The Wicked Wolverine | Chồn Gulô Tinh Quái |
---|---|
One day a wolverine was out walking on the hill-side, when, on turning a corner, he suddenly saw a large rock. | Ngày xửa ngày xưa, có một gã chồn Gulô đang thơ thẩn dạo chơi trên sườn đồi. Khi vừa ngoặt qua một khúc quanh, gã bỗng trông thấy một tảng đá lớn sừng sững. |
‘Was that you I heard walking about just now?’ he asked, for wolverines are cautious animals, and always like to know the reasons of things. | “Có phải mi mới đi lại lộc cộc quanh đây không đấy?” gã hỏi, vì loài chồn vốn bản tính đa nghi, luôn muốn tỏ tường mọi sự. |
‘No, certainly not,’ answered the rock; ‘I don’t know how to walk.’ | “Chắc chắn không phải ta,” tảng đá đáp, “ta nào có biết đi.” |
‘But I SAW you walking,’ continued the wolverine. | “Nhưng ta ĐÃ THẤY mi đi mà,” gã chồn vẫn khăng khăng. |
‘I am afraid that you were not taught to speak the truth,’ retorted the rock. | “E rằng ngươi chẳng được ai dạy cho phải đạo,” tảng đá vặn lại. |
‘You need not speak like that, for I have SEEN you walking,’ replied the wolverine, ‘though I am quite sure that you could never catch ME!’ | “Mi không cần phải nói giọng đó, vì ta đã NHÌN THẤY mi đi,” Chồn Gulô đáp, “dù ta chắc mẩm rằng mi chẳng bao giờ bắt kịp TA đâu!” |
and he ran a little distance and then stopped to see if the rock was pursuing him; but, to his vexation, the rock was still in the same place. | Nói rồi, gã chạy một đoạn ngắn, đoạn dừng lại xem tảng đá có đuổi theo không. Nhưng thật bực mình, tảng đá vẫn trơ trơ một chỗ. |
Then the wolverine went up close, and struck the rock a blow with his paw, saying: ‘Well, will you catch me NOW?’ | Gã chồn bèn tiến lại gần, lấy chân vỗ vào tảng đá một cái rồi nói: “Nào, giờ thì mi bắt ta đi?” |
‘I can’t walk, but I can ROLL,’ answered the rock. | “Ta không đi được, nhưng ta lăn được,” tảng đá trả lời. |
And the wolverine laughed and said: ‘Oh, that will do just as well’; and began to run down the side of the mountain. | Chồn Gulô cười phá lên và nói: “Ồ, thế cũng được tuốt!” rồi bắt đầu co cẳng chạy xuống sườn núi. |
At first he went quite slowly, ‘just to give the rock a chance,’ he thought to himself; but soon he quickened his pace, for he found that the rock was almost at his heels. | Ban đầu, gã chỉ chạy tà tà, “để cho tảng đá có cơ hội đuổi theo,” gã nghĩ bụng. Nhưng chẳng mấy chốc gã phải rảo bước nhanh hơn, vì tảng đá đã gần kề gót. |
But the faster the wolverine ran, the faster the rock rolled, and by-and-by the little creature began to get very tired, and was sorry he had not left the rock to itself. | Gã chồn chạy càng nhanh, tảng đá lăn càng gấp. Dần dần, sinh vật bé nhỏ bắt đầu thấm mệt và thấy hối hận vì đã không để cho tảng đá được yên. |
Thinking that if he could manage to put on a spurt he would reach the forest of great trees at the bottom of the mountain, where the rock could not come, he gathered up all his strength, and instead of running he leaped over sticks and stones, but, whatever he did, the rock was always close behind him. | Gã nghĩ, nếu gắng sức thêm một chút nữa, gã sẽ tới được cánh rừng đại thụ dưới chân núi, nơi tảng đá không thể vào được. Gom hết tàn lực, gã không còn chạy nữa mà phóng qua những cành cây, mô đá. Nhưng dù gã làm gì, tảng đá vẫn bám sát ngay sau. |
