3 – Mối duyên kỳ lạ

An Impossible Enchantment Mối Duyên Kỳ Lạ
There once lived a king who was much loved by his people, and he, too, loved them warmly. Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua được dân chúng hết lòng yêu mến, và ngài cũng hết mực thương yêu họ.
He led a very happy life, but he had the greatest dislike to the idea of marrying, nor had he ever felt the slightest wish to fall in love. Cuộc sống của nhà vua vô cùng hạnh phúc, chỉ có điều ngài lại ghét cay ghét đắng chuyện cưới xin, và cũng chưa bao giờ mảy may có ý muốn phải lòng một ai.
His subjects begged him to marry, and at last he promised to try to do so. Thần dân của ngài tha thiết cầu xin ngài kết hôn, cuối cùng ngài cũng hứa sẽ thử.
But as, so far, he had never cared for any woman he had seen, he made up his mind to travel in hopes of meeting some lady he could love. Nhưng vì từ trước đến nay, ngài chưa từng để mắt tới bất kỳ người phụ nữ nào, nên ngài quyết định sẽ vi hành khắp nơi với hy vọng gặp được một người có thể khiến trái tim ngài rung động.
So he arranged all the affairs of state in an orderly manner, and set out, attended by only one equerry, who, though not very clever, had most excellent good sense. Thế là, ngài sắp xếp mọi việc triều chính đâu vào đấy, rồi lên đường, chỉ có một viên thị vệ duy nhất tháp tùng. Người thị vệ này tuy không sắc sảo lanh lợi, nhưng lại có óc phán đoán vô cùng khôn ngoan.
These people indeed generally make the best fellow travellers. Quả thật, những người như vậy thường là bạn đồng hành tuyệt vời nhất.
The king explored several countries, doing all he could to fall in love, but in vain; and at the end of two years’ journeys he turned his face towards home, with as free a heart as when he set out. Nhà vua đã đi qua biết bao vương quốc, làm mọi cách để có thể yêu một ai đó, nhưng tất cả đều vô ích. Sau hai năm ròng rã, ngài đành quay ngựa trở về quê hương với một trái tim vẫn tự do như lúc ban đầu.
As he was riding along through a forest he suddenly heard the most awful miawing and shrieking of cats you can imagine. Khi đang cưỡi ngựa băng qua một khu rừng, ngài bỗng nghe thấy những tiếng mèo kêu gào và rít lên khủng khiếp nhất mà người ta có thể tưởng tượng.
The noise drew nearer, and nearer, and at last they saw a hundred huge Spanish cats rush through the trees close to them. Tiếng ồn ngày một gần hơn, và cuối cùng, họ nhìn thấy cả trăm con mèo Tây Ban Nha khổng lồ lao qua những lùm cây ngay cạnh họ.
They were so closely packed together that you could easily have covered them with a large cloak, and all were following the same track. Chúng chen chúc nhau đến nỗi người ta có thể dễ dàng dùng một chiếc áo choàng lớn để phủ lên tất cả, và chúng đều đang đuổi theo cùng một dấu vết.
They were closely pursued by two enormous apes, dressed in purple suits, with the prettiest and best made boots you ever saw. Ngay sau chúng là hai con vượn khổng lồ mặc trang phục màu tím, đi những đôi ủng xinh xắn và khéo léo nhất mà bạn từng thấy.
The apes were mounted on superb mastiffs, and spurred them on in hot haste, blowing shrill blasts on little toy trumpets all the time. Hai con vượn cưỡi trên những con chó ngao tuyệt đẹp, thúc chúng lao đi vun vút, đồng thời liên hồi thổi những chiếc kèn đồ chơi bé xíu inh ỏi.
The king and his equerry stood still to watch this strange hunt, which was followed by twenty or more little dwarfs, some mounted on wolves, and leading relays, and others with cats in leash. Nhà vua và viên thị vệ đứng yên lặng theo dõi cuộc săn kỳ lạ này. Đi sau cùng là khoảng hai mươi chú lùn, kẻ thì cưỡi trên lưng sói, kẻ thì dắt theo những con thú khác để đổi, và một số thì dắt theo những con mèo bị xích.
