin and Queen Santorina, after all their experiences had no further desire to reign, so they retired happily to a peaceful place, leaving their kingdom to the Prince and Princess, who were beloved by all their subjects, and found their greatest happiness all their lives long in making other people happy. | Vua Gridelin và Hoàng hậu Santorina, sau tất cả những trải nghiệm của mình, không còn mong muốn trị vì nữa. Họ hạnh phúc lui về một nơi yên bình, để lại vương quốc cho Hoàng tử và Công chúa. Họ được tất cả thần dân yêu mến, và tìm thấy hạnh phúc lớn nhất của mình trong suốt cuộc đời là làm cho người khác hạnh phúc. |
Nonchalante et Papillon | Nonchalante và Papillon |
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.