At length he grew so weary that he could not even see where he was going, and catching his foot in a branch he tripped and fell. | Cuối cùng, gã mệt lử đến độ không còn nhìn rõ đường đi, chân vướng phải một cành cây, gã vấp ngã dúi dụi. |
The rock stopped at once, but there came a shriek from the wolverine: ‘Get off, get off! can’t you see that you are on my legs?’ | Tảng đá dừng lại ngay lập tức, nhưng một tiếng thét thất thanh đã vang lên từ gã chồn: “Lăn ra, lăn ra ngay! Mi không thấy đang đè lên chân ta à?” |
‘Why did you not leave me alone?’ asked the rock. ‘I did not want to move—I hate moving. But you WOULD have it, and I certainly sha’n’t move now till I am forced to.’ | “Sao lúc đầu ngươi không để ta yên?” tảng đá hỏi. “Ta có muốn động đậy đâu, ta ghét di chuyển lắm. Nhưng chính ngươi cứ một mực đòi, nên giờ thì ta sẽ không nhúc nhích cho đến khi bị buộc phải làm vậy.” |
‘I will call my brothers,’ answered the wolverine. ‘There are many of them in the forest, and you will soon see that they are stronger than you.’ | “Ta sẽ gọi các anh em của ta,” Chồn Gulô đáp. “Trong rừng có rất nhiều anh em ta, rồi mi sẽ thấy họ mạnh hơn mi.” |
And he called, and called, and called, till wolves and foxes and all sorts of other creatures all came running to see what was the matter. | Và gã gọi, gọi mãi, gọi mãi, cho đến khi nào sói, nào cáo, cùng đủ loại muông thú khác đều chạy tới xem có chuyện gì. |
‘How DID you get under that rock?’ asked they, making a ring round him; but they had to repeat their question several times before the wolverine would answer, for he, like many other persons, found it hard to confess that he had brought his troubles on himself. | “Làm sao mà mi chui được xuống dưới tảng đá này vậy?” chúng xúm lại quanh gã thành một vòng tròn mà hỏi. Nhưng chúng phải lặp lại câu hỏi vài lần Chồn Gulô mới chịu trả lời, vì cũng như bao kẻ khác, gã thấy thật khó để thú nhận rằng mình đã tự chuốc lấy rắc rối. |
‘Well, I was dull, and wanted someone to play with me,’ he said at last, in sulky voice, ‘and I challenged the rock to catch me. Of course I thought I could run the fastest; but I tripped, and it rolled on me. It was just an accident.’ | “Chà, tại ta buồn chán, muốn có người chơi cùng,” cuối cùng gã cũng chịu nói, giọng hậm hực, “nên ta thách tảng đá đuổi bắt. Dĩ nhiên ta nghĩ mình chạy nhanh hơn, ai ngờ vấp ngã nên nó mới đè lên. Chỉ là tai nạn thôi.” |
‘It serves you right for being so silly,’ said they; but they pushed and hauled at the rock for a long time without making it move an inch. | “Đáng đời cho cái thói ngớ ngẩn của mi,” chúng nói. Dù vậy, chúng vẫn xúm vào đẩy, kéo tảng đá một hồi lâu mà nó chẳng hề xê dịch một phân. |
‘You are no good at all,’ cried the wolverine crossly, for it was suffering great pain, ‘and if you cannot get me free, I shall see what my friends the lightning and thunder can do.’ | “Lũ các người thật vô dụng!” Chồn Gulô gắt gỏng, vì chân gã đang đau điếng. “Nếu các người không giải thoát cho ta được, ta sẽ xem những người bạn sấm chớp của ta làm được gì.” |
And he called loudly to the lightning to come and help him as quickly as possible. | Và gã cất tiếng gọi thật to, cầu xin sấm chớp đến giúp mình càng nhanh càng tốt. |
