10 – Chuyện kể về chàng Bensurdatu

The Story of Bensurdatu Chuyện kể về chàng Bensurdatu
There was once a king and a queen who had three wonderfully beautiful daughters, and their one thought, from morning till night, was how they could make the girls happy. Ngày xửa ngày xưa, có một đức vua và một hoàng hậu sinh được ba nàng công chúa xinh đẹp tuyệt trần. Từ sáng đến tối, mối bận tâm duy nhất của họ là làm sao cho các cô con gái được vui vẻ, hạnh phúc.
One day the princesses said to the king, ‘Dear father, we want so much to have a picnic, and eat our dinner in the country.’ Một ngày nọ, các nàng công chúa thưa với nhà vua: “Thưa cha kính yêu, chúng con ao ước được đi dã ngoại và dùng bữa ở miền quê.”
‘Very well, dear children, let us have a picnic by all means,’ answered he, and gave orders that everything should be got ready. “Được thôi, các con yêu, chúng ta cứ đi dã ngoại nào,” nhà vua đáp lời, rồi hạ lệnh cho người chuẩn bị mọi thứ.
When luncheon was prepared it was put into a cart, and the royal family stepped into a carriage and drove right away into the country. Khi bữa trưa đã sửa soạn xong, đồ ăn được chất lên một chiếc xe chở, còn hoàng gia thì bước lên cỗ xe ngựa lộng lẫy rồi rong ruổi thẳng tiến về miền quê.
After a few miles they reached a house and garden belonging to the king, and close by was their favourite place for lunch. Đi được vài dặm, họ đến một ngôi nhà cùng khu vườn của nhà vua, gần đó là nơi dùng bữa yêu thích của họ.
The drive had made them very hungry, and they ate with a hearty appetite, till almost all the food had disappeared. Chuyến đi làm họ thấm đói, và cả nhà ăn uống ngon lành cho đến khi thức ăn gần như cạn sạch.
When they had quite done, they said to their parents: ‘Now we should like to wander about the garden a little, but when you want to go home, just call to us.’ Khi đã dùng bữa xong, ba cô con gái nói với cha mẹ: “Bây giờ chúng con muốn đi dạo trong vườn một lát, khi nào người muốn về thì cứ gọi chúng con nhé.”
And they ran off, laughing, down a green glade, which led to the garden. Dứt lời, họ cười khúc khích rồi chạy biến vào một trảng cỏ xanh rì dẫn lối vào vườn.
But no sooner had they stepped across the fence, than a dark cloud came down and covered them, and prevented them seeing whither they were going. Nhưng họ vừa bước qua hàng rào, một đám mây đen kịt bỗng đâu sà xuống bao trùm lấy họ, khiến họ không còn thấy đường đi lối về.
Meanwhile the king and queen sat lazily among the heather, and an hour or two slipped away. Trong khi đó, đức vuahoàng hậu thảnh thơi ngồi nghỉ, và một hai giờ cứ thế trôi qua.
The sun was dropping towards the horizon, and they began to think it was time to go home. Mặt trời đã ngả về phía chân trời, và họ bắt đầu nghĩ đã đến lúc phải trở về.
So they called to their daughters and called again, but no one answered them. Họ bèn cất tiếng gọi con, gọi mãi, nhưng chẳng có ai đáp lời.
Frightened at the silence, they searched every corner of the garden, the house, and the neighbouring wood, but no trace of the girls was to be found anywhere. Sợ hãi trước sự im lặng đáng lo, họ lùng sục khắp mọi ngóc ngách trong vườn, trong nhà, và cả khu rừng bên cạnh, nhưng không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào của các cô gái.
The earth seemed to have swallowed them up. Mặt đất dường như đã nuốt chửng họ.
The poor parents were in despair. Đôi vợ chồng đáng thương rơi vào tuyệt vọng.
The queen wept all the way home, and for many days after, and the king issued a proclamation that whoever should bring back his lost daughters should have one of them to wife, and should, after his death, reign in his stead. Hoàng hậu khóc suốt chặng đường về, và cả nhiều ngày sau đó. Còn nhà vua thì ban bố một cáo thị rằng bất kỳ ai tìm được các công chúa đã mất tích sẽ được cưới một trong ba nàng làm vợ, và sau khi đức vua băng hà, sẽ được kế vị ngai vàng.
