27 – Rubezahl

Rubezahl Rubezahl
Over all the vast under-world the mountain Gnome Rubezahl was lord; and busy enough the care of his dominions kept him. Khắp cõi lòng đất bao la, Thần Núi Rubezahl là bậc chúa tể; và công việc cai quản vương quốc của ngài cũng đủ khiến ngài bận rộn không ngơi.
There were the endless treasure chambers to be gone through, and the hosts of gnomes to be kept to their tasks. Ngài phải đi qua vô số những kho báu bất tận và đốc thúc đám thần lùn thuộc hạ làm việc.
Some built strong barriers to hold back the fiery vapours to change dull stones to precious metal, or were hard at work filling every cranny of the rocks with diamonds and rubies; for Rubezahl loved all pretty things. Kẻ thì xây nên những bức tường thành kiên cố để ngăn chặn luồng khí lửa, người thì biến những viên đá vô tri thành kim loại quý, kẻ khác lại cần mẫn lấp đầy mọi kẽ đá bằng kim cươnghồng ngọc; bởi lẽ, Rubezahl yêu hết thảy những gì lấp lánh xinh đẹp.
Sometimes the fancy would take him to leave those gloomy regions, and come out upon the green earth for a while, and bask in the sunshine and hear the birds sing. Đôi khi, ngài hứng chí rời khỏi vương quốc u tối để lên chốn trần gian xanh tươi một lúc, tắm mình trong nắng ấm và lắng nghe tiếng chim ca.
And as gnomes live many hundreds of years he saw strange things. Và vì loài thần lùn sống đến hàng trăm năm tuổi, ngài đã chứng kiến bao điều kỳ lạ.
For, the first time he came up, the great hills were covered with thick forests, in which wild animals roamed, and Rubezahl watched the fierce fights between bear and bison, or chased the grey wolves, or amused himself by rolling great rocks down into the desolate valleys, to hear the thunder of their fall echoing among the hills. Lần đầu tiên ngài trồi lên mặt đất, những ngọn đồi hùng vĩ vẫn còn phủ kín rừng rậm, nơi muông thú hoang dã lang thang. Rubezahl thích thú dõi theo những cuộc giao tranh khốc liệt giữa gấu và bò rừng, hoặc rượt đuổi đàn sói xám, hoặc tự tiêu khiển bằng cách lăn những tảng đá khổng lồ xuống thung lũng hoang vu để lắng nghe tiếng gầm vang vọng giữa điệp trùng đồi núi.
But the next time he ventured above ground, what was his surprise to find everything changed! Nhưng đến lần mạo hiểm tiếp theo lên trần gian, ngài đã kinh ngạc biết bao khi thấy mọi thứ đổi thay!
The dark woods were hewn down, and in their place appeared blossoming orchards surrounding cosy-looking thatched cottages; for every chimney the blue smoke curled peacefully into the air, sheep and oxen fed in the flowery meadows, while from the shade of the hedges came the music of the shepherd’s pipe. Những cánh rừng âm u đã bị đốn hạ, thay vào đó là những vườn cây ăn trái trổ hoa rực rỡ, bao quanh những mái nhà tranh ấm cúng nép mình; từ mỗi ống khói, làn khói lam hiền hòa cuộn lên giữa không trung, cừu và bò thung thăng gặm cỏ trên những đồng hoa, còn từ trong bóng râm của hàng rào, vẳng lại tiếng sáo mục đồng du dương.
The strangeness and pleasantness of the sight so delighted the gnome that he never thought of resenting the intrusion of these unexpected guests, who, without saying ‘by your leave’ or ‘with your leave,’ had made themselves so very much at home upon his hills; nor did he wish to interfere with their doings, but left them in quiet possession of their homes, as a good householder leaves in peace the swallows who have built their nests under his eaves. Cảnh tượng vừa lạ lẫm vừa nên thơ này khiến vị thần lùn vui đến nỗi, ngài chẳng hề nghĩ đến việc bực tức vì sự xâm phạm của những vị khách không mời mà đến này. Họ, chẳng một lời thưa gửi, đã tự biến những ngọn đồi của ngài thành chốn an cư. Ngài cũng chẳng muốn can dự vào việc của họ, mà cứ để họ yên ổn sở hữu mái nhà của mình, giống như một người chủ nhân hậu để mặc cho bầy én làm tổ bình yên dưới mái hiên.
He was indeed greatly minded to make friends with this being called ‘man,’ so, taking the form of an old field labourer, he entered the service of a farmer. Thật ra, ngài còn vô cùng muốn kết giao với loài sinh vật được gọi là “con người“, nên ngài đã hóa thân thành một lão nông, vào làm thuê cho một chủ trại.
Under his care all the crops flourished exceedingly, but the master proved to be wasteful and ungrateful, and Rubezahl soon left him, and went to be shepherd to his next neighbour. Dưới bàn tay chăm sóc của ngài, mùa màng tốt tươi lạ thường, nhưng người chủ lại tỏ ra hoang phí và vô ơn. Rubezahl chẳng bao lâu sau bèn bỏ đi, đến làm người chăn cừu cho nhà hàng xóm.
He tended the flock so diligently, and knew so well where to lead the sheep to the sweetest pastures, and where among the hills to look for any who strayed away, that they too prospered under his care, and not one was lost or torn by wolves; but this new master was a hard man, and begrudged him his well-earned wages. Ngài chăm sóc đàn cừu vô cùng cần mẫn, lại biết rõ nơi nào có đồng cỏ ngọt lành nhất, nơi nào trên đồi để tìm những con cừu đi lạc, nên bầy gia súc cũng sinh sôi nảy nở, không một con nào bị mất hay bị sói vồ; nhưng người chủ mới này lại là một kẻ keo kiệt, còn tiếc rẻ cả đồng lương xứng đáng của ngài.
So he ran away and went to serve the judge. Thế là ngài lại bỏ trốn, và đến phục vụ cho một vị quan tòa.
Here he upheld the law with might and main, and was a terror to thieves and evildoers; but the judge was a bad man, who took bribes, and despised the law. Tại đây, ngài ra sức bảo vệ công lý và là nỗi kinh hoàng của bọn trộm cắp, kẻ gian; nhưng vị quan tòa lại là một kẻ xấu xa, chuyên nhận hối lộ và xem thường luật pháp.
Rubezahl would not be the tool of an unjust man, and so he told his master, who thereupon ordered him to be thrown in prison. Rubezahl không muốn trở thành công cụ cho một kẻ bất chính, ngài bèn nói thẳng với chủ. Tức thì, lão ta ra lệnh tống ngài vào ngục.
Of course that did not trouble the gnome at all, he simply got out through the keyhole, and went away down to his underground palace, very much disappointed by his first experience of mankind. Dĩ nhiên, điều đó chẳng hề làm khó được vị thần lùn, ngài chỉ đơn giản lách mình qua lỗ khóa và trở về cung điện dưới lòng đất, lòng vô cùng thất vọng sau những trải nghiệm đầu tiên về loài người.
But, as time went on, he forgot the disagreeable things that had happened to him, and thought he would take another look at the upper world. Nhưng rồi, thời gian trôi qua, ngài cũng quên đi những chuyện không vui, và lại nghĩ đến việc dạo chơi chốn trần gian thêm lần nữa.