In a few minutes a dark cloud came rolling up the sky, giving out such terrific claps of thunder that the wolves and the foxes and all the other creatures ran helter-skelter in all directions. | Vài phút sau, một đám mây đen kịt ùn ùn kéo đến, nổ những tiếng sấm vang trời khiến bầy sói, cáo và các loài vật khác sợ hãi chạy tán loạn. |
But, frightened though they were, they did not forget to beg the lightning to take off the wolverine’s coat and to free his legs, but to be careful not to hurt him. | Nhưng dù khiếp sợ, chúng vẫn không quên cầu xin tia chớp hãy lột áo của Chồn Gulô và giải thoát đôi chân cho gã, nhưng phải cẩn thận đừng làm gã bị thương. |
So the lightning disappeared into the cloud for a moment to gather up fresh strength, and then came rushing down, right upon the rock, which it sent flying in all directions, and took the wolverine’s coat so neatly that, though it was torn into tiny shreds, the wolverine himself was quite unharmed. | Thế là tia chớp biến vào trong đám mây một lúc để tích tụ thêm sức mạnh, rồi bất thần lao xuống, giáng thẳng vào tảng đá khiến nó vỡ tan thành trăm mảnh. Tia chớp còn lột phăng chiếc áo của Chồn Gulô một cách điệu nghệ đến nỗi, dù áo bị xé thành những mảnh vụn, bản thân gã lại chẳng hề hấn gì. |
‘That was rather clumsy of you,’ said he, standing up naked in his flesh. ‘Surely you could have split the rock without tearing my coat to bits!’ | “Vụng về quá đấy,” gã nói, trần như nhộng đứng dậy. “Chắc chắn là mi có thể làm vỡ tảng đá mà không xé nát cái áo của ta thành từng mảnh chứ!” |
And he stooped down to pick up the pieces. It took him a long time, for there were a great many of them, but at last he had them all in his hand. | Nói rồi, gã cúi xuống nhặt nhạnh từng mảnh áo. Gã mất khá nhiều thời gian vì có quá nhiều mảnh vụn, nhưng cuối cùng gã cũng gom đủ vào tay. |
‘I’ll go to my sister the frog,’ he thought to himself, ‘and she will sew them together for me’; and he set off at once for the swamp in which his sister lived. | “Mình sẽ đến chỗ chị gái là cô Ếch,” gã nghĩ, “chị ấy sẽ khâu lại áo cho mình.” Và gã lên đường ngay tới đầm lầy nơi chị gái mình sống. |
‘Will you sew my coat together? I had an unlucky accident, and it is quite impossible to wear,’ he said, when he found her. | “Chị khâu lại áo cho em với? Em vừa gặp một tai nạn xúi quẩy, áo rách thế này không mặc được nữa,” gã nói khi tìm thấy cô Ếch. |
‘With pleasure,’ she answered, for she had always been taught to be polite; and getting her needle and thread she began to fit the pieces. | “Rất sẵn lòng,” cô đáp, vì cô luôn được dạy phải lịch sự. Cô lấy kim chỉ ra rồi bắt đầu ráp các mảnh vải lại. |
But though she was very good-natured, she was not very clever, and she got some of the bits wrong. When the wolverine, who was very particular about his clothes, came to put it on, he grew very angry. | Nhưng dù rất tốt bụng, cô lại không khéo léo cho lắm nên đã ghép nhầm một vài mảnh. Khi Chồn Gulô, một kẻ vốn rất kỹ tính về quần áo, mặc thử chiếc áo, gã liền nổi giận. |
‘What a useless creature you are!’ cried he. ‘Do you expect me to go about in such a coat as that? Why it bulges all down the back, as if I had a hump, and it is so tight across the chest that I expect it to burst every time I breathe. I knew you were stupid, but I did not think you were as stupid as that.’ | “Chị đúng là đồ vô tích sự!” gã la lên. “Chị định bắt tôi đi lại trong cái áo như thế này à? Sao lưng lại phồng lên một cục như bị gù thế này? Còn ngực thì chật cứng, thở mạnh một cái là bung chỉ mất! Tôi biết chị ngu ngốc, nhưng không ngờ lại đến mức này.” |