Now two young generals were at that time living at the court, and when they heard the king’s declaration, they said one to the other: ‘Let us go in search of them; perhaps we shall be the lucky persons.’ Bấy giờ, tại triều có hai vị tướng trẻ tuổi. Khi nghe cáo thị của nhà vua, họ bàn với nhau: “Chúng ta hãy lên đường tìm kiếm họ; biết đâu chúng ta lại là người may mắn.”
And they set out, each mounted on a strong horse, taking with them a change of raiment and some money. Và thế là họ lên đường, mỗi người cưỡi một con tuấn mã, mang theo một bộ xiêm y để thay đổi và một ít tiền bạc.
But though they inquired at every village they rode through, they could hear nothing of the princesses, and by-and-by their money was all spent, and they were forced to sell their horses, or give up the search. Nhưng dù đã dò hỏi khắp các làng mạc họ đi qua, họ vẫn chẳng nghe được tin tức gì về các nàng công chúa. Chẳng bao lâu, tiền bạc của họ cạn kiệt, họ buộc phải bán ngựa nếu không muốn từ bỏ cuộc tìm kiếm.
Even this money only lasted a little while longer, and nothing but their clothes lay between them and starvation. Ngay cả số tiền đó cũng chỉ đủ cầm cự thêm một thời gian ngắn, và giờ đây, thứ duy nhất ngăn họ khỏi chết đói là bộ quần áo trên người.
They sold the spare garments that were bound on their saddles, and went in the coats they stood up in to the inn, to beg for some food, as they were really starving. Họ bán nốt những bộ y phục dự phòng buộc trên yên ngựa, rồi khoác trên mình bộ áo duy nhất bước vào quán trọ, xin chút gì lót dạ vì họ thật sự sắp chết đói rồi.
When, however, they had to pay for what they had eaten and drank, they said to the host: ‘We have no money, and naught but the clothes we stand up in. Take these, and give us instead some old rags, and let us stay here and serve you.’ Tuy nhiên, khi phải trả tiền cho những gì đã ăn uống, họ nói với chủ quán: “Chúng tôi không có tiền, cũng chẳng có gì ngoài bộ quần áo độc nhất trên người. Ông hãy lấy chúng đi, đổi lại cho chúng tôi vài manh áo rách, và cho chúng tôi ở lại đây làm công cho ông.”
And the innkeeper was content with the bargain, and the generals remained, and were his servants. Chủ quán bằng lòng với thỏa thuận, và hai vị tướng quân ở lại làm người hầu cho ông ta.
All this time the king and queen remained in their palace hungering for their children, but not a word was heard of either of them or of the generals who had gone to seek for them. Suốt thời gian ấy, đức vuahoàng hậu ngày đêm mong ngóng tin con trong cung điện, nhưng chẳng có một lời hồi âm nào, kể cả từ hai vị tướng đã lên đường tìm kiếm.
Now there was living in the palace a faithful servant of the king’s called Bensurdatu, who had served him for many years, and when Bensurdatu saw how grieved the king was, he lifted up his voice and said to him: ‘Your majesty, let me go and seek your daughters.’ Lúc bấy giờ, trong cung có một người hầu trung thành của vua tên là Bensurdatu. Chàng đã phục vụ vua nhiều năm, và khi thấy đức vua sầu não, chàng bèn cất tiếng tâu: “Tâu bệ hạ, xin hãy để thần đi tìm các công chúa.”
‘No, no, Bensurdatu,’ replied the king. ‘Three daughters have I lost, and two generals, and shall I lose you also?’ “Không, không đâu, Bensurdatu,” nhà vua đáp. “Ta đã mất ba người con gái, hai vị tướng quân, lẽ nào ta lại mất thêm cả khanh nữa?”
But Bensurdatu said again: ‘Let me now go, your majesty; trust me, and I will bring you back your daughters.’ Nhưng Bensurdatu lại thưa: “Xin bệ hạ hãy để thần đi. Xin hãy tin tưởng thần, thần nhất định sẽ đưa các công chúa trở về.”
Then the king gave way, and Bensurdatu set forth, and rode on till he came to the inn, where he dismounted and asked for food. Bấy giờ nhà vua mới chấp thuận. Bensurdatu lên đường, chàng dong ngựa đi mãi cho tới khi đến một quán trọ, chàng xuống ngựa và gọi đồ ăn.