So he stole into the valley, keeping himself carefully hidden in copse or hedgerow, and very soon met with an adventure; for, peeping through a screen of leaves, he saw before him a green lawn where stood a charming maiden, fresh as the spring, and beautiful to look upon. Lần này, ngài lẻn vào thung lũng, cẩn thận ẩn mình trong những lùm câybụi rậm, và chẳng mấy chốc đã gặp một cuộc phiêu lưu; qua vòm lá, ngài thấy trước mắt là một bãi cỏ xanh mướt, nơi có một thiếu nữ kiều diễm, tươi tắn như mùa xuân và đẹp đến nao lòng đang đứng đó.
Around her upon the grass lay her young companions, as if they had thrown themselves down to rest after some merry game. Xung quanh nàng trên bãi cỏ, các bạn gái nằm ngả nghiêng, dường như họ vừa nghỉ chân sau một trò chơi vui nhộn nào đó.
Beyond them flowed a little brook, into which a waterfall leapt from a high rock, filling the air with its pleasant sound, and making a coolness even in the sultry noontide. Xa hơn một chút là con suối nhỏ, có ngọn thác từ mỏm đá cao đổ xuống, làm không khí vang lên những thanh âm dễ chịu và mang đến sự mát mẻ ngay giữa buổi trưa oi ả.
The sight of the maiden so pleased the gnome that, for the first time, he wished himself a mortal; and, longing for a better view of the gay company, he changed himself into a raven and perched upon an oaktree which overhung the brook. Vẻ đẹp của nàng thiếu nữ làm say lòng vị thần lùn đến độ, lần đầu tiên trong đời, ngài ước mình là một người trần; mong mỏi được ngắm nhìn rõ hơn đám người vui vẻ, ngài biến thành một con quạ đen và đậu trên một cây sồi vươn cành ra che bóng con suối.
But he soon found that this was not at all a good plan. Nhưng ngài sớm nhận ra đây không phải là một kế hay.
He could only see with a raven’s eyes, and feel as a raven feels; and a nest of field-mice at the foot of the tree interested him far more than the sport of the maidens. Ngài chỉ có thể nhìn bằng đôi mắt của quạ, và cảm nhận như một con quạ; rồi một ổ chuột đồng dưới gốc cây lại thu hút ngài hơn cả những trò đùa của các thiếu nữ.
When he understood this he flew down again in a great hurry into the thicket, and took the form of a handsome young man—that was the best way—and he fell in love with the girl then and there. Khi hiểu ra điều đó, ngài vội vàng bay xuống bụi rậm, và biến thành một chàng trai trẻ tuấn tú – đó mới là cách tốt nhất – và ngay lập tức, ngài đã phải lòng nàng.
The fair maiden was the daughter of the king of the country, and she often wandered in the forest with her play fellows gathering the wild flowers and fruits, till the midday heat drove the merry band to the shady lawn by the brook to rest, or to bathe in the cool waters. Thiếu nữ diễm lệ ấy chính là con gái của nhà vua trị vì xứ sở này; nàng thường cùng bạn bè dạo chơi trong rừng, hái hoa thơm quả dại, cho đến khi cái nóng ban trưa xua cả đám đến bãi cỏ rợp bóng bên suối để nghỉ ngơi hoặc tắm trong làn nước mát.
On this particular morning the fancy took them to wander off again into the wood. Sáng hôm ấy, họ lại nổi hứng đi sâu hơn vào rừng.
This was Master Rubezahl’s opportunity. Đây chính là cơ hội của Rubezahl.
Stepping out of his hiding-place he stood in the midst of the little lawn, weaving his magic spells, till slowly all about him changed, and when the maidens returned at noon to their favourite resting-place they stood lost in amazement, and almost fancied that they must be dreaming. Bước ra khỏi nơi ẩn nấp, ngài đứng giữa bãi cỏ, thầm thì những câu thần chú; dần dần, vạn vật xung quanh ngài thay đổi. Khi các nàng thiếu nữ trở lại nơi nghỉ chân yêu thích vào buổi trưa, họ đứng sững sờ trong kinh ngạc, gần như ngỡ mình đang mơ.
The red rocks had become white marble and alabaster; the stream that murmured and struggled before in its rocky bed, flowed in silence now in its smooth channel, from which a clear fountain leapt, to fall again in showers of diamond drops, now on this side now on that, as the wandering breeze scattered it. Những mỏm đá đỏ ngày nào đã biến thành đá cẩm thạch trắng và thạch cao tuyết; con suối vốn róc rách len lỏi qua lòng đá giờ đây lặng lẽ chảy trong một lòng kênh mịn màng, từ đó một đài phun nước trong vắt vọt lên, rồi lại rơi xuống thành những cơn mưa long lanh như kim cương, lúc thì bên này, lúc lại bên kia, theo làn gió lang thang.
Daisies and forget-me-nots fringed its brink, while tall hedges of roses and jasmine ringed it round, making the sweetest and daintiest bower imaginable. Hoa cúc và lưu ly viền quanh bờ suối, trong khi những hàng rào cao của hoa hồng và hoa nhài vây lấy, tạo nên một vọng lâu ngọt ngào và duyên dáng không bút nào tả xiết.
To the right and left of the waterfall opened out a wonderful grotto, its walls and arches glittering with many-coloured rock-crystals, while in every niche were spread out strange fruits and sweetmeats, the very sight of which made the princess long to taste them. Bên phải và trái của ngọn thác, một hang động diệu kỳ mở ra, tường và vòm hang lấp lánh thạch anh đủ màu, còn trong mỗi hốc tường lại bày la liệt những thứ trái cây lạ và mứt ngọt, chỉ nhìn thôi cũng khiến công chúa thèm nếm thử.
She hesitated a while, however, scarcely able to believe her eyes, and not knowing if she should enter the enchanted spot or fly from it. Tuy nhiên, nàng có phần do dự, gần như không tin vào mắt mình, và chẳng biết nên bước vào chốn tiên cảnh này hay nên chạy trốn.
But at length curiosity prevailed, and she and her companions explored to their heart’s content, and tasted and examined everything, running hither and thither in high glee, and calling merrily to each other. Nhưng cuối cùng, trí tò mò đã chiến thắng; nàng cùng các bạn thỏa sức khám phá, nếm thử và ngắm nghía mọi thứ, chạy nhảy đây đó trong niềm hân hoan tột độ, và gọi nhau í ới.
At last, when they were quite weary, the princess cried out suddenly that nothing would content her but to bathe in the marble pool, which certainly did look very inviting; and they all went gaily to this new amusement. Cuối cùng, khi đã mệt nhoài, công chúa bỗng reo lên rằng nàng chỉ muốn được tắm trong hồ cẩm thạch kia, nơi trông thật mời gọi; và cả bọn lại vui vẻ đến với trò tiêu khiển mới.
The princess was ready first, but scarcely had she slipped over the rim of the pool when down—down—down she sank, and vanished in its depths before her frightened playmates could seize her by so much as a lock of her floating golden hair! Công chúa là người chuẩn bị xong trước tiên, nhưng ngay khi nàng vừa trượt chân qua vành hồ, nàng cứ thế chìm xuống – xuống – xuống mãi, và biến mất vào lòng hồ sâu thẳm trước khi những người bạn hoảng hốt của nàng kịp níu lấy dù chỉ là một lọn tóc vàng óng ả đang trôi nổi!
Loudly did they weep and wail, running about the brink of the pool, which looked so shallow and so clear, but which had swallowed up their princess before their eyes. Họ khóc lóc và than van thảm thiết, chạy quanh bờ hồ, nơi trông vừa nông vừa trong, nhưng lại vừa nuốt chửng công chúa của họ ngay trước mắt.