The dwarfs were all dressed in purple silk liveries like the apes. Tất cả các chú lùn đều mặc bộ đồng phục lụa màu tím giống như lũ vượn.
A moment later a beautiful young woman mounted on a tiger came in sight. Một lát sau, một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần cưỡi trên lưng một con hổ hiện ra.
She passed close to the king, riding at full speed, without taking any notice of him; but he was at once enchanted by her, and his heart was gone in a moment. Nàng lướt qua nhà vua với tốc độ phi mã mà không hề để ý đến ngài; nhưng chỉ một thoáng đó thôi cũng đủ làm ngài say đắm, trái tim ngài đã bị đánh cắp trong chớp mắt.
To his great joy he saw that one of the dwarfs had fallen behind the rest, and at once began to question him. Ngài mừng rỡ vô cùng khi thấy một chú lùn bị tụt lại phía sau và lập tức đến gần để hỏi chuyện.
The dwarf told him that the lady he had just seen was the Princess Mutinosa, the daughter of the king in whose country they were at that moment. Chú lùn cho biết người phụ nữ mà nhà vua vừa thấy là Công chúa Mutinosa, con gái của vị vua đang trị vì vương quốc này.
He added that the princess was very fond of hunting, and that she was now in pursuit of rabbits. Chú còn nói thêm rằng công chúa rất thích đi săn và hiện đang săn thỏ.
The king then asked the way to the court, and having been told it, hurried off, and reached the capital in a couple of hours. Nhà vua liền hỏi đường đến hoàng cung. Sau khi được chỉ dẫn, ngài vội vã lên đường và chỉ mất hai giờ sau đã đến kinh thành.
As soon as he arrived, he presented himself to the king and queen, and on mentioning his own name and that of his country, was received with open arms. Vừa tới nơi, ngài liền đến ra mắt đức vua và hoàng hậu, và khi ngài xưng tên cùng với tên vương quốc của mình, ngài đã được đón tiếp vô cùng nồng hậu.
Not long after, the princess returned, and hearing that the hunt had been very successful, the king complimented her on it, but she would not answer a word. Không lâu sau đó, công chúa trở về. Nghe tin chuyến đi săn thành công rực rỡ, nhà vua đã chúc mừng nàng, nhưng nàng không đáp lại một lời.
Her silence rather surprised him, but he was still more astonished when he found that she never spoke once all through supper-time. Sự im lặng của nàng khiến ngài có phần ngạc nhiên, nhưng ngài còn kinh ngạc hơn khi thấy suốt bữa tối, nàng không hề nói một câu nào.
Sometimes she seemed about to speak, but whenever this was the case her father or mother at once took up the conversation. Đôi lúc nàng có vẻ như sắp mở lời, nhưng hễ vậy là đức vua hoặc hoàng hậu lại lập tức bắt sang chuyện khác.
However, this silence did not cool the king’s affection, and when he retired to his rooms at night he confided his feelings to his faithful equerry. Tuy nhiên, sự im lặng này không làm nguội đi tình cảm của nhà vua. Khi trở về phòng nghỉ đêm đó, ngài đã thổ lộ lòng mình với viên thị vệ trung thành.
But the equerry was by no means delighted at his king’s love affair, and took no pains to hide his disappointment. Nhưng viên thị vệ lại chẳng hề vui mừng trước mối tình của vua mình, và cũng không hề giấu giếm sự thất vọng.
‘But why are you vexed?’ asked the king. ‘Surely the princess is beautiful enough to please anyone?’ “Nhưng tại sao khanh lại phiền lòng?” nhà vua hỏi. “Chẳng lẽ công chúa không đủ xinh đẹp để làm hài lòng bất cứ ai sao?”
‘She is certainly very handsome,’ replied the equerry, ‘but to be really happy in love something more than beauty is required. “Công chúa quả thực rất xinh đẹp,” viên thị vệ đáp, “nhưng để thực sự hạnh phúc trong tình yêu, người ta cần nhiều thứ hơn là sắc đẹp.
To tell the truth, sire,’ he added, ‘her expression seems to me hard.’ Thưa bệ hạ, nói thật là,” ông nói thêm, “thần thấy nét mặt của công chúa có vẻ khắc nghiệt.”