It was brought by the two generals, whom he knew at once in spite of their miserable clothes, and, much astonished, asked them how in the world they came there. Người mang thức ăn ra chính là hai vị tướng quân. Chàng nhận ra họ ngay lập tức dẫu họ đang khoác trên mình bộ quần áo rách rưới thảm hại. Vô cùng kinh ngạc, chàng hỏi sao trời xui đất khiến thế nào mà họ lại ra nông nỗi này.
They told him all their adventures, and he sent for the innkeeper, and said to him: ‘Give them back their garments, and I will pay everything that they owe you.’ Họ kể lại cho chàng nghe toàn bộ hành trình gian truân của mình. Bensurdatu liền cho gọi chủ quán và nói: “Hãy trả lại y phục cho họ, mọi nợ nần tôi sẽ thanh toán hết.”
And the innkeeper did as he was bid, and when the two generals were dressed in their proper clothes, they declared they would join Bensurdatu, and with him seek for the king’s daughters. Chủ quán làm theo lời chàng. Khi hai vị tướng quân được khoác lại bộ trang phục chỉnh tề của mình, họ tuyên bố sẽ đi theo Bensurdatu, cùng chàng tìm kiếm các công chúa của nhà vua.
The three companions rode on for many miles, and at length they came to a wild place, without sign of a human being. Ba người bạn đồng hành cưỡi ngựa đi thêm nhiều dặm nữa, và cuối cùng đến một vùng hoang vu, không một bóng người.
It was getting dark, and fearing to be lost on this desolate spot they pushed on their horses, and at last saw a light in the window of a tiny hut. Trời nhá nhem tối, vì sợ bị lạc ở nơi hoang vắng này, họ bèn thúc ngựa đi tiếp. Cuối cùng, họ nhìn thấy một ánh đèn le lói trong cửa sổ của một túp lều nhỏ.
‘Who comes there?’ asked a voice, as they knocked at the door. “Ai đó?” một giọng nói vọng ra khi họ gõ cửa.
‘Oh! have pity on us, and give us a night’s shelter,’ replied Bensurdatu; ‘we are three tired travellers who have lost our way.’ “Xin bà lão thương tình cho chúng tôi trú nhờ một đêm,” Bensurdatu đáp. “Chúng tôi là ba lữ khách mệt mỏi đã bị lạc đường.”
Then the door was opened by a very old woman who stood back, and beckoned them to enter. Cánh cửa liền mở ra, một bà lão bước lùi lại, ra hiệu mời họ vào.
‘Whence do you come, and whither do you go?’ said she. “Các ngươi từ đâu đến, và định đi đâu?” bà hỏi.
‘Ah, good woman, we have a heavy task before us,’ answered Bensurdatu, ‘we are bound to carry the king’s daughters back to the palace!’ “Thưa bà, chúng tôi có một nhiệm vụ nặng nề phía trước,” Bensurdatu trả lời. “Chúng tôi mang trọng trách đưa các công chúa của đức vua về lại cung điện!”
‘Oh, unhappy creatures,’ cried she, ‘you know not what you are doing! The king’s daughters were covered by a thick cloud, and no one knows where they may now be.’ “Ôi, những kẻ khốn khổ,” bà lão kêu lên, “các ngươi không biết mình đang làm gì đâu! Các công chúa đã bị một đám mây mù bao phủ, và không ai biết giờ họ đang ở nơi nào.”
‘Oh, tell us, if you know, my good woman,’ entreated Bensurdatu, ‘for with them lies all our happiness.’ “Xin bà lão hãy cho chúng tôi biết, nếu bà biết,” Bensurdatu khẩn khoản, “bởi vì hạnh phúc của chúng tôi đều nằm ở đó cả.”
‘Even if I were to tell you,’ answered she, ‘you could not rescue them. To do that you would have to go to the very bottom of a deep river, and though certainly you would find the king’s daughters there, yet the two eldest are guarded by two giants, and the youngest is watched by a serpent with seven heads.’ “Ngay cả khi ta có nói,” bà đáp, “các ngươi cũng không thể cứu họ được đâu. Muốn làm vậy, các ngươi phải xuống tận đáy một dòng sông sâu thẳm. Dù chắc chắn sẽ tìm thấy các công chúa ở đó, nhưng hai người chị lớn bị hai gã khổng lồ canh giữ, còn nàng út thì bị một con mãng xà bảy đầu trông chừng.”