They even sprang into the water and tried to dive after her, but in vain; they only floated like corks in the enchanted pool, and could not keep under water for a second. Họ thậm chí còn nhảy xuống nước và cố lặn theo nàng, nhưng vô ích; họ chỉ nổi lềnh bềnh như những chiếc nút bần trong hồ nước thần, và không thể nào chìm xuống được dù chỉ một giây.
They saw at last that there was nothing for it but to carry to the king the sad tidings of his beloved daughter’s disappearance. Cuối cùng họ nhận ra rằng không còn cách nào khác ngoài việc mang hung tin về sự biến mất của công chúa yêu quý đến cho nhà vua.
And what great weeping and lamentation there was in the palace when the dreadful news was told! Và rồi, trong cung điện, biết bao tiếng khóc than và ai oán vang lên khi tin dữ được báo!
The king tore his robes, dashed his golden crown from his head, and hid his face in his purple mantle for grief and anguish at the loss of the princess. Nhà vua xé toạc áo bào, ném vương miện vàng khỏi đầu, và úp mặt vào chiếc áo choàng màu tím vì đau buồn và thống khổ trước sự mất mát của con gái.
After the first outburst of wailing, however, he took heart and hurried off to see for himself the scene of this strange adventure, thinking, as people will in sorrow, that there might be some mistake after all. Tuy nhiên, sau cơn bộc phát sầu thảm đầu tiên, ngài lấy lại can đảm và vội vã đi xem xét tận nơi xảy ra câu chuyện kỳ lạ này, trong lòng vẫn hy vọng rằng, như người ta thường nghĩ trong lúc đau khổ, có lẽ đã có sự nhầm lẫn nào đó.
But when he reached the spot, behold, all was changed again! Nhưng khi ngài đến nơi, than ôi, mọi thứ đã thay đổi một lần nữa!
The glittering grotto described to him by the maidens had completely vanished, and so had the marble bath, the bower of jasmine; instead, all was a tangle of flowers, as it had been of old. Hang động lấp lánh mà các thị nữ mô tả đã hoàn toàn biến mất, bể tắm cẩm thạch, vòm hoa nhài cũng vậy; thay vào đó, chỉ còn lại một thảm hoa dại đan xen như ngày xưa.
The king was so much perplexed that he threatened the princess’s playfellows with all sorts of punishments if they would not confess something about her disappearance; but as they only repeated the same story he presently put down the whole affair to the work of some sprite or goblin, and tried to console himself for his loss by ordering a grand hunt; for kings cannot bear to be troubled about anything long. Nhà vua bối rối đến độ doạ dẫm sẽ trừng phạt các bạn của công chúa bằng đủ mọi hình thức nếu họ không thú nhận điều gì đó về sự mất tích của nàng; nhưng vì họ chỉ lặp đi lặp lại cùng một câu chuyện, ngài đành cho rằng toàn bộ sự việc là do một yêu tinh hay quỷ lùn nào đó gây ra, và cố gắng tự an ủi mình bằng cách ra lệnh tổ chức một cuộc săn lớn; vì các vị vua không thể chịu đựng được việc phiền muộn quá lâu về bất cứ điều gì.
Meanwhile the princess was not at all unhappy in the palace of her elfish lover. Trong khi đó, công chúa chẳng hề buồn khổ trong cung điện của người tình tinh linh của mình.
When the water-nymphs, who were hiding in readiness, had caught her and dragged her out of the sight of her terrified maidens, she herself had not had time to be frightened. Khi các tiên nữ dưới nước, vốn đã nấp sẵn, bắt lấy và kéo nàng khỏi tầm mắt của các thị nữ đang kinh hãi, bản thân nàng còn chưa kịp sợ.
They swam with her quickly by strange underground ways to a palace so splendid that her father’s seemed but a poor cottage in comparison with it, and when she recovered from her astonishment she found herself seated upon a couch, wrapped in a wonderful robe of satin fastened with a silken girdle, while beside her knelt a young man who whispered the sweetest speeches imaginable in her ear. Họ nhanh chóng đưa nàng đi qua những lối đi kỳ lạ dưới lòng đất đến một cung điện lộng lẫy đến nỗi cung điện của vua cha nàng trông chỉ như một túp lều nghèo nàn khi so sánh; khi đã hết ngạc nhiên, nàng thấy mình đang ngồi trên một chiếc ghế dài, khoác trên mình chiếc áo choàng sa tanh tuyệt đẹp thắt bằng đai lụa, trong khi bên cạnh nàng là một chàng trai trẻ đang quỳ gối, thì thầm những lời ngọt ngào nhất vào tai nàng.
The gnome, for he it was, told her all about himself and his great underground kingdom, and presently led her through the many rooms and halls of the palace, and showed her the rare and wonderful things displayed in them till she was fairly dazzled at the sight of so much splendour. Vị thần lùn, chính là ngài, đã kể cho nàng nghe mọi chuyện về bản thân và vương quốc dưới lòng đất vĩ đại của ngài, rồi dẫn nàng đi qua nhiều phòng và đại sảnh của cung điện, chỉ cho nàng xem những vật phẩm quý hiếm và kỳ diệu được trưng bày, cho đến khi nàng hoa mắt trước sự huy hoàng ấy.
On three sides of the castle lay a lovely garden with masses of gay, sweet flowers, and velvet lawns all cool and shady, which pleased the eye of the princess. Ba mặt của tòa lâu đài là một khu vườn đáng yêu với những khóm hoa rực rỡ, ngọt ngào và những thảm cỏ nhung mát rượi, làm vui mắt công chúa.
The fruit trees were hung with golden and rosy apples, and nightingales sang in every bush, as the gnome and the princess wandered in the leafy alleys, sometimes gazing at the moon, sometimes pausing to gather the rarest flowers for her adornment. Những cây ăn trái trĩu nặng táo vàng và táo hồng, và trong mỗi bụi cây, chim sơn ca cất tiếng hót, khi vị thần lùn và công chúa dạo bước trên những lối đi rợp bóng lá, khi thì ngắm trăng, khi thì dừng lại để hái những bông hoa quý nhất cho nàng trang điểm.
And all the time he was thinking to himself that never, during the hundreds of years he had lived, had he seen so charming a maiden. Và suốt thời gian ấy, ngài thầm nghĩ rằng chưa bao giờ, trong suốt hàng trăm năm ngài đã sống, ngài từng thấy một thiếu nữ duyên dáng đến vậy.
But the princess felt no such happiness; in spite of all the magic delights around her she was sad, though she tried to seem content for fear of displeasing the gnome. Nhưng công chúa không cảm thấy hạnh phúc như thế; bất chấp tất cả những điều kỳ diệu xung quanh, nàng vẫn buồn, dù cố tỏ ra mãn nguyện vì sợ làm phật lòng vị thần lùn.
However, he soon perceived her melancholy, and in a thousand ways strove to dispel the cloud, but in vain. Tuy nhiên, ngài sớm nhận ra nỗi u sầu của nàng, và đã tìm ngàn cách để xua tan đám mây u ám đó, nhưng vô ích.
At last he said to himself: ‘Men are sociable creatures, like bees or ants. Doubtless this lovely mortal is pining for company. Who is there I can find for her to talk to?’ Cuối cùng, ngài tự nhủ: “Con người là sinh vật có tính xã hội, giống như ong hay kiến. Chắc hẳn nàng trần thế xinh đẹp này đang khao khát có bạn bè. Ta có thể tìm ai cho nàng trò chuyện đây?”