‘That is pride and dignity,’ said the king, ‘and nothing can be more becoming.’ “Đó là kiêu hãnh và phẩm giá,” nhà vua nói, “và không gì xứng hợp hơn thế.”
‘Pride or hardness, as you will,’ said the equerry; ‘but to my mind the choice of so many fierce creatures for her amusements seems to tell of a fierce nature, and I also think there is something suspicious in the care taken to prevent her speaking.’ “Kiêu hãnh hay khắc nghiệt, tùy bệ hạ nghĩ,” viên thị vệ nói. “Nhưng theo thần, việc chọn những sinh vật hung dữ đến vậy làm thú tiêu khiển dường như cho thấy một bản tính cũng hung dữ không kém. Và thần cũng nghĩ có điều gì đó đáng ngờ trong việc mọi người cố gắng ngăn không cho công chúa nói.”
The equerry‘s remarks were full of good sense; but as opposition is only apt to increase love in the hearts of men, and especially of kings who hate being contradicted, this king begged, the very next day, for the hand of the Princess Mutinosa. Những lời nhận xét của viên thị vệ thật sự sâu sắc, nhưng bởi sự phản đối thường chỉ càng làm cho tình yêu trong lòng đàn ông thêm mãnh liệt, đặc biệt là với các vị vua vốn ghét bị trái ý, nên ngay ngày hôm sau, nhà vua đã ngỏ lời cầu hôn Công chúa Mutinosa.
It was granted him on two conditions. Lời cầu hôn được chấp thuận với hai điều kiện.
The first was that the wedding should take place the very next day; and the second, that he should not speak to the princess till she was his wife; to all of which the king agreed, in spite of his equerry‘s objections, so that the first word he heard his bride utter was the ‘Yes’ she spoke at their marriage. Thứ nhất là đám cưới sẽ diễn ra ngay ngày hôm sau; và thứ hai, ngài không được nói chuyện với công chúa cho đến khi nàng trở thành vợ của ngài. Nhà vua đồng ý tất cả, bất chấp sự phản đối của viên thị vệ. Vì vậy, từ đầu tiên mà ngài nghe được từ cô dâu của mình chính là tiếng “Vâng” nàng nói trong lễ cưới.
Once married, however, she no longer placed any check on herself, and her ladies-in-waiting came in for plenty of rude speeches—— even the king did not escape scolding; but as he was a good- tempered man, and very much in love, he bore it patiently. Thế nhưng, một khi đã kết hôn, nàng không còn kiềm chế bản thân nữa. Các thị nữ của nàng thường xuyên phải nghe những lời lẽ thô lỗ, ngay cả nhà vua cũng không thoát khỏi những lời trách mắng. Nhưng vì ngài là một người hiền hậu và đang yêu say đắm, nên ngài đã kiên nhẫn chịu đựng.
A few days after the wedding the newly married pair set out for their kingdom without leaving many regrets behind. Vài ngày sau đám cưới, đôi vợ chồng mới cưới lên đường trở về vương quốc của họ mà không để lại chút luyến tiếc nào.
The good equerry‘s fears proved only too true, as the king found out to his cost. Những lo sợ của viên thị vệ tốt bụng đã trở thành sự thật cay đắng mà nhà vua phải nếm trải.
The young queen made her self most disagreeable to all her court, her spite and bad temper knew no bounds, and before the end of a month she was known far and wide as a regular vixen. Hoàng hậu trẻ tuổi đã khiến cả triều đình phải khó chịu, sự hiểm độc và tính khí tồi tệ của nàng không có giới hạn, và chưa đầy một tháng sau, nàng đã nổi tiếng khắp nơi là một người đàn bà đanh đá chua ngoa.
One day, when riding out, she met a poor old woman walking along the road, who made a curtsy and was going on, when the queen had her stopped, and cried: ‘You are a very impertinent person; don’t you know that I am the queen? And how dare you not make me a deeper curtsy?’ Một hôm, khi đang cưỡi ngựa ra ngoài, nàng gặp một bà lão nghèo đang đi bộ bên đường. Bà lão nhún gối cúi chào rồi định đi tiếp thì bị hoàng hậu cho người chặn lại và quát: “Ngươi đúng là một kẻ vô lễ! Ngươi không biết ta là hoàng hậu sao? Sao ngươi dám không cúi chào ta thấp hơn?”
