Lời tựa

PREFACE LỜI TỰA
The Editor thinks that children will readily forgive him for publishing another Fairy Book. Tác giả trộm nghĩ rằng các bạn nhỏ sẽ sẵn lòng lượng thứ cho ông khi ông cho ra đời thêm một quyển Truyện Cổ tích nữa.
We have had the Blue, the Red, the Green, and here is the Yellow. Chúng ta đã có cuốn màu Xanh, màu Đỏ, màu Lục, và đây là cuốn màu Vàng.
If children are pleased, and they are so kind as to say that they are pleased, the Editor does not care very much for what other people may say. Nếu lũ trẻ thấy vui, và đủ tốt bụng để nói rằng chúng thấy vui, thì người biên soạn cũng chẳng bận tâm lắm đến những điều người khác bàn tán.
Now, there is one gentleman who seems to think that it is not quite right to print so many fairy tales, with pictures, and to publish them in red and blue covers. Ấy thế mà, có một quý ông lại cho rằng việc in quá nhiều truyện cổ tích kèm tranh vẽ, rồi phát hành chúng dưới những trang bìa đỏxanh là điều không hay chút nào.
He is named Mr. G. Laurence Gomme, and he is president of a learned body called the Folk Lore Society. Ông ấy tên là G. Laurence Gomme, chủ tịch của một hội học giả có tên là Hội Văn hóa Dân gian.
Once a year he makes his address to his subjects, of whom the Editor is one, and Mr. Joseph Jacobs (who has published many delightful fairy tales with pretty pictures)1 is another. Mỗi năm một lần, ông lại có bài phát biểu trước các “thần dân” của mình; người biên soạn cuốn sách này là một trong số đó, và cả ông Joseph Jacobs (người đã xuất bản bao câu chuyện thần tiên tuyệt vời với tranh vẽ đẹp mắt)1 cũng là một người nữa.
Fancy, then, the dismay of Mr. Jacobs, and of the Editor, when they heard their president say that he did not think it very nice in them to publish fairy books, above all, red, green, and blue fairy books! Vậy thì hãy thử tưởng tượng xem ông Jacobsngười biên soạn đã sững sờ thế nào khi nghe ngài chủ tịch nói rằng, ông ấy thấy việc họ xuất bản truyện cổ tích, nhất là những cuốn màu đỏ, xanh lụcxanh lam, chẳng hay ho chút nào!
They said that they did not see any harm in it, and they were ready to ‘put themselves on their country,’ and be tried by a jury of children. Họ nói rằng họ chẳng thấy có hại gì trong việc đó cả, và họ sẵn sàng giao phó mình cho “công lý của đất nước“, để được xét xử bởi một bồi thẩm đoàn gồm toàn trẻ em.
And, indeed, they still see no harm in what they have done; nay, like Father William in the poem, they are ready ‘to do it again and again.’ Và quả thực, họ vẫn không thấy những việc mình làm có gì tai hại; trái lại, giống như Cha William trong bài thơ nọ, họ sẵn sàng “làm đi làm lại chuyện đó nhiều lần nữa.”
Where is the harm? Vậy tai hại nằm ở đâu nào?
The truth is that the Folk Lore Society—made up of the most clever, learned, and beautiful men and women of the country—is fond of studying the history and geography of Fairy Land. Sự thậtHội Văn hóa Dân gian—nơi quy tụ những nam thanh nữ tú thông minhuyên bác nhất đất nước—lại rất thích nghiên cứu lịch sửđịa lý của Xứ sở Thần tiên.
This is contained in very old tales, such as country people tell, and savages: Điều này ẩn chứa trong những câu chuyện cổ xưa, những chuyện mà người nhà quê hay kể, và cả các bộ lạc thổ dân nữa:
‘Little Sioux and little Crow, “Bé Sioux và bé Crow,
Little frosty Eskimo.’ Cả bé Eskimo lạnh giá.”
These people are thought to know most about fairyland and its inhabitants. Những người này được chohiểu biết tường tận nhất về xứ sở thần tiêncư dân ở đó.
But, in the Yellow Fairy Book, and the rest, are many tales by persons who are neither savages nor rustics, such as Madame D’Aulnoy and Herr Hans Christian Andersen. Thế nhưng, trong cuốn Truyện Cổ tích màu Vàng, và cả những cuốn khác, lại có nhiều câu chuyện được viết bởi những người chẳng phải thổ dân cũng chẳng phải nông dân, ví như Phụ nhân D’AulnoyQuý ông Hans Christian Andersen.
The Folk Lore Society, or its president, say that their tales are not so true as the rest, and should not be published with the rest. Hội Văn hóa Dân gian, hay chủ tịch của Hội, cho rằng truyện của họ không “thật” bằng những truyện kia, và không nên được xuất bản chung.
But we say that all the stories which are pleasant to read are quite true enough for us; so here they are, with pictures by Mr. Ford, and we do not think that either the pictures or the stories are likely to mislead children. Nhưng chúng tôi lại cho rằng tất cả những câu chuyện mang lại niềm vui khi đọc thì đều đủ chân thật đối với chúng ta; vì thế, đây là những câu chuyện đó, kèm theo tranh vẽ của họa sĩ Ford, và chúng tôi không nghĩ rằng tranh hay truyện sẽ làm các bạn nhỏ đi sai đường lạc lối.
As to whether there are really any fairies or not, that is a difficult question. Còn về việc liệu có tiên thật hay không, đó là một câu hỏi khó.
Professor Huxley thinks there are none. Giáo sư Huxley thì nghĩ là không.