Thereupon he hastened into the nearest filed and dug up a dozen or so of different roots—carrots, turnips, and radishes—and laying them carefully in an elegant basket brought them to the princess, who sat pensive in the shade of the rose-bower. Nói là làm, ngài vội vã ra cánh đồng gần nhất, đào lên khoảng một tá củ các loại – cà rốt, củ cải, củ dền – rồi đặt chúng cẩn thận vào một chiếc giỏ thanh lịch và mang đến cho công chúa, lúc ấy đang ngồi trầm ngâm dưới bóng giàn hồng.
‘Loveliest daughter of earth,’ said the gnome, ‘banish all sorrow; no more shall you be lonely in my dwelling. In this basket is all you need to make this spot delightful to you. Take this little many-coloured wand, and with a touch give to each root the form you desire to see.’ ‘Hỡi con gái kiều diễm nhất của trần gian,’ vị thần lùn nói, ‘hãy xua tan mọi sầu muộn; người sẽ không còn cô đơn trong lâu đài của ta nữa. Trong giỏ này là tất cả những gì người cần để biến nơi đây thành chốn vui vẻ. Hãy cầm lấy cây đũa thần nhiều màu này, và chỉ bằng một cái chạm nhẹ, hãy biến mỗi củ thành hình dạng người muốn thấy.’
With this he left her, and the princess, without an instant’s delay, opened the basket, and touching a turnip, cried eagerly: ‘Brunhilda, my dear Brunhilda! come to me quickly!’ Nói rồi, ngài bỏ đi, và công chúa, không một chút chần chừ, liền mở giỏ ra. Nàng chạm vào một củ cải, háo hức kêu lên: “Brunhilda, Brunhilda thân yêu của ta! Hãy đến đây mau!”
And sure enough there was Brunhilda, joyfully hugging and kissing her beloved princess, and chattering as gaily as in the old days. Và chắc chắn rồi, Brunhilda đã ở đó, vui mừng ôm hôn công chúa yêu quý của mình, và tíu tít nói chuyện như những ngày xưa.
This sudden appearance was so delightful that the princess could hardly believe her own eyes, and was quite beside herself with the joy of having her dear playfellow with her once more. Sự xuất hiện bất ngờ này thú vị đến nỗi công chúa gần như không tin vào mắt mình, và nàng mừng rỡ khôn xiết khi có lại người bạn thân thiết bên cạnh.
Hand in hand they wandered about the enchanted garden, and gathered the golden apples from the trees, and when they were tired of this amusement the princess led her friend through all the wonderful rooms of the palace, until at last they came to the one in which were kept all the marvellous dresses and ornaments the gnome had given to his hoped-for bride. Tay trong tay, họ dạo chơi trong khu vườn thần tiên, hái những quả táo vàng trên cây, và khi đã mệt, công chúa dẫn bạn đi qua tất cả các phòng lộng lẫy của cung điện, cho đến khi họ đến căn phòng cất giữ tất cả những bộ váy áo và trang sức kỳ diệu mà vị thần lùn đã tặng cho người vợ tương lai của mình.
There they found so much to amuse them that the hours passed like minutes. Ở đó, họ tìm thấy rất nhiều thứ thú vị đến nỗi thời gian trôi qua như những phút giây.
Veils, girdles, and necklaces were tried on and admired, the imitation Brunhilda knew so well how to behave herself, and showed so much taste that nobody would ever have suspected that she was nothing but a turnip after all. Họ thử những chiếc khăn voan, thắt lưng, vòng cổ và trầm trồ khen ngợi; nàng Brunhilda “giả” biết cách cư xử đến mức, và tỏ ra có gu thẩm mỹ đến độ không ai có thể nghi ngờ rằng nàng thực ra chỉ là một củ cải.
The gnome, who had secretly been keeping an eye upon them, was very pleased with himself for having so well understood the heart of a woman; and the princess seemed to him even more charming than before. Vị thần lùn, vốn đang lén lút theo dõi, rất hài lòng về bản thân vì đã hiểu thấu trái tim phụ nữ; và trong mắt ngài, công chúa giờ đây còn quyến rũ hơn trước.
She did not forget to touch the rest of the roots with her magic wand, and soon had all her maidens about her, and even, as she had two tiny radishes to spare, her favourite cat, and her little dog whose name was Beni. Nàng không quên chạm vào những củ còn lại bằng cây đũa thần của mình, và chẳng bao lâu sau đã có tất cả các thị nữ vây quanh; vì còn dư hai củ dền nhỏ, nàng biến chúng thành con mèo cưng và chú chó nhỏ tên là Beni.
And now all went cheerfully in the castle. Và rồi, mọi thứ trong lâu đài trở nên vui vẻ.
The princess gave to each of the maidens her task, and never was mistress better served. Công chúa giao cho mỗi thị nữ công việc của họ, và chưa có bà chủ nào được phục vụ tốt hơn.
For a whole week she enjoyed the delight of her pleasant company undisturbed. Trong suốt một tuần, nàng tận hưởng niềm vui bên bè bạn mà không bị quấy rầy.
They all sang, they danced, they played from morning to night; only the princess noticed that day by day the fresh young faces of her maidens grew pale and wan, and the mirror in the great marble hall showed her that she alone still kept her rosy bloom, while Brunhilda and the rest faded visibly. Họ ca hát, nhảy múa, vui chơi từ sáng đến tối; chỉ có công chúa nhận ra rằng, ngày qua ngày, những gương mặt tươi trẻ của các thị nữ trở nên nhợt nhạt và hốc hác, và chiếc gương trong đại sảnh cẩm thạch cho nàng thấy rằng chỉ có mình nàng vẫn giữ được sắc hồng, trong khi Brunhilda và những người còn lại phai tàn thấy rõ.
They assured her that all was well with them; but, nevertheless, they continued to waste away, and day by day it became harder to them to take part in the games of the princess, till at last, one fine morning, when the princess started from bed and hastened out to join her gay playfellows, she shuddered and started back at the sight of a group of shrivelled crones, with bent backs and trembling limbs, who supported their tottering steps with staves and crutches, and coughed dismally. Họ trấn an nàng rằng họ vẫn ổn; nhưng, dẫu vậy, họ vẫn tiếp tục héo hon, và ngày qua ngày, việc tham gia vào các trò chơi của công chúa trở nên khó khăn hơn, cho đến một buổi sáng đẹp trời, khi công chúa vừa ra khỏi giường và vội vã ra ngoài để nhập hội cùng các bạn vui vẻ, nàng rùng mình và lùi lại khi thấy một nhóm những bà lão quắt queo, lưng còng, chân run, phải chống gậy và nạng để bước đi, và ho sù sụ thảm hại.
A little nearer to the hearth lay the once frolicsome Beni, with all four feet stretched stiffly out, while the sleek cat seemed too weak to raise his head from his velvet cushion. Gần lò sưởi hơn là chú Beni vốn tinh nghịch, giờ đây nằm duỗi thẳng bốn chân cứng đờ, trong khi con mèo mượt mà dường như quá yếu để ngẩng đầu lên khỏi chiếc đệm nhung của nó.
The horrified princess fled to the door to escape from the sight of this mournful company, and called loudly for the gnome, who appeared at once, humbly anxious to do her bidding. Công chúa kinh hoàng chạy đến cửa để thoát khỏi cảnh tượng thê lương này, và gọi lớn vị thần lùn. Ngài lập tức xuất hiện, khiêm nhường chờ đợi mệnh lệnh.