‘Madam,’ said the old woman, ‘I have never learnt how to measure curtsies; but I had no wish to fail in proper respect.’ “Thưa phu nhân,” bà lão nói, “tôi chưa bao giờ học cách đo đếm một cái cúi chào, nhưng tôi không hề có ý thiếu tôn trọng.”
‘What!’ screamed the queen; ‘she dares to answer! Tie her to my horse’s tail and I’ll just carry her at once to the best dancing- master in the town to learn how to curtsy.’ “Cái gì!” hoàng hậu hét lên. “Mụ ta dám trả lời à! Trói mụ vào đuôi ngựa của ta, ta sẽ đưa mụ đến ngay vũ sư giỏi nhất trong thành để học cách cúi chào.”
The old woman shrieked for mercy, but the queen would not listen, and only mocked when she said she was protected by the fairies. Bà lão gào khóc xin tha mạng, nhưng hoàng hậu không thèm nghe, mà chỉ chế giễu khi bà nói rằng mình được các vị tiên bảo vệ.
At last the poor old thing submitted to be tied up, but when the queen urged her horse on he never stirred. Cuối cùng, bà lão đáng thương đành chịu bị trói, nhưng khi hoàng hậu thúc ngựa đi, con ngựa không hề nhúc nhích.
In vain she spurred him, he seemed turned to bronze. Nàng thúc mạnh thế nào, nó cũng trơ ra như một pho tượng đồng.
At the same moment the cord with which the old woman was tied changed into wreaths of flowers, and she herself into a tall and stately lady. Cùng lúc đó, sợi dây thừng trói bà lão biến thành những vòng hoa, còn chính bà thì hóa thành một phu nhân cao quý và trang nghiêm.
Looking disdainfully at the queen, she said, ‘Bad woman, unworthy of your crown; I wished to judge for myself whether all I heard of you was true. Nhìn hoàng hậu với vẻ khinh miệt, bà nói: “Hỡi người đàn bà xấu xa, không xứng đáng với vương miện của mình. Ta muốn tự mình xem xét liệu những gì ta nghe về ngươi có đúng sự thật không.
I have now no doubt of it, and you shall see whether the fairies are to be laughed at.’ Giờ thì ta không còn nghi ngờ gì nữa, và ngươi sẽ thấy các vị tiên có đáng bị chế giễu hay không.”
So saying the fairy Placida (that was her name) blew a little gold whistle, and a chariot appeared drawn by six splendid ostriches. Nói rồi, tiên nữ Placida (đó là tên của bà) thổi một chiếc còi vàng nhỏ, và một cỗ xe do sáu con đà điểu tráng lệ kéo xuất hiện.
In it was seated the fairy queen, escorted by a dozen other fairies mounted on dragons. Trên xe là Nữ hoàng các loài tiên, được hộ tống bởi một tá tiên nữ khác cưỡi trên lưng rồng.
All having dismounted, Placida told her adventures, and the fairy queen approved all she had done, and proposed turning Mutinosa into bronze like her horse. Sau khi tất cả đã xuống xe, Placida kể lại câu chuyện của mình. Nữ hoàng các loài tiên hoàn toàn đồng ý với những gì bà đã làm, và đề nghị biến Mutinosa thành tượng đồng giống như con ngựa của nàng.
Placida, however, who was very kind and gentle, begged for a milder sentence, and at last it was settled that Mutinosa should become her slave for life unless she should have a child to take her place. Tuy nhiên, Placida vốn rất tốt bụng và hiền dịu, đã xin một hình phạt nhẹ nhàng hơn. Cuối cùng, họ quyết định rằng Mutinosa sẽ phải làm nô tỳ cho bà suốt đời, trừ khi sinh được một đứa con để thế chỗ.
The king was told of his wife’s fate and submitted to it, which, as he could do nothing to help it, was the only course open to him. Nhà vua được báo về số phận của vợ mình và đành chấp nhận. Vì không thể làm gì để thay đổi, đó là cách duy nhất mà ngài có thể làm.