And giving the poor frog a blow on her head, which knocked her straight into the water, he walked off in a rage to his younger sister the mouse. | Nói rồi gã giáng cho cô Ếch đáng thương một cú vào đầu, khiến cô lộn nhào xuống nước, còn gã thì tức tối bỏ đi tìm em gái út là cô Chuột. |
‘I tore my coat this morning,’ he began, when he had found her sitting at the door of her house eating an apple. ‘It was all in little bits, and I took it to our sister the frog to ask her to sew it for me. But just look at the way she has done it! You will have to take it to pieces and fit them together properly, and I hope I shall not have to complain again.’ | “Sáng nay áo anh bị rách,” gã bắt đầu câu chuyện khi thấy cô đang ngồi ở cửa hang gặm một quả táo. “Nó rách tươm ra, anh mang đến cho chị Ếch khâu lại. Nhưng em nhìn xem chị ấy làm ăn kiểu gì này! Em phải tháo nó ra rồi ráp lại cho tử tế. Mong là anh sẽ không phải phàn nàn thêm lần nào nữa.” |
For as the wolverine was older than the mouse, he was accustomed to speak to her in this manner. | Vì là anh lớn, Chồn Gulô đã quen nói chuyện với cô Chuột theo kiểu ra lệnh như vậy. |
However, the mouse was used to it and only answered: ‘I think you had better stay here till it is done, and if there is any alteration needed I can make it.’ | Tuy nhiên, cô Chuột cũng đã quen và chỉ đáp: “Hay là anh cứ ở lại đây chờ em khâu xong. Nếu có chỗ nào cần sửa, em sửa lại luôn cho tiện.” |
So the wolverine sat down on a heap of dry ferns, and picking up the apple, he finished it without even asking the mouse’s leave. | Thế là Chồn Gulô ngồi phịch xuống một đống lá dương xỉ khô, nhặt lấy quả táo và ăn nốt phần còn lại mà chẳng thèm hỏi ý cô Chuột. |
At last the coat was ready, and the wolverine put it on. | Cuối cùng, chiếc áo cũng xong, và Chồn Gulô mặc vào. |
‘Yes, it fits very well,’ said he, ‘and you have sewn it very neatly. When I pass this way again I will bring you a handful of corn, as a reward‘; and he ran off as smart as ever, leaving the mouse quite grateful behind him. | “Ừ, vừa vặn lắm,” gã nói, “em khâu cũng khéo nữa. Khi nào đi ngang qua đây, anh sẽ mang cho em một vốc ngô để thưởng.” Nói rồi gã chạy đi, bảnh bao như mọi khi, bỏ lại cô Chuột phía sau với lòng biết ơn. |
He wandered about for many days, till he reached a place where food was very scarce, and for a whole week he went without any. | Gã lang thang nhiều ngày, cho đến khi đến một nơi vô cùng khan hiếm thức ăn. Cả một tuần liền gã không có gì bỏ vào bụng. |
He was growing desperate, when he suddenly came upon a bear that was lying asleep. | Đang lúc tuyệt vọng, gã bỗng bắt gặp một con gấu đang nằm ngủ say. |
‘Ah! here is food at last!’ thought he; but how was he to kill the bear, who was so much bigger than himself? | “A! Có đồ ăn rồi!” gã nghĩ bụng. Nhưng làm sao để giết được con gấu to hơn mình rất nhiều? |
It was no use to try force, he must invent some cunning plan which would get her into his power. | Dùng sức là vô ích, gã phải nghĩ ra một mưu kế xảo quyệt để khống chế nó. |