Malicious Sprite,’ she cried, ‘why do you begrudge me my playmates —the greatest delight of my lonely hours? Isn’t this solitary life in such a desert bad enough without your turning the castle into a hospital for the aged? Give my maidens back their youth and health this very minute, or I will never love you!’ ‘Tên yêu tinh độc ác kia,’ nàng hét lên, ‘tại sao ngươi lại ghen tị với những người bạn của ta – niềm vui lớn nhất trong những giờ cô đơn của ta? Cuộc sống cô độc trong chốn hoang vu này chưa đủ tồi tệ hay sao mà ngươi còn biến lâu đài thành một bệnh viện cho người già? Trả lại tuổi xuân và sức khỏe cho các thị nữ của ta ngay lập tức, nếu không ta sẽ không bao giờ yêu ngươi!’
‘Sweetest and fairest of damsels,’ cried the gnome, ‘do not be angry; everything that is in my power I will do—but do not ask the impossible. ‘Hỡi nàng thiếu nữ ngọt ngào và xinh đẹp nhất,’ vị thần lùn kêu lên, ‘xin đừng tức giận; mọi điều trong khả năng ta sẽ làm – nhưng xin đừng yêu cầu điều không thể.
So long as the sap was fresh in the roots the magic staff could keep them in the forms you desired, but as the sap dried up they withered away. Chừng nào nhựa sống còn tươi trong củ, cây đũa thần có thể giữ chúng trong hình dạng người mong muốn, nhưng khi nhựa sống khô đi, chúng cũng héo tàn.
But never trouble yourself about that, dearest one, a basket of fresh turnips will soon set matters right, and you can speedily call up again every form you wish to see. Nhưng đừng bận tâm về điều đó, người yêu dấu ơi, một giỏ củ cải tươi sẽ nhanh chóng giải quyết mọi việc, và người có thể nhanh chóng gọi lại mọi hình dạng người muốn thấy.
The great green patch in the garden will prove you with a more lively company.’ Mảnh vườn xanh lớn ngoài kia sẽ cung cấp cho người một đoàn tùy tùng sôi nổi hơn.’
So saying the gnome took himself off. Nói rồi vị thần lùn lui đi.
And the princess with her magic wand touched the wrinkled old women, and left them the withered roots they really were, to be thrown upon the rubbish heap; and with light feet skipped off across to the meadow to take possession of the freshly filled basket. Còn công chúa, dùng cây đũa thần chạm vào những bà lão nhăn nheo, trả lại cho họ hình dạng những củ héo úa, rồi đem vứt vào đống rác; sau đó, nàng nhẹ nhàng bước ra đồng cỏ để lấy giỏ củ vừa được đổ đầy.
But to her surprise she could not find it anywhere. Nhưng nàng ngạc nhiên khi không tìm thấy nó ở đâu cả.
Up and down the garden she searched, spying into every corner, but not a sign of it was to be found. Nàng tìm kiếm khắp vườn, dòm vào mọi góc, nhưng không thấy dấu hiệu nào.
By the trellis of grape vines she met the gnome, who was so much embarrassed at the sight of her that she became aware of his confusion while he was still quite a long way off. Bên giàn nho, nàng gặp vị thần lùn, người tỏ ra bối rối đến mức nàng nhận ra sự lúng túng của ngài khi ngài còn ở khá xa.
‘You are trying to tease me,’ she cried, as soon as she saw him. ‘Where have you hidden the basket? I have been looking for it at least an hour.’ ‘Ngài đang cố trêu ta,’ nàng kêu lên ngay khi thấy ngài. ‘Ngài đã giấu cái giỏ ở đâu? Ta đã tìm nó ít nhất một giờ rồi.’
‘Dear queen of my heart,’ answered he, ‘I pray you to forgive my carelessness. I promised more than I could perform. ‘Nữ hoàng của lòng ta ơi,’ ngài trả lời, ‘ta cầu xin người tha thứ cho sự bất cẩn của ta. Ta đã hứa nhiều hơn những gì ta có thể làm.
I have sought all over the land for the roots you desire; but they are gathered in, and lie drying in musty cellars, and the fields are bare and desolate, for below in the valley winter reigns, only here in your presence spring is held fast, and wherever your foot is set the gay flowers bloom. Ta đã tìm khắp nơi để lấy những củ người muốn; nhưng chúng đã được thu hoạch và đang khô dần trong những hầm chứa ẩm mốc, còn những cánh đồng thì trơ trụi và hoang vắng, vì dưới thung lũng mùa đông đang ngự trị. Chỉ ở đây, nơi có sự hiện diện của người, mùa xuân mới được níu giữ, và nơi nào bước chân người đặt đến, hoa tươi nở rộ.
Have patience for a little, and then without fail you shall have your puppets to play with.’ Hãy kiên nhẫn một chút, rồi người chắc chắn sẽ có những con rối của mình để chơi.’
Almost before the gnome had finished, the disappointed princess turned away, and marched off to her own apartments, without deigning to answer him. Gần như trước khi vị thần lùn dứt lời, nàng công chúa thất vọng đã quay đi, và bước thẳng về phòng riêng của mình mà không thèm đáp lời.
The gnome, however, set off above ground as speedily as possible, and disguising himself as a farmer, bought an ass in the nearest market-town, and brought it back loaded with sacks of turnip, carrot, and radish seed. Tuy nhiên, vị thần lùn nhanh chóng lên trần gian, hóa trang thành một người nông dân, mua một con lừa ở thị trấn gần nhất, và chất lên lưng nó đầy những bao hạt củ cải, cà rốt và củ dền.
With this he sowed a great field, and sent a vast army of his goblins to watch and tend it, and to bring up the fiery rivers from the heart of the earth near enough to warm and encourage the sprouting seeds. Ngài gieo hạt trên một cánh đồng lớn, và sai một đội quân yêu tinh khổng lồ canh gác, chăm sóc, và đưa những dòng sông lửa từ tâm trái đất đến đủ gần để sưởi ấm và thúc đẩy hạt nảy mầm.
Thus fostered they grew and flourished marvellously, and promised a goodly crop. Nhờ vậy, chúng lớn nhanh như thổi và hứa hẹn một vụ mùa bội thu.
The princess wandered about the field day by day, no other plants or fruits in all her wonderful garden pleased her as much as these roots; but still her eyes were full of discontent. Công chúa ngày ngày dạo quanh cánh đồng, không có loài cây hay quả nào trong khu vườn tuyệt vời của nàng làm nàng vui thích bằng những củ này; nhưng đôi mắt nàng vẫn đầy vẻ bất mãn.
And, best of all, she loved to while away the hours in a shady fir-wood, seated upon the bank of a little stream, into which she would cast the flowers she had gathered and watch them float away. Và, trên hết, nàng thích ngồi giết thời gian trong một khu rừng thông rợp bóng, bên bờ một con suối nhỏ, nơi nàng sẽ thả những bông hoa đã hái xuống và ngắm chúng trôi đi.
The gnome tried hard by every means in his power to please the princess and win her love, but little did he guess the real reason of his lack of success. Vị thần lùn cố gắng bằng mọi cách để làm hài lòng công chúa và chiếm được tình yêu của nàng, nhưng ngài nào ngờ được lý do thực sự cho sự thất bại của mình.
He imagined that she was too young and inexperienced to care for him; but that was a mistake, for the truth was that another image already filled her heart. Ngài cho rằng nàng còn quá trẻ và thiếu kinh nghiệm để quan tâm đến ngài; nhưng đó là một sai lầm, vì sự thật là một hình ảnh khác đã chiếm trọn trái tim nàng.