The fairies then all dispersed, Placida taking her slave with her, and on reaching her palace she said: ‘You ought by rights to be scullion, but as you have been delicately brought up the change might be too great for you. Sau đó, các vị tiên rời đi, Placida mang theo nữ nô tỳ của mình. Về đến cung điện, bà nói: “Lẽ ra ngươi phải làm kẻ rửa bát, nhưng vì ngươi được nuôi dưỡng trong nhung lụa, sự thay đổi đó có thể quá sức đối với ngươi.
I shall therefore only order you to sweep my rooms carefully, and to wash and comb my little dog.’ Vì vậy, ta chỉ ra lệnh cho ngươi quét dọn các phòng của ta thật cẩn thận, và tắm rửa chải lông cho chú chó nhỏ của ta.”
Mutinosa felt there was no use in disobeying, so she did as she was bid and said nothing. Mutinosa cảm thấy chống đối cũng vô ích, nên nàng lẳng lặng làm theo những gì được sai bảo.
After some time she gave birth to a most lovely little girl, and when she was well again the fairy gave her a good lecture on her past life, made her promise to behave better in future, and sent her back to the king, her husband. Một thời gian sau, nàng hạ sinh một bé gái xinh xắn tựa thiên thần. Khi nàng đã bình phục, bà tiên đã giảng cho nàng một bài học về cuộc sống đã qua, bắt nàng hứa sẽ sống tốt hơn trong tương lai, rồi đưa nàng trở về với nhà vua, chồng của nàng.
Placida now gave herself up entirely to the little princess who was left in her charge. Giờ đây, Placida toàn tâm toàn ý chăm sóc cho nàng công chúa nhỏ được giao phó.
She anxiously thought over which of the fairies she would invite to be godmothers, so as to secure the best gift, for her adopted child. Bà lo lắng nghĩ xem nên mời những vị tiên nào làm mẹ đỡ đầu để con gái nuôi của mình nhận được những món quà tốt đẹp nhất.
At last she decided on two very kindly and cheerful fairies, and asked them to the christening feast. Cuối cùng, bà quyết định chọn hai vị tiên rất tốt bụng và vui vẻ rồi mời họ đến dự lễ rửa tội.
Directly it was over the baby was brought to them in a lovely crystal cradle hung with red silk curtains embroidered with gold. Ngay khi buổi lễ kết thúc, em bé được đưa đến trước mặt họ trong một chiếc nôi pha lê tuyệt đẹp có rèm lụa đỏ thêu kim tuyến vàng.
The little thing smiled so sweetly at the fairies that they decided to do all they could for her. Cô bé mỉm cười với các vị tiên một cách ngọt ngào đến nỗi họ quyết định sẽ làm mọi điều tốt nhất cho cô.
They began by naming her Graziella, and then Placida said: ‘You know, dear sisters, that the commonest form of spite or punishment amongst us consists of changing beauty to ugliness, cleverness to stupidity, and oftener still to change a person’s form altogether. Họ bắt đầu bằng việc đặt tên cho cô bé là Graziella. Sau đó Placida nói: “Các chị thân mến, các chị biết đấy, hình phạt hay sự đố kỵ phổ biến nhất giữa chúng ta là biến cái đẹp thành xấu xí, sự thông minh thành ngu ngốc, và thường hơn cả là thay đổi hoàn toàn hình dạng của một người.
Now, as we can only each bestow one gift, I think the best plan will be for one of you to give her beauty, the other good understanding, whilst I will undertake that she shall never be changed into any other form.’ Vì mỗi chúng ta chỉ có thể ban một món quà, em nghĩ cách tốt nhất là một trong hai chị sẽ ban cho con bé sắc đẹp, người còn lại ban cho sự thông tuệ, trong khi em sẽ đảm bảo rằng con bé sẽ không bao giờ bị biến thành bất cứ hình dạng nào khác.”
The two godmothers quite agreed, and as soon as the little princess had received their gifts, they went home, and Placida gave herself up to the child’s education. Hai vị mẹ đỡ đầu hoàn toàn đồng ý. Ngay khi nàng công chúa nhỏ nhận được những món quà, họ liền ra về, còn Placida thì chuyên tâm vào việc giáo dục đứa trẻ.