The two generals, who stood by listening, were filled with terror at her words, and wished to return immediately; but Bensurdatu stood firm, and said: ‘Now we have got so far we must carry the thing through. Tell us where the river is, so that we may get there as soon as possible.’ Hai vị tướng quân đứng cạnh lắng nghe, lòng đầy khiếp sợ trước những lời của bà lão và muốn quay về ngay lập tức. Nhưng Bensurdatu vẫn vững vàng nói: “Đã đi được đến đây thì chúng ta phải theo đến cùng. Xin bà hãy cho chúng tôi biết dòng sông đó ở đâu, để chúng tôi có thể đến đó càng sớm càng tốt.”
And the old woman told them, and gave them some cheese, wine, and bread, so that they should not set forth starving; and when they had eaten and drunk they laid themselves down to sleep. Và bà lão chỉ đường cho họ, rồi cho họ ít phô mai, rượu và bánh mì để họ không phải lên đường với cái bụng đói. Sau khi ăn uống no say, họ nằm xuống đánh một giấc.
The sun had only just risen above the hills next morning before they all woke, and, taking leave of the wise woman who had helped them, they rode on till they came to the river. Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ló dạng sau rặng đồi, họ đã thức giấc. Họ từ biệt bà lão thông thái đã giúp đỡ mình rồi tiếp tục lên đường cho đến khi tới bờ sông.
‘I am the eldest,’ said one of the generals, ‘and it is my right to go down first.’ “Theo lẽ, tôi là người lớn nhất,” một vị tướng nói, “tôi có quyền được xuống trước.”
So the others fastened a cord round him, and gave him a little bell, and let him down into the water. Hai người kia bèn thắt một sợi dây thừng quanh người anh ta, đưa cho anh ta một chiếc chuông nhỏ, rồi từ từ thả anh ta xuống nước.
But scarcely had the river closed above his head when such dreadful rushing sounds and peals of thunder came crashing round about him that he lost all his courage, and rang his bell, if perchance it might be heard amidst all this clamour. Nhưng nước sông vừa ngập quá đầu, những âm thanh gầm rít kinh hoàng và những tiếng sấm sét long trời lở đất đã vang dội tứ phía, khiến anh ta mất hết can đảm và vội rung chuông, hy vọng tiếng chuông có thể được nghe thấy giữa mớ âm thanh hỗn loạn ấy.
Great was his relief when the rope began slowly to pull him upwards. Anh ta thở phào nhẹ nhõm khi cảm thấy sợi dây bắt đầu từ từ kéo mình lên.
Then the other general plunged in; but he fared no better than the first, and was soon on dry ground again. Rồi đến lượt vị tướng quân kia lao xuống, nhưng số phận cũng chẳng khá hơn người đầu tiên là mấy, và chẳng bao lâu anh ta cũng đã trở lại trên mặt đất khô ráo.
‘Well, you are a brave pair!’ said Bensurdatu, as he tied the rope round his own waist; ‘let us see what will happen to me.’ “Chà, hai vị thật là can đảm đấy!” Bensurdatu nói khi tự buộc dây thừng quanh eo mình, “để xem chuyện gì sẽ xảy ra với tôi nào.”
And when he heard the thunder and clamour round about him he thought to himself, ‘Oh, make as much noise as you like, it won’t hurt me!’ Và khi nghe thấy tiếng sấm gầm và những âm thanh gào thét xung quanh, chàng tự nhủ: “Cứ gầm rít thỏa thích đi, mấy thứ này chẳng làm ta nao núng đâu!”
When his feet touched the bottom he found himself in a large, brilliantly lighted hall, and in the middle sat the eldest princess, and in front of her lay a huge giant, fast asleep. Khi chân chàng chạm tới đáy, chàng thấy mình đang đứng trong một sảnh đường rộng lớn, sáng rực rỡ. Chính giữa là nàng công chúa cả đang ngồi, và trước mặt nàng là một gã khổng lồ to lớn đang ngủ say như chết.
Directly she saw Bensurdatu she nodded to him, and asked with her eyes how he had come there. Ngay khi nhìn thấy Bensurdatu, nàng liền gật đầu với chàng, và dùng ánh mắt để hỏi làm cách nào chàng đến được nơi đây.