The young Prince Ratibor, whose lands joined her father’s, had won the heart of the princess; and the lovers had been looking forward to the coming of their wedding-day when the bride’s mysterious disappearance took place. Chàng hoàng tử trẻ tuổi Ratibor, người có lãnh địa giáp với vua cha nàng, đã chiếm được trái tim công chúa; và đôi tình nhân đã mong chờ ngày cưới khi sự biến mất bí ẩn của cô dâu xảy ra.
The sad news drove Ratibor distracted, and as the days went on, and nothing could be heard of the princess, he forsook his castle and the society of men, and spent his days in the wild forests, roaming about and crying her name aloud to the trees and rocks. Tin buồn khiến Ratibor đau khổ đến điên dại, và khi ngày tháng trôi qua mà không có tin tức gì về công chúa, chàng từ bỏ lâu đài và xã hội loài người, dành những ngày của mình trong những khu rừng hoang dã, lang thang và gọi to tên nàng giữa cây cối và đá sỏi.
Meanwhile, the maiden, in her gorgeous prison, sighed in secret over her grief, not wishing to arouse the gnome’s suspicions. Trong khi đó, nàng thiếu nữ, trong nhà tù lộng lẫy của mình, thầm thở dài về nỗi buồn, không muốn làm dấy lên sự nghi ngờ của vị thần lùn.
In her own mind she was wondering if by any means she might escape from her captivity, and at last she hit upon a plan. Trong lòng, nàng tự hỏi liệu có cách nào để thoát khỏi cảnh giam cầm, và cuối cùng, nàng đã nghĩ ra một kế hoạch.
By this time spring once more reigned in the valley, and the gnome sent the fires back to their places in the deeps of the earth, for the roots which they had kept warm through all the cruel winter hand now come to their full size. Đến lúc này, mùa xuân một lần nữa ngự trị trong thung lũng, và vị thần lùn đã cho các dòng lửa trở lại vị trí của chúng sâu trong lòng đất, vì những củ mà chúng đã giữ ấm suốt mùa đông khắc nghiệt giờ đã lớn hết cỡ.
Day by day the princess pulled up some of them, and made experiments with them, conjuring up now this longed-for person, and now that, just for the pleasure of seeing them as they appeared; but she really had another purpose in view. Ngày ngày, công chúa nhổ một vài củ lên, và thử nghiệm với chúng, khi thì biến ra người này, khi lại là người kia, chỉ để cho vui; nhưng nàng thực sự có một mục đích khác trong đầu.
One day she changed a tiny turnip into a bee, and sent him off to bring her some news of her lover. Một ngày, nàng biến một củ cải nhỏ thành một con ong, và cử nó đi mang tin tức về người yêu của nàng.
‘Fly, dear little bee, towards the east,’ said she, ‘to my beloved Ratibor, and softly hum into his ear that I love him only, but that I am a captive in the gnome’s palace under the mountains. Do not forget a single word of my greeting, and bring me back a message from my beloved.’ ‘Bay đi, ong nhỏ thân yêu,’ nàng nói, ‘về phía đông, đến với Ratibor yêu dấu của ta, và khẽ vo ve bên tai chàng rằng ta chỉ yêu mình chàng, nhưng ta đang bị giam cầm trong cung điện của thần lùn dưới những ngọn núi. Đừng quên một lời nào trong lời nhắn của ta, và mang về cho ta một thông điệp từ người yêu dấu.’
So the bee spread his shining wings and flew away to do as he was bidden; but before he was out of sight a greedy swallow made a snatch at him, and to the great grief of the princess her messenger was eaten up then and there. Vậy là chú ong xòe đôi cánh lấp lánh và bay đi làm nhiệm vụ; nhưng trước khi nó bay khuất tầm mắt, một con én tham lam đã chộp lấy nó, và trước nỗi đau buồn vô hạn của công chúa, sứ giả của nàng đã bị ăn thịt ngay tức khắc.
After that, by the power of the wonderful wand she summoned a cricket, and taught him this greeting: Sau đó, bằng sức mạnh của cây đũa thần kỳ diệu, nàng gọi ra một con dế, và dạy nó lời nhắn này:
‘Hop, little cricket, to Ratibor, and chirp in his ear that I love him only, but that I am held captive by the gnome in his palace under the mountains.’ ‘Nhảy đi, dế con, đến chỗ Ratibor, và rả rích bên tai chàng rằng ta chỉ yêu mình chàng, nhưng ta đang bị thần lùn giam giữ trong cung điện của ông ta dưới những ngọn núi.’
So the cricket hopped off gaily, determined to do his best to deliver his message; but, alas! a long-legged stork who was prancing along the same road caught him in her cruel beak, and before he could say a word he had disappeared down her throat. Vậy là chú dế vui vẻ nhảy đi, quyết tâm làm hết sức mình để truyền thông điệp; nhưng, than ôi! một con cò chân dài đang đi dọc theo con đường đã dùng chiếc mỏ tàn nhẫn của mình kẹp lấy nó, và trước khi nó kịp nói một lời, nó đã biến mất trong cổ họng con cò.
These two unlucky ventures did not prevent the princess from trying once more. Hai lần thử không may mắn này không ngăn cản được công chúa thử một lần nữa.
This time she changed the turnip into a magpie. Lần này nàng biến củ cải thành một con chim chích chòe.
‘Flutter from tree to tree, chattering bird,’ said she, ’till you come to Ratibor, my love. Tell him that I am a captive, and bid him come with horses and men, the third day from this, to the hill that rises from the Thorny Valley.’ ‘Hãy bay chuyền từ cây này sang cây khác, chim lắm điều,’ nàng nói, ‘cho đến khi ngươi đến được chỗ Ratibor, người yêu của ta. Hãy nói với chàng rằng ta đang bị giam cầm, và bảo chàng hãy mang theo ngựa và người, vào ngày thứ ba kể từ hôm nay, đến ngọn đồi nhô lên từ Thung Lũng Gai.’
The magpie listened, hopped awhile from branch to branch, and then darted away, the princess watching him anxiously as far as she could see. Con chim chích chòe lắng nghe, nhảy một lúc từ cành này sang cành khác, rồi vụt bay đi, công chúa lo lắng dõi theo nó cho đến khi không còn thấy.
Now Prince Ratibor was still spending his life in wandering about the woods, and not even the beauty of the spring could soothe his grief. Lúc này, Hoàng tử Ratibor vẫn đang lang thang trong rừng, và ngay cả vẻ đẹp của mùa xuân cũng không thể xoa dịu nỗi đau của chàng.
One day, as he sat in the shade of an oak tree, dreaming of his lost princess, and sometimes crying her name aloud, he seemed to hear another voice reply to his, and, starting up, he gazed around him, but he could see no one, and he had just made up his mind that he must be mistaken, when the same voice called again, and, looking up sharply, he saw a magpie which hopped to and fro among the twigs. Một ngày, khi chàng đang ngồi dưới bóng cây sồi, mơ về nàng công chúa đã mất, và thỉnh thoảng gọi to tên nàng, chàng dường như nghe thấy một giọng nói khác đáp lại, và, giật mình, chàng nhìn quanh, nhưng không thấy ai, và chàng vừa kết luận rằng mình chắc đã nhầm, thì cùng giọng nói đó lại cất lên. Chàng ngước nhìn lên và thấy một con chim chích chòe đang nhảy qua lại giữa các cành cây.
Then Ratibor heard with surprise that the bird was indeed calling him by name. Rồi Ratibor ngạc nhiên khi nghe thấy con chim quả thực đang gọi tên mình.