She succeeded so well with it, and little Graziella grew so lovely, that when she was still quite a child her fame was spread abroad only too much, and one day Placida was surprised by a visit from the Fairy Queen, who was attended by a very grave and severe- looking fairy. Bà đã thành công đến nỗi, Graziella bé bỏng ngày càng xinh đẹp, và khi còn rất nhỏ, danh tiếng của cô bé đã lan truyền quá xa. Một ngày nọ, Placida ngạc nhiên khi thấy Nữ hoàng các loài tiên đến thăm, đi cùng bà là một vị tiên có vẻ mặt rất nghiêm nghị và khắc khổ.
The queen began at once: ‘I have been much surprised by your behaviour to Mutinosa; she had insulted our whole race, and deserved punishment. Nữ hoàng bắt đầu ngay: “Ta rất ngạc nhiên về cách hành xử của ngươi đối với Mutinosa. Mụ ta đã xúc phạm cả giống loài của chúng ta và đáng bị trừng phạt.
You might forgive your own wrongs if you chose, but not those of others. Ngươi có thể tha thứ cho những tổn thương của riêng mình nếu muốn, nhưng không thể tha thứ cho những tổn thương của người khác.
You treated her very gently whilst she was with you, and I come now to avenge our wrongs on her daughter. Ngươi đã đối xử quá nhẹ nhàng với mụ ta khi mụ ở với ngươi, và giờ ta đến đây để trả thù cho giống loài chúng ta trên chính con gái của mụ.
You have ensured her being lovely and clever, and not subject to change of form, but I shall place her in an enchanted prison, which she shall never leave till she finds herself in the arms of a lover whom she herself loves. Ngươi đã đảm bảo cho nó xinh đẹp, thông minh, và không bị biến đổi hình dạng, nhưng ta sẽ nhốt nó vào một nhà ngục bị phù phép. Nàng sẽ không bao giờ được rời khỏi đó cho đến khi tìm thấy chính mình trong vòng tay của một người tình mà chính nàng cũng hết mực yêu thương.
It will be my care to prevent anything of the kind happening.’ Và việc của ta là ngăn không cho điều đó xảy ra.”
The enchanted prison was a large high tower in the midst of the sea, built of shells of all shapes and colours. Nhà ngục bị phù phép là một tòa tháp cao lớn giữa biển, được xây bằng đủ loại vỏ sò, vỏ ốc muôn hình vạn trạng, lấp lánh sắc màu.
The lower floor was like a great bathroom, where the water was let in or off at will. Tầng dưới cùng giống như một phòng tắm khổng lồ, nơi nước biển có thể được cho vào hoặc rút đi tùy ý.
The first floor contained the princess’s apartments, beautifully furnished. Tầng một là các gian phòng của công chúa, được trang hoàng lộng lẫy.
On the second was a library, a large wardrobe-room filled with beautiful clothes and every kind of linen, a music-room, a pantry with bins full of the best wines, and a store-room with all manner of preserves, bonbons, pastry and cakes, all of which remained as fresh as if just out of the oven. Tầng hai có một thư viện, một phòng trang phục lớn chứa đầy những bộ xiêm y mỹ miều và đủ loại vải vóc, một phòng nhạc, một phòng chứa thức ăn với những hầm rượu vang hảo hạng, và một kho chứa đủ loại mứt, kẹo, bánh ngọt và bánh nướng, tất cả đều luôn tươi mới như thể vừa ra lò.
The top of the tower was laid out like a garden, with beds of the loveliest flowers, fine fruit trees, and shady arbours and shrubs, where many birds sang amongst the branches. Đỉnh tháp được bài trí như một khu vườn, với những luống hoa thơm ngát, những cây ăn quả sum suê, cùng những giàn cây và bụi rậm rợp bóng mát, nơi vô số loài chim ca hót líu lo giữa các cành cây.
Part 2 Phần 2 (Hết)
The fairies escorted Graziella and her governess, Bonnetta, to the tower, and then mounted a dolphin which was waiting for them. Các vị tiên hộ tống Graziellacô giáo của nàng, bà Bonnetta, đến tòa tháp, rồi cùng nhau leo lên một con cá heo đang chờ sẵn.