For answer he drew his sword, and was about to cut off the giant’s head, when she stopped him quickly, and made signs to hide himself, as the giant was just beginning to wake. Đáp lời nàng, chàng liền tuốt gươm, vung lên định chém bay đầu gã khổng lồ. Nhưng nàng vội vàng cản lại và ra hiệu cho chàng ẩn mình, vì gã khổng lồ đã bắt đầu cựa mình tỉnh giấc.
‘I smell the flesh of a man!’ murmured he, stretching his great arms. “Ta ngửi thấy mùi thịt người!” gã duỗi đôi tay kềnh càng, lẩm bẩm.
‘Why, how in the world could any man get down here?’ replied she; ‘you had better go to sleep again.’ “Làm sao mà có người nào xuống được đây cơ chứ?” nàng công chúa đáp, “Ngài ngủ lại đi thì hơn.”
So he turned over and went to sleep. Then the princess signed to Bensurdatu, who drew his sword and cut off the giant’s head with such a blow that it flew into the corner. Thế là gã quay mình rồi ngủ tiếp. Nàng công chúa bèn ra hiệu cho Bensurdatu. Chàng tuốt gươm, vung một nhát chém sấm sét, chiếc đầu của gã khổng lồ bay vút vào tận góc phòng.
And the heart of the princess leapt within her, and she placed a golden crown on the head of Bensurdatu, and called him her deliverer. Trái tim công chúa như reo vui trong lồng ngực. Nàng trân trọng đặt một chiếc vương miện vàng lên đầu Bensurdatu và tôn chàng là vị cứu tinh của mình.
‘Now show me where your sisters are,’ he said, ‘that I may free them also.’ “Bây giờ xin nàng hãy cho ta biết các em gái của nàng ở đâu,” chàng nói, “để ta giải thoát cho họ luôn thể.”
So the princess opened a door, and led him into another hall, wherein sat her next sister, guarded by a giant who was fast asleep. Nàng công chúa bèn mở một cánh cửa, dẫn chàng vào một sảnh đường khác. Ở đó, người em kế của nàng đang ngồi, bị canh giữ bởi một gã khổng lồ cũng đang say ngủ.
When the second princess saw them, she made a sign to them to hide themselves, for the giant was showing symptoms of waking. Khi thấy họ, nàng công chúa thứ hai cũng ra hiệu cho họ ẩn nấp, vì gã khổng lồ đang có dấu hiệu thức giấc.
‘I smell man’s flesh!’ murmured he, sleepily. “Ta ngửi thấy mùi thịt người!” gã lẩm bẩm trong cơn mơ màng.
‘Now, how could any man get down here?’ asked she; ‘go to sleep again.’ “Làm sao mà có người nào xuống được đây cơ chứ?” nàng hỏi, “Ngài ngủ lại đi.”
And as soon as he closed his eyes, Bensurdatu stole out from his corner, and struck such a blow at his head that it flew far, far away. Và ngay khi gã vừa nhắm mắt, Bensurdatu lẻn ra từ góc khuất, vung một nhát gươm uy lực đến nỗi chiếc đầu của gã bay đi xa, thật xa.
The princess could not find words to thank Bensurdatu for what he had done, and she too placed in his hand a golden crown. Nàng công chúa không tìm được lời nào để cảm tạ Bensurdatu. Nàng cũng trao vào tay chàng một chiếc vương miện bằng vàng.
‘Now show me where your youngest sister is,’ said he, ‘that I may free her also.’ “Giờ xin hãy cho ta biết em út của hai vị ở đâu,” chàng nói, “để ta đi giải cứu nàng.”
‘Ah! that I fear you will never be able to do,’ sighed they, ‘for she is in the power of a serpent with seven heads.’ “Ôi! E rằng chàng sẽ không bao giờ làm được điều đó đâu,” hai nàng công chúa thở dài, “vì em ấy đang bị một con mãng xà bảy đầu giam giữ.”
‘Take me to him,’ replied Bensurdatu. ‘It will be a splendid fight.’ “Hãy đưa ta đến chỗ nó,” Bensurdatu đáp. “Đây hẳn sẽ là một trận thư hùng tráng lệ.”
Then the princess opened a door, and Bensurdatu passed through, and found himself in a hall that was even larger than the other two. Hai nàng công chúa liền mở một cánh cửa khác. Bensurdatu bước qua và thấy mình đang ở trong một sảnh đường còn rộng lớn hơn cả hai sảnh trước.