‘Poor chatterpie,’ said he; ‘who taught you to say that name, which belongs to an unlucky mortal who wishes the earth would open and swallow up him and his memory for ever?’ ‘Chim lắm lời đáng thương,’ chàng nói; ‘ai đã dạy ngươi nói cái tên đó, cái tên thuộc về một kẻ bất hạnh chỉ mong trái đất mở ra và nuốt chửng hắn cùng ký ức về hắn mãi mãi?’
Thereupon he caught up a great stone, and would have hurled it at the magpie, if it had not at that moment uttered the name of the princess. Nói rồi, chàng nhặt một hòn đá lớn, và định ném vào con chim chích chòe, nếu đúng lúc đó nó không thốt ra tên của công chúa.
This was so unexpected that the prince’s arm fell helplessly to his side at the sound, and he stood motionless. Điều này bất ngờ đến nỗi cánh tay của hoàng tử buông thõng xuống, và chàng đứng bất động.
But the magpie in the tree, who, like all the rest of his family, was not happy unless he could be for ever chattering, began to repeat the message the princess had taught him; and as soon as he understood it, Prince Ratibor’s heart was filed with joy. Nhưng con chim chích chòe trên cây, vốn như tất cả họ hàng của nó, không thể vui vẻ nếu không được hót líu lo không ngừng, bắt đầu lặp lại thông điệp mà công chúa đã dạy nó; và ngay khi hiểu ra, trái tim Hoàng tử Ratibor tràn ngập niềm vui.
All his gloom and misery vanished in a moment, and he anxiously questioned the welcome messenger as to the fate of the princess. Mọi u sầu và đau khổ của chàng tan biến trong chốc lát, và chàng háo hức hỏi sứ giả được chào đón về số phận của công chúa.
But the magpie knew no more than the lesson he had learnt, so he soon fluttered away; while the prince hurried back to his castle to gather together a troop of horsemen, full of courage for whatever might befall. Nhưng con chim chích chòe không biết gì hơn bài học nó đã được dạy, vì vậy nó sớm bay đi; trong khi hoàng tử vội vã trở về lâu đài để tập hợp một đội kỵ binh, lòng đầy can đảm cho bất cứ điều gì có thể xảy ra.
The princess meanwhile was craftily pursuing her plan of escape. Trong khi đó, công chúa đang khôn khéo thực hiện kế hoạch trốn thoát của mình.
She left off treating the gnome with coldness and indifference; indeed, there was a look in her eyes which encouraged him to hope that she might some day return his love, and the idea pleased him mightily. Nàng không còn đối xử lạnh lùng và thờ ơ với vị thần lùn nữa; thật vậy, trong mắt nàng có một ánh nhìn khiến ngài hy vọng rằng một ngày nào đó nàng có thể đáp lại tình yêu của ngài, và ý nghĩ đó khiến ngài vô cùng hài lòng.
The next day, as soon as the sun rose, she made her appearance decked as a bride, in the wonderful robes and jewels which the fond gnome had prepared for her. Ngày hôm sau, ngay khi mặt trời mọc, nàng xuất hiện trong trang phục cô dâu, trong những bộ áo choàng và trang sức tuyệt vời mà vị thần lùn đã chuẩn bị.
Her golden hair was braided and crowned with myrtle blossoms, and her flowing veil sparkled with gems. Mái tóc vàng óng của nàng được tết lại và đội vòng hoa sim, và chiếc khăn voan bay bổng lấp lánh đá quý.
In these magnificent garments she went to meet the gnome upon the great terrace. Trong bộ trang phục lộng lẫy này, nàng ra gặp vị thần lùn trên sân thượng lớn.
‘Loveliest of maidens,’ he stammered, bowing low before her, ‘let me gaze into your dear eyes, and read in them that you will no longer refuse my love, but will make me the happiest being the sun shines upon.’ ‘Hỡi nàng thiếu nữ đẹp nhất,’ ngài lắp bắp, cúi chào thấp trước nàng, ‘hãy để ta nhìn vào đôi mắt thân yêu của nàng, và đọc được trong đó rằng nàng sẽ không còn từ chối tình yêu của ta nữa, mà sẽ biến ta thành sinh vật hạnh phúc nhất dưới ánh mặt trời.’
So saying he would have drawn aside her veil; but the princess only held it more closely about her. Nói rồi, ngài định vén khăn voan của nàng lên; nhưng công chúa chỉ càng giữ nó chặt hơn.
‘Your constancy has overcome me,’ she said; ‘I can no longer oppose your wishes. But believe my words, and suffer this veil still to hide my blushes and tears.’ ‘Sự kiên trì của ngài đã khuất phục được em,’ nàng nói; ’em không thể chống lại mong muốn của ngài nữa. Nhưng xin hãy tin lời em, và hãy để chiếc khăn voan này che đi những giọt lệ và đôi má ửng hồng của em.’
‘Why tears, beloved one?’ cried the gnome anxiously; ‘every tear of yours falls upon my heart like a drop of molten gold. Greatly as I desire your love, I do not ask a sacrifice.’ ‘Sao lại có nước mắt, người yêu dấu?’ vị thần lùn lo lắng kêu lên; ‘mỗi giọt lệ của người rơi vào tim ta như một giọt vàng nóng chảy. Dù ta mong muốn tình yêu của người đến đâu, ta cũng không yêu cầu một sự hy sinh.’
‘Ah!’ cried the false princess, ‘why do you misunderstand my tears? My heart answers to your tenderness, and yet I am fearful. A wife cannot always charm, and though YOU will never alter, the beauty of mortals is as a flower that fades. How can I be sure that you will always be as loving and charming as you are now?’ ‘À!’ nàng công chúa dối trá kêu lên, ‘tại sao ngài lại hiểu lầm những giọt nước mắt của em? Trái tim em rung động trước sự dịu dàng của ngài, nhưng em lại lo sợ. Một người vợ không thể luôn quyến rũ, và mặc dù ngài sẽ không bao giờ thay đổi, vẻ đẹp của người trần chỉ như một đóa hoa chóng tàn. Làm sao em có thể chắc chắn rằng ngài sẽ luôn yêu thương và quyến rũ như bây giờ?’
‘Ask some proof, sweetheart,’ said he. ‘Put my obedience and my patience to some test by which you can judge of my unalterable love.’ ‘Hãy yêu cầu một bằng chứng đi, em yêu,’ ngài nói. ‘Hãy thử thách lòng tuân lệnh và sự kiên nhẫn của ta, để em có thể phán xét tình yêu không đổi của ta.’
‘Be it so,’ answered the crafty maiden. ‘Then give me just one proof of your goodness. Go! count the turnips in yonder meadow. My wedding feast must not lack guests. They shall provide me with bride-maidens too. But beware lest you deceive me, and do not miss a single one. That shall be the test of your truth towards me.’ ‘Cứ vậy đi,’ nàng thiếu nữ ranh mãnh đáp. ‘Vậy thì hãy cho em một bằng chứng về lòng tốt của ngài. Hãy đi! Đếm số củ cải trên đồng cỏ kia. Tiệc cưới của em không thể thiếu khách mời. Chúng cũng sẽ cung cấp phù dâu cho em nữa. Nhưng hãy cẩn thận kẻo lừa dối em, và đừng bỏ sót một củ nào. Đó sẽ là phép thử cho sự chân thành của ngài đối với em.’
Unwilling as the gnome was to lose sight of his beautiful bride for a moment, he obeyed her commands without delay, and hurried off to begin his task. Mặc dù không muốn rời xa cô dâu xinh đẹp của mình dù chỉ một khoảnh khắc, vị thần lùn vẫn tuân theo mệnh lệnh của nàng ngay lập tức, và vội vã bắt đầu công việc.