At last, after thinking hard, he decided upon something, and going up to the bear, he exclaimed: ‘Is that you, my sister?’ | Sau một hồi đăm chiêu, gã quyết định được một kế, liền tiến đến bên con gấu và cất tiếng: “Có phải em gái đó không?” |
The bear turned round and saw the wolverine, and murmuring to herself, so low that nobody could hear, ‘I never heard before that I had a brother,’ got up and ran quickly to a tree, up which she climbed. | Con gấu quay lại nhìn thấy gã chồn và lẩm bẩm trong miệng, nhỏ đến nỗi không ai nghe thấy: “Trước giờ ta có nghe mình có anh trai đâu nhỉ.” Đoạn nó đứng dậy, chạy nhanh đến một cái cây rồi thoăn thoắt trèo lên. |
Now the wolverine was very angry when he saw his dinner vanishing in front of him, especially as HE could not climb trees like the bear, so he followed, and stood at the foot of the tree, shrieking as loud as he could, ‘Come down, sister; our father has sent me to look for you! You were lost when you were a little girl and went out picking berries, and it was only the other day that we heard from a beaver where you were.’ | Chồn Gulô tức điên lên khi thấy bữa tối của mình đang biến mất ngay trước mắt, nhất là khi GÃ không biết trèo cây như gấu. Gã bèn đuổi theo, đứng dưới gốc cây và gào lên thật to: “Xuống đây đi, em gái! Cha sai anh đi tìm em đấy! Em bị lạc từ hồi còn nhỏ, lúc đi hái dâu rừng, mãi gần đây bọn anh mới nghe tin từ một bác hải ly, biết em đang ở đây.” |
At these words, the bear came a little way down the tree, and the wolverine, seeing this, went on: | Nghe những lời này, cô Gấu trèo xuống một đoạn, và Chồn Gulô thấy vậy liền nói tiếp: |
‘Are you not fond of berries? I am! And I know a place where they grow so thick the ground is quite hidden. Why, look for yourself! That hillside is quite red with them!’ | “Em không thích dâu rừng à? Anh thì thích lắm! Anh biết một nơi quả mọc dày đặc, che kín cả mặt đất. Kia kìa, em tự nhìn xem! Cả sườn đồi đằng ấy đỏ rực vì quả chín đó!” |
‘I can’t see so far,’ answered the bear, now climbing down altogether. ‘You must have wonderfully good eyes! I wish I had; but my sight is very short.’ | “Em không nhìn xa được thế,” cô Gấu đáp, lúc này đã hoàn toàn trèo xuống đất. “Anh hẳn là có đôi mắt tinh tường tuyệt vời! Ước gì em cũng được như vậy, mắt em kém lắm.” |
‘So was mine till my father smashed a pailful of cranberries, and rubbed my eyes with them,’ replied the wolverine. ‘But if you like to go and gather some of the berries I will do just as he did, and you will soon be able to see as far as me.’ | “Mắt anh trước kia cũng vậy, cho đến khi cha anh giã nát một xô quả mọng đỏ rồi xoa vào mắt cho anh đấy,” Chồn Gulô đáp. “Nhưng nếu em chịu khó đi hái một ít quả về đây, anh sẽ làm y như cha đã làm, và chẳng mấy chốc em sẽ nhìn xa được như anh.” |
It took the bear a long while to gather the berries, for she was slow about everything, and, besides, it made her back ache to stoop. But at last she returned with a sackful, and put them down beside the wolverine. | Cô Gấu mất một lúc lâu mới hái xong quả, vì cô vốn chậm chạp trong mọi việc, thêm nữa, cúi người làm lưng cô rất mỏi. Nhưng cuối cùng, cô cũng trở về với một bao đầy quả và đặt xuống bên cạnh Chồn Gulô. |
‘That is splendid, sister!’ cried the wolverine. ‘Now lie flat on the ground with your head on this stone, while I smash them.’ | “Tuyệt vời, em gái!” gã chồn kêu lên. “Giờ thì nằm thẳng ra đất, gối đầu lên hòn đá này, trong lúc anh giã quả nhé.” |