And there stood the youngest sister, chained fast to the wall, and before her was stretched a serpent with seven heads, horrible to see. Ở đó, nàng công chúa út bị xiềng chặt vào tường, và trước mặt nàng là một con mãng xà bảy đầu, trông vô cùng gớm ghiếc, đang nằm sõng soài.
As Bensurdatu came forward it twisted all its seven heads in his direction, and then made a quick dart to snatch him within its grasp. Vừa thấy Bensurdatu tiến vào, nó liền ngoảnh cả bảy cái đầu về phía chàng, rồi lao vút tới, định quắp lấy chàng.
But Bensurdatu drew his sword and laid about him, till the seven heads were rolling on the floor. Nhưng Bensurdatu đã tuốt gươm, vung lên tả xung hữu đột, chẳng mấy chốc bảy cái đầu của con quái vật đã lăn lóc trên sàn.
Flinging down his sword he rushed to the princess and broke her chains, and she wept for joy, and embraced him, and took the golden crown from off her head, and placed it in his hand. Vứt gươm xuống, chàng lao đến bên công chúa, phá tan xiềng xích cho nàng. Nàng vỡ òa trong niềm vui, ôm chầm lấy chàng rồi tháo chiếc vương miện vàng trên đầu mình, trân trọng đặt vào tay chàng.
‘Now we must go back to the upper world,’ said Bensurdatu, and led her to the bottom of the river. “Giờ chúng ta phải trở về dương thế thôi,” Bensurdatu nói, và dẫn nàng tới đáy sông.
The other princesses were waiting there, and he tied the rope round the eldest, and rung his bell. Các công chúa kia đã đợi sẵn ở đó. Chàng buộc dây thừng quanh người nàng cả rồi rung chuông.
And the generals above heard, and drew her gently up. Hai gã tướng quân ở trên nghe thấy, liền từ từ kéo nàng lên.
They then unfastened the cord and threw it back into the river, and in a few moments the second princess stood beside her sister. Sau đó chúng cởi dây, ném ngược trở lại dòng sông. Vài khoảnh khắc sau, nàng công chúa thứ hai đã đứng bên cạnh chị mình.
So now there were left only Bensurdatu and the youngest princess. Vậy là dưới đó chỉ còn lại Bensurdatu và nàng công chúa út.
‘Dear Bensurdatu,’ said she, ‘do me a kindness, and let them draw you up before me. I dread the treachery of the generals. Nàng thỏ thẻ: “Bensurdatu dấu yêu, xin hãy thương tình thiếp, hãy để họ kéo chàng lên trước. Thiếp e ngại lòng dạ tráo trở của hai vị tướng quân.”
‘No, no,’ replied Bensurdatu, ‘I certainly will not leave you down here. There is nothing to fear from my comrades.’ “Không, không đâu,” Bensurdatu đáp, “ta nhất định sẽ không bỏ nàng lại đây. Đừng sợ các đồng đội của ta.”
‘If it is your wish I will go up then; but first I swear that if you do not follow to marry me, I shall stay single for the rest of my life.’ “Nếu đó là ý chàng thì thiếp sẽ lên; nhưng trước hết thiếp xin thề, nếu chàng không theo lên để cưới thiếp, thiếp sẽ ở vậy suốt đời.”
Then he bound the rope round her, and the generals drew her up. Rồi chàng buộc dây quanh người nàng, và hai gã tướng quân kéo nàng lên.
But instead of lowering the rope again into the river, envy at the courage and success of Bensurdatu so filled the hearts of the two generals, that they turned away and left him to perish. Nhưng thay vì thả dây thừng xuống dòng sông lần nữa, lòng đố kỵ trước sự dũng cảm và thành công của Bensurdatu đã xâm chiếm trái tim hai vị tướng quân. Chúng quay lưng bỏ đi, mặc chàng chết dưới vực sâu.
And, more than that, they threatened the princesses, and forced them to promise to tell their parents that it was the two generals who had set them free. Hơn thế nữa, chúng còn đe dọa các nàng công chúa, ép họ phải hứa rằng sẽ thưa với cha mẹ rằng chính hai gã tướng quân đã giải cứu họ.