He skipped along among the turnips as nimble as a grasshopper, and had soon counted them all; but, to be quite certain that he had made no mistake, he thought he would just run over them again. Ngài nhảy nhót giữa những củ cải nhanh như châu chấu, và sớm đã đếm xong tất cả; nhưng, để chắc chắn rằng mình không nhầm lẫn, ngài nghĩ rằng mình nên đếm lại một lần nữa.
This time, to his great annoyance, the number was different; so he reckoned them for the third time, but now the number was not the same as either of the previous ones! Lần này, thật khó chịu, con số lại khác; vì vậy ngài đếm lần thứ ba, nhưng giờ con số lại không giống với cả hai lần trước!
And this was hardly to be wondered at, as his mind was full of the princess’s pretty looks and words. Và điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên, vì tâm trí ngài chỉ đầy hình ảnh và lời nói ngọt ngào của công chúa.
As for the maiden, no sooner was her deluded lover fairly out of sight than she began to prepare for flight. Về phần nàng thiếu nữ, ngay khi người tình cả tin của nàng vừa đi khỏi, nàng bắt đầu chuẩn bị bỏ trốn.
She had a fine fresh turnip hidden close at hand, which she changed into a spirited horse, all saddled and bridled, and, springing upon its back, she galloped away over hill and dale till she reached the Thorny Valley, and flung herself into the arms of her beloved Prince Ratibor. Nàng đã giấu một củ cải tươi ngon gần đó, biến nó thành một con ngựa dũng mãnh, đã được đóng yên cương, và, nhảy lên lưng nó, nàng phi nước đại qua đồi qua thung cho đến khi đến Thung Lũng Gai, và lao vào vòng tay của Hoàng tử Ratibor yêu dấu.
Meanwhile the toiling gnome went through his task over and over again till his back ached and his head swam, and he could no longer put two and two together; but as he felt tolerably certain of the exact number of turnips in the field, big and little together, he hurried back eager to prove to his beloved one what a delightful and submissive husband he would be. Trong khi đó, vị thần lùn cần mẫn thực hiện nhiệm vụ của mình hết lần này đến lần khác cho đến khi lưng đau nhức và đầu óc quay cuồng, và ngài không còn thể cộng hai với hai nữa; nhưng vì ngài cảm thấy khá chắc chắn về số lượng củ cải chính xác trên cánh đồng, cả lớn và nhỏ, ngài vội vã quay trở lại, háo hức chứng minh cho người yêu thấy mình sẽ là một người chồng dễ thương và phục tùng như thế nào.
He felt very well satisfied with himself as he crossed the mossy lawn to the place where he had left her; but, alas! she was no longer there. Ngài cảm thấy rất hài lòng với bản thân khi băng qua bãi cỏ rêu đến nơi ngài đã để nàng lại; nhưng, than ôi! nàng không còn ở đó nữa.
He searched every thicket and path, he looked behind every tree, and gazed into every pond, but without success; then he hastened into the palace and rushed from room to room, peering into every hole and corner and calling her by name; but only echo answered in the marble halls—there was neither voice nor footstep. Ngài tìm kiếm mọi bụi rậm và lối mòn, ngài nhìn sau mỗi gốc cây, và nhìn vào mọi ao hồ, nhưng không thành công; sau đó ngài vội vã vào cung điện và chạy từ phòng này sang phòng khác, nhìn vào mọi ngóc ngách và gọi tên nàng; nhưng chỉ có tiếng vang đáp lại trong các sảnh cẩm thạch – không có giọng nói hay bước chân.
Then he began to perceive that something was amiss, and, throwing off the mortal form that encumbered him, he flew out of the palace, and soared high into the air, and saw the fugitive princess in the far distance just as the swift horse carried her across the boundary of his dominions. Rồi ngài bắt đầu nhận ra có điều gì đó không ổn, và, cởi bỏ hình dạng con người vướng víu, ngài bay ra khỏi cung điện, và bay vút lên không trung, và thấy nàng công chúa đang chạy trốn ở phía xa xa, đúng lúc con ngựa thần tốc đưa nàng vượt qua biên giới vương quốc của ngài.
Furiously did the enraged gnome fling two great clouds together, and hurl a thunderbolt after the flying maiden, splintering the rocky barriers which had stood a thousand years. Trong cơn thịnh nộ, vị thần lùn cuồng nộ liền xô hai đám mây khổng lồ vào nhau, giáng một tia sét sấm sét đuổi theo nàng thiếu nữ đang bay, làm vỡ tan những hàng rào đá đã đứng vững cả ngàn năm.
But his fury was vain, the thunderclouds melted away into a soft mist, and the gnome, after flying about for a while in despair, bewailing to the four winds his unhappy fate, went sorrowfully back to the palace, and stole once more through every room, with many sighs and lamentations. Nhưng cơn thịnh nộ của ngài là vô ích, những đám mây sấm sét tan thành một làn sương mềm mại, và vị thần lùn, sau khi bay lượn một lúc trong tuyệt vọng, than thở với bốn phương về số phận bất hạnh của mình, bèn buồn bã quay trở lại cung điện, và lại một lần nữa len lỏi qua từng căn phòng, với nhiều tiếng thở dài và than vãn.
He passed through the gardens which for him had lost their charm, and the sight of the princess’s footprints on the golden sand of the pathway renewed his grief. Ngài đi qua những khu vườn đã mất đi vẻ quyến rũ đối với ngài, và hình ảnh dấu chân của công chúa trên cát vàng của con đường càng làm mới thêm nỗi đau của ngài.
All was lonely, empty, sorrowful; and the forsaken gnome resolved that he would have no more dealings with such false creatures as he had found men to be. Mọi thứ đều cô đơn, trống rỗng, sầu thảm; và vị thần lùn bị bỏ rơi quyết định rằng ngài sẽ không còn giao du với những sinh vật giả dối như loài người nữa.
Thereupon he stamped three times upon the earth, and the magic palace, with all its treasures, vanished away into the nothingness out of which he had called it; and the gnome fled once more to the depths of his underground kingdom. Nói rồi, ngài dậm chân ba lần xuống đất, và cung điện thần tiên, cùng với tất cả kho báu của nó, biến mất vào hư không mà từ đó ngài đã gọi ra; và vị thần lùn lại một lần nữa trốn vào sâu thẳm vương quốc dưới lòng đất của mình.
While all this was happening, Prince Ratibor was hurrying away with his prize to a place of safety. Trong khi tất cả những điều này đang xảy ra, Hoàng tử Ratibor đang vội vã đưa chiến lợi phẩm của mình đến một nơi an toàn.
With great pomp and triumph he restored the lovely princess to her father, and was then and there married to her, and took her back with him to his own castle. Với sự trang trọng và chiến thắng, chàng trao lại nàng công chúa xinh đẹp cho vua cha, và ngay sau đó, họ đã kết hôn với nhau, và chàng đưa nàng về lâu đài của mình.
But long after she was dead, and her children too, the villagers would tell the tale of her imprisonment underground, as they sat carving wood in the winter nights. Nhưng rất lâu sau khi nàng đã qua đời, và cả con cháu của nàng nữa, dân làng vẫn kể lại câu chuyện về thời gian nàng bị giam cầm dưới lòng đất, khi họ ngồi đẽo gỗ vào những đêm đông.
[Volksmahrchen der Deutschen.] [Phỏng theo truyện cổ Đức của Musäus]
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.