The Editor never saw any himself, but he knows several people who have seen them—in the Highlands—and heard their music. Người biên soạn chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy, nhưng ông biết vài người đã từng thấy các vị tiên—ở vùng Cao nguyên—và còn nghe được tiếng nhạc của họ.
If ever you are in Nether Lochaber, go to the Fairy Hill, and you may hear the music yourself, as grown-up people have done, but you must go on a fine day. Nếu có dịp đến Nether Lochaber, hãy ghé Đồi Tiên, và bạn có thể sẽ tự mình nghe thấy tiếng nhạc ấy, như nhiều người lớn đã từng nghe, nhưng nhớ là phải đi vào một ngày đẹp trời đấy nhé.
Again, if there are really no fairies, why do people believe in them, all over the world? Lại nữa, nếu thực sự không có tiên, thì tại sao mọi người trên khắp thế giới lại tin vào họ?
The ancient Greeks believed, so did the old Egyptians, and the Hindoos, and the Red Indians, and is it likely, if there are no fairies, that so many different peoples would have seen and heard them? Người Hy Lạp cổ đại tin, người Ai Cập cổ đại, người Hindu, và cả người Da đỏ cũng tin như vậy, và nếu chẳng có tiên, thì liệu có khả năng nào để chừng ấy dân tộc khác nhau đều nhìn thấynghe thấy họ không?
The Rev. Mr. Baring-Gould saw several fairies when he was a boy, and was travelling in the land of the Troubadours. Mục sư Baring-Gould đã nhìn thấy vài vị tiên khi ông còn là một cậu bé đi du lịch ở vùng đất của những người hát rong.
For these reasons, the Editor thinks that there are certainly fairies, but they never do anyone any harm; and, in England, they have been frightened away by smoke and schoolmasters. Vì những lẽ đó, người biên soạn nghĩ rằng chắc chắn là có tiên, nhưng họ không bao giờ làm hại ai cả; và ở nước Anh, họ đã bị khói bụi cùng những thầy giáo nghiêm khắc làm cho hoảng sợ mà bỏ đi mất rồi.
As to Giants, they have died out, but real Dwarfs are common in the forests of Africa. Còn về những Người khổng lồ, họ đã tuyệt chủng cả rồi, nhưng những Người lùn thực thụ thì vẫn phổ biến trong các khu rừngChâu Phi.
Probably a good many stories not perfectly true have been told about fairies, but such stories have also been told about Napoleon, Claverhouse, Julius Caesar, and Joan of Arc, all of whom certainly existed. Có lẽ rất nhiều câu chuyện không hoàn toàn chính xác đã được kể về các tiên nhân, nhưng người ta cũng kể những chuyện như thế về Napoleon, Claverhouse, Julius CaesarJoan of Arc, tất cả những nhân vật chắc chắn đã từng tồn tại.
A wise child will, therefore, remember that, if he grows up and becomes a member of the Folk Lore Society, all the tales in this book were not offered to him as absolutely truthful, but were printed merely for his entertainment. Do đó, một đứa trẻ khôn ngoan sẽ nhớ rằng, nếu sau này lớn lên và trở thành thành viên của Hội Văn hóa Dân gian, thì tất cả những câu chuyện trong cuốn sách này không được viết ra như một sự thật tuyệt đối, mà được in ra chỉ để giúp bé giải trí mà thôi.
The exact facts he can learn later, or he can leave them alone. Những sự thật chính xác thì bé có thể tìm hiểu sau, hoặc mặc kệ chúng cũng được.
There are Russian, German, French, Icelandic, Red Indian, and other stories here. Ở đây có những câu chuyện của Nga, Đức, Pháp, Iceland, người Da đỏ và nhiều nơi khác nữa.
They were translated by Miss Cheape, Miss Alma, and Miss Thyra Alleyne, Miss Sellar, Mr. Craigie (he did the Icelandic tales), Miss Blackley, Mrs. Dent, and Mrs. Lang, but the Red Indian stories are copied from English versions published by the Smithsonian Bureau of Ethnology, in America. Chúng được dịch bởi cô Cheape, cô Alma và cô Thyra Alleyne, cô Sellar, ông Craigie (người dịch truyện Iceland), cô Blackley, bà Dent và bà Lang; riêng các truyện của người Da đỏ được lấy lại từ các bản tiếng Anh do Cục Dân tộc học SmithsonianMỹ xuất bản.
Mr. Ford did the pictures, and it is hoped that children will find the book not less pleasing than those which have already been submitted to their consideration. Ông Ford đã vẽ minh họa, và hy vọng rằng trẻ em sẽ thấy cuốn sách này thú vị không kém những cuốn đã được gửi đến tay các em trước đây.
The Editor cannot say ‘good-bye‘ without advising them, as they pursue their studies, to read The Rose and the Ring, by the late Mr. Thackeray, with pictures by the author. Người biên soạn không thể nói lời “tạm biệt” mà không đưa ra lời khuyên rằng, trên con đường học tập của mình, các em hãy đọc cuốn “Bông Hồng và Chiếc Nhẫn” của cố tác giả Thackeray, với tranh vẽ do chính ông thực hiện.
This book he thinks quite indispensable in every child’s library, and parents should be urged to purchase it at the first opportunity, as without it no education is complete. Ông nghĩ rằng đây là cuốn sách không thể thiếu trong tủ sách của mọi đứa trẻ, và các bậc phụ huynh nên mua nó ngay khi có dịp, bởi nếu thiếu nó thì sự học chẳng thể nào vẹn toàn.
A. LANG A. LANG
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.