‘And if they should ask you about Bensurdatu, you must say you have never seen him,’ they added; and the princesses, fearing for their lives, promised everything, and they rode back to court together. “Và nếu đức vua có hỏi về Bensurdatu, các cô phải nói là chưa bao giờ gặp hắn,” chúng nói thêm. Các nàng công chúa vì sợ hãi cho tính mạng nên đành hứa mọi điều. Rồi họ cùng nhau quay trở về triều.
The king and queen were beside themselves with joy when they saw their dear children once more. Đức vuahoàng hậu vui mừng khôn xiết khi thấy lại những đứa con yêu quý của mình.
But when the generals had told their story, and the dangers they had run, the king declared that they had gained their reward, and that the two eldest princesses should become their wives. Sau khi nghe hai gã tướng quân kể lể câu chuyện của chúng, về những hiểm nguy chúng đã trải qua, nhà vua tuyên bố rằng chúng đã xứng đáng được ban thưởng, và hai nàng công chúa cả sẽ trở thành vợ của chúng.
And now we must see what poor Bensurdatu was doing. Còn bây giờ, chúng ta hãy xem Bensurdatu đáng thương đang làm gì.
He waited patiently a long, long time, but when the rope never came back he knew he had been right, and that his comrades had betrayed him. Chàng đã kiên nhẫn đợi một thời gian rất, rất lâu, nhưng khi sợi dây không bao giờ quay lại, chàng biết mình đã lo đúng, rằng những người đồng đội đã phản bội chàng.
‘Ah, now I shall never reach the world again,’ murmured he; but being a brave man, and knowing that moaning his fate would profit him nothing, he rose and began to search through the three halls, where, perhaps, he might find something to help him. “Ôi, giờ ta sẽ không bao giờ trở lại được dương thế nữa rồi,” chàng thì thầm. Nhưng vì là một người dũng cảm và biết rằng than thân trách phận cũng chẳng ích gì, chàng đứng dậy và bắt đầu tìm kiếm khắp ba sảnh đường, hy vọng tìm được thứ gì đó có thể giúp mình.
In the last one stood a dish, covered with food, which reminded him that he was hungry, and he sat down and ate and drank. Trong sảnh cuối cùng, có một chiếc đĩa đầy thức ăn, khiến chàng nhớ ra mình đang đói. Chàng ngồi xuống ăn uống.
Months passed away, when, one morning, as he was walking through the halls, he noticed a purse hanging on the wall, which had never been there before. Nhiều tháng trôi qua. Một buổi sáng, khi đang đi dạo qua các sảnh, chàng để ý thấy một chiếc túi gấm treo trên tường, một vật trước đây chưa từng có.
He took it down to examine it, and nearly let it fall with surprise when a voice came from the purse saying: ‘What commands have you?’ Chàng lấy nó xuống để xem xét, và suýt nữa đã làm rơi nó vì kinh ngạc khi một giọng nói từ trong túi vang lên: “Ngài có mệnh lệnh gì?”
‘Oh, take me out of this horrible place, and up into the world again;’ and in a moment he was standing by the river bank, with the purse tightly grasped in his hand. “Ồ, hãy đưa ta ra khỏi nơi khủng khiếp này, đưa ta trở lại dương thế!” Và chỉ trong một thoáng, chàng đã đứng bên bờ sông, tay vẫn nắm chặt chiếc túi gấm.
‘Now let me have the most beautiful ship that ever was built, all manned and ready for sea.’ “Bây giờ hãy cho ta một con tàu đẹp nhất từng được chế tạo, với đầy đủ thủy thủ đoàn và sẵn sàng ra khơi.”
And there was the ship, with a flag floating from its mast on which were the words, ‘King with the three crowns.’ Và một con tàu lộng lẫy hiện ra, trên cột buồm phấp phới một lá cờ có thêu dòng chữ: “Đức Vua Ba Vương Miện.”
Then Bensurdatu climbed on board, and sailed away to the city where the three princesses dwelt; and when he reached the harbour he blew trumpets and beat drums, so that every one ran to the doors and windows. Bensurdatu liền lên tàu, dong buồm đến thành phố nơi ba nàng công chúa ở. Khi đến bến cảng, chàng cho thổi tù và, gióng trống vang lừng khiến mọi người đổ xô ra cửa sổ và cửa ra vào.
And the king heard too, and saw the beautiful vessel, and said to himself: ‘That must indeed be a mighty monarch, for he has three crowns while I have only one.’ Đức vua cũng nghe thấy, và khi nhìn thấy con tàu tráng lệ, ngài tự nhủ: “Đó hẳn phải là một vị vua hùng mạnh, bởi ngài có tới ba vương miện trong khi ta chỉ có một.”