At a little distance from the tower the queen waved her wand and summoned two thousand great fierce sharks, whom she ordered to keep close guard, and not to let a soul enter the tower Khi ra xa khỏi tòa tháp, nữ hoàng vung đũa thần và triệu tập hai ngàn con cá mập to lớn hung tợn. Bà ra lệnh cho chúng canh giữ chặt chẽ, không để một bóng người nào lọt được vào tòa tháp.
The good governess took such pains with Graziella’s education that when she was nearly grown up she was not only most accomplished, but a very sweet, good girl. giáo tốt bụng đã hết lòng dạy dỗ Graziella, nên khi cô bé gần đến tuổi trưởng thành, nàng không chỉ là một thiếu nữ tài năng xuất chúng mà còn có tâm hồn ngọt ngào, lương thiện.
One day, as the princess was standing on a balcony, she saw the most extraordinary figure rise out of the sea. Một hôm, khi công chúa đang đứng trên ban công, nàng trông thấy một hình thù vô cùng kỳ lạ trồi lên từ mặt biển.
She quickly called Bonnetta to ask her what it could be. Nàng vội gọi bà Bonnetta đến hỏi xem đó là gì.
It looked like some kind of man, with a bluish face and long sea-green hair. Nó trông giống như một người đàn ông, với gương mặt xanh xao và mái tóc dài màu xanh lục của biển cả.
He was swimming towards the tower, but the sharks took no notice of him. Hắn đang bơi về phía tòa tháp, nhưng lũ cá mập không hề để ý.
‘It must be a merman,’ said Bonnetta. “Chắc là một nhân ngư,” bà Bonnetta nói.
‘A man, do you say?’ cried Graziella; ‘let us hurry down to the door and see him nearer.’ “Là người sao ạ?” Graziella thốt lên. “Chúng ta mau xuống cửa xem cho gần hơn đi cô.”
When they stood in the doorway the merman stopped to look at the princess and made many signs of admiration. Khi hai người ra đứng trước ngưỡng cửa, chàng nhân ngư dừng lại ngắm nhìn công chúa và tỏ ra vô cùng ngưỡng mộ.
His voice was very hoarse and husky, but when he found that he was not understood he took to signs. Giọng nói của chàng ta rất khàn và đặc, nhưng khi thấy không ai hiểu mình, chàng chuyển sang ra hiệu.
He carried a little basket made of osiers and filled with rare shells, which he presented to the princess. Chàng mang theo một chiếc giỏ nhỏ đan bằng cành liễu, bên trong chứa đầy những vỏ sò quý hiếm, và dâng lên tặng công chúa.
She took it with signs of thanks; but as it was getting dusk she retired, and the merman plunged back into the sea. Nàng nhận lấy giỏ quà cùng với những cử chỉ cảm ơn; nhưng vì trời đã nhá nhem tối, nàng lui vào trong, còn chàng nhân ngư thì lặn sâu xuống biển.
When they were alone, Graziella said to her governess: ‘What a dreadful-looking creature that was! Why do those odious sharks let him come near the tower? I suppose all men are not like him?’ Khi chỉ còn lại hai người, Graziella nói với cô giáo: “Sinh vật đó trông thật gớm ghiếc! Tại sao lũ cá mập kinh tởm kia lại để hắn đến gần tòa tháp? Cháu cho rằng không phải người đàn ông nào cũng trông giống hắn đâu, phải không cô?”
‘No, indeed,’ replied Bonnetta. ‘I suppose the sharks look on him as a sort of relation, and so did not attack him.’ “Đúng vậy, dĩ nhiên là không rồi,” bà Bonnetta đáp. “Ta cho rằng lũ cá mập coi hắn là một loại bà con họ hàng gì đó nên mới không tấn công.”
A few days later the two ladies heard a strange sort of music, and looking out of the window, there was the merman, his head crowned with water plants, and blowing a great sea-shell with all his might. Vài ngày sau, hai cô trò lại nghe thấy một thứ âm nhạc kỳ lạ. Nhìn ra ngoài cửa sổ, họ thấy chàng nhân ngư đang ở đó, đầu đội vòng hoa kết từ những loài thủy sinh, và đang dốc hết sức thổi vào một chiếc tù và bằng vỏ ốc lớn.