The bear, who was very tired, was only too glad to do as she was bid, and stretched herself comfortably on the grass. | Cô Gấu, vốn đã rất mệt, sung sướng làm theo lời gã, duỗi mình thoải mái trên bãi cỏ. |
‘I am ready now,’ said the wolverine after a bit; ‘just at first you will find that the berries make your eyes smart, but you must be careful not to move, or the juice will run out, and then it will have to be done all over again.’ | “Anh chuẩn bị xong rồi đây,” Chồn Gulô nói sau một lát. “Mới đầu, nước quả sẽ làm mắt em hơi xót, nhưng em phải cẩn thận không được cử động, nếu không nước sẽ chảy ra ngoài hết, rồi lại phải làm lại từ đầu đấy.” |
So the bear promised to lie very still; but the moment the cranberries touched her eyes she sprang up with a roar. | Thế là cô Gấu hứa sẽ nằm thật yên. Nhưng ngay khoảnh khắc nước quả chạm vào mắt, cô gầm lên một tiếng rồi bật dậy. |
‘Oh, you mustn’t mind a little pain,’ said the wolverine, ‘it will soon be over, and then you will see all sorts of things you have never dreamt of.’ | “Ồ, em đừng bận tâm đến chút đau đớn,” Chồn Gulô nói, “sẽ qua nhanh thôi, rồi em sẽ thấy được đủ mọi thứ mà em chưa từng mơ tới.” |
The bear sank down with a groan, and as her eyes were full of cranberry juice, which completely blinded her, the wolverine took up a sharp knife and stabbed her to the heart. | Cô Gấu rên rỉ rồi nằm vật xuống. Khi đôi mắt Gấu đã cay xè vì nước quả và chẳng còn nhìn thấy gì nữa, Chồn Gulô liền rút ra một con dao sắc nhọn, đâm một nhát thấu tim. |
Then he took off the skin, and, stealing some fire from a tent, which his sharp eyes had perceived hidden behind a rock, he set about roasting the bear bit by bit. | Sau đó gã lột da, rồi đi ăn trộm một ít lửa từ cái lều mà đôi mắt tinh tường của gã đã phát hiện ra sau một mỏm đá, đoạn bắt đầu nướng từng miếng thịt gấu. |
He thought the meat was the best he ever had tasted, and when dinner was done he made up his mind to try that same trick again, if ever he was hungry. | Gã thầm nghĩ đây là thứ thịt ngon nhất gã từng được ăn, và sau khi đánh chén no nê, gã quyết rằng sau này hễ đói, gã sẽ lại dùng chiêu này. |
And very likely he did! | Và rất có thể, gã đã làm vậy thật. |
[Adapted from Bureau of Ethnology.] | [Phỏng theo Cục Dân tộc học Hoa Kỳ.] |
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.
Ý Nghĩa Câu Chuyện “Chồn Gulô Tinh Quái”
Ý Nghĩa Cốt Lõi:
Câu chuyện là một lời cảnh tỉnh về sự kiêu ngạo, dại dột và thói không chịu trách nhiệm. Nó cho thấy những kẻ có bản tính ích kỷ, độc ác và không bao giờ biết hối cải sẽ liên tục gây ra rắc rối cho chính mình và tai họa cho người khác.
1. Sự Kiêu Ngạo và Dại Dột Dẫn Đến Tai Họa
2. Thói Đổ Lỗi và Không Chịu Trách Nhiệm
3. Cách Đối Nhân Xử Thế và Bản Chất Các Mối Quan Hệ
Câu chuyện khắc họa cách Chồn Gulô đối xử với các “chị em” của mình:
4. Vòng Lặp Của Sự Tinh Quái và Tàn Ác (Không có sự hối cải)
Kết Luận
“Chồn Gulô Tinh Quái” là một câu chuyện ngụ ngôn xuất sắc, sử dụng hình ảnh các con vật để phản ánh những thói hư tật xấu của con người. Nó không chỉ là một câu chuyện giải trí, mà còn là một bài học đạo đức sâu sắc về hậu quả của sự kiêu ngạo, ích kỷ, và cảnh báo về những kẻ xảo quyệt không bao giờ biết hối cải.