So he hastened to greet the stranger, and invited him to his castle, for, thought he, ‘this will be a fine husband for my youngest daughter.’ Thế là ngài vội vàng ra nghênh đón người khách lạ và mời ngài về lâu đài, bởi ngài nghĩ thầm: “Đây sẽ là một tấm chồng xứng đáng cho cô con gái út của mình.”
Now, the youngest princess had never married, and had turned a deaf ear to all her wooers. Số là, nàng công chúa út vẫn chưa kết hôn và đã từ chối mọi lời cầu hôn.
Such a long time had passed since Bensurdatu had left the palace, that the king never guessed for a moment that the splendidly clad stranger before him was the man whom he had so deeply mourned as dead. Đã quá lâu kể từ ngày Bensurdatu rời khỏi hoàng cung, nên dù chỉ trong một thoáng, nhà vua cũng không hề mảy may nghi ngờ rằng vị khách lạ ăn vận sang trọng kia chính là người mà ông đã vô cùng thương tiếc, ngỡ đã vùi thây nơi nào.
‘Noble lord,’ said he, ‘let us feast and make merry together, and then, if it seem good to you, do me the honour to take my youngest daughter to wife.’ “Thưa Đức Vua tôn kính,” ngài nói, “chúng ta hãy cùng nhau yến tiệc vui vầy, và sau đó, nếu ngài thấy hài lòng, xin hãy ban cho trẫm vinh hạnh được gả công chúa út cho ngài.”
And Bensurdatu was glad, and they all sat down to a great feast, and there were great rejoicings. Bensurdatu vui mừng khôn xiết. Họ cùng ngồi vào bàn đại yến, và không khí vô cùng hoan hỉ.
But only the youngest daughter was sad, for her thoughts were with Bensurdatu. Chỉ riêng nàng công chúa út là u sầu, vì lòng nàng vẫn luôn hướng về Bensurdatu.
After they arose from the table the king said to her, ‘Dear child, this mighty lord does you the honour to ask your hand in marriage.’ Sau khi tàn tiệc, nhà vua nói với nàng: “Con yêu, vị vua hùng mạnh này đã ban cho con vinh dự được hỏi cưới con đó.”
‘Oh, father,’ answered she, ‘spare me, I pray you, for I desire to remain single.’ “Thưa cha,” nàng đáp, “xin cha hãy tha cho con, con chỉ muốn ở vậy thôi.”
Then Bensurdatu turned to her, and said: ‘And if I were Bensurdatu, would you give the same answer to me?’ Bấy giờ Bensurdatu quay sang nàng và nói: “Vậy nếu ta chính là Bensurdatu, nàng có trả lời như vậy không?”
And as she stood silently gazing at him, he added: ‘Yes, I am Bensurdatu; and this is my story.’ Khi nàng vẫn đứng lặng yên nhìn chàng, chàng nói tiếp: “Phải, ta chính là Bensurdatu, và đây là câu chuyện của ta.”
The king and queen had their hearts stirred within them at the tale of his adventures, and when he had ended the king stretched out his hand, and said: ‘Dear Bensurdatu, my youngest daughter shall indeed be your wife; and when I die my crown shall be yours. Lắng nghe câu chuyện của chàng, đức vuahoàng hậu không khỏi xúc động bồi hồi. Khi chàng kể xong, nhà vua đưa tay ra và nói: “Bensurdatu thân mến, con gái út của trẫm quả thực sẽ là vợ của khanh; và khi trẫm qua đời, vương miện này sẽ là của khanh.
As for the men who have betrayed you, they shall leave the country and you shall see them no more.’ Còn về những kẻ đã phản bội khanh, chúng sẽ bị trục xuất khỏi đất nước này và khanh sẽ không bao giờ phải thấy chúng nữa.”
And the wedding feast was ordered, and rejoicings were held for three days over the marriage of Bensurdatu and the youngest princess. Và thế là, một hôn lễ long trọng được tổ chức. Tiệc mừng đám cưới của Bensurdatu và nàng công chúa út kéo dài suốt ba ngày ba đêm trong niềm hân hoan của cả vương quốc.
[From the Sicilianische Märchen.] [Dựa trên truyện cổ tích vùng Sicilia]
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.