They went down to the tower door, and Graziella politely accepted some coral and other marine curiosities he had brought her. Họ đi xuống cửa tòa tháp, và Graziella lịch sự nhận lấy một ít san hô cùng những món kỳ vật biển khác mà chàng mang đến.
After this he used to come every evening, and blow his shell, or dive and play antics under the princess’s window. Kể từ đó, tối nào chàng cũng đến, thổi chiếc tù và, hoặc lặn ngụp nô giỡn dưới cửa sổ của công chúa.
She contented herself with bowing to him from the balcony, but she would not go down to the door in spite of all his signs. Nàng chỉ gật đầu chào lại từ ban công, chứ nhất quyết không chịu xuống tận cửa mặc cho chàng ra hiệu đủ điều.
Some days later he came with a person of his own kind, but of another sex. Mấy hôm sau, chàng đến cùng với một người đồng loại, nhưng là nữ.
Her hair was dressed with great taste, and she had a lovely voice. Mái tóc của nàng được búi rất cầu kỳ và nàng có một giọng hát mê hồn.
This new arrival induced the ladies to go down to the door. Sự xuất hiện của người mới này đã thuyết phục hai cô trò đi xuống cửa.
They were surprised to find that, after trying various languages, she at last spoke to them in their own, and paid Graziella a very pretty compliment on her beauty. Họ ngạc nhiên khi thấy rằng, sau khi thử nói vài ngôn ngữ khác nhau, cuối cùng nàng tiên cá cũng nói với họ bằng chính tiếng của họ, và dành tặng Graziella một lời khen rất duyên dáng về vẻ đẹp của nàng.
The mermaid noticed that the lower floor was full of water. ‘Why,’ cried she, ‘ that is just the place for us, for we can’t live quite out of water.’ Nàng tiên cá để ý thấy tầng dưới cùng ngập đầy nước. “Ồ,” nàng kêu lên, “đây chính là nơi dành cho chúng tôi rồi, vì chúng tôi không thể sống hoàn toàn thiếu nước được.”
So saying, she and her brother swam in and took up a position in the bathroom, the princess and her governess seating themselves on the steps which ran round the room. Nói rồi, nàng và anh trai bơi vào và ngồi trong phòng tắm. Công chúa và cô giáo thì ngồi trên những bậc thềm bao quanh căn phòng.
‘No doubt, madam,’ said the mermaid, ‘you have given up living on land so as to escape from crowds of lovers; but I fear that even here you cannot avoid them, for my brother is already dying of love for you, and I am sure that once you are seen in our city he will have many rivals.’ “Chắc hẳn, thưa phu nhân,” nàng tiên cá nói, “phu nhân đã từ bỏ cuộc sống trên cạn để trốn tránh đám người theo đuổi; nhưng tôi e rằng ngay cả ở đây, phu nhân cũng khó lòng tránh khỏi, vì anh trai tôi đã say đắm phu nhân rồi, và tôi dám chắc rằng một khi phu nhân xuất hiện ở thành phố của chúng tôi, anh ấy sẽ có rất nhiều đối thủ.”
She then went on to explain how grieved her brother was not to be able to make himself understood, adding: ‘I interpret for him, having been taught several languages by a fairy.’ Rồi nàng giải thích rằng anh trai mình buồn bã biết bao khi không thể giãi bày lòng mình, và nói thêm: “Tôi sẽ là người thông dịch cho anh ấy. Tôi đã được một vị tiên dạy cho nhiều ngôn ngữ.”
‘Oh, then, you have fairies, too?’ asked Graziella, with a sigh. “Ồ, vậy là các vị cũng có tiên nữa sao?” Graziella hỏi, khẽ thở dài.
‘Yes, we have,’ replied the mermaid; ‘but if I am not mistaken you have suffered from the fairies on earth.’ “Vâng, chúng tôi có,” nàng tiên cá đáp, “nhưng nếu tôi không nhầm, thì dường như phu nhân đã phải chịu khổ vì những vị tiên trên mặt đất.”
The princess, on this, told her entire history to the mermaid, who assured her how sorry she felt for her, but begged her not to lose courage; adding, as she took her leave: Perhaps, some day, you may find a way out of your difficulties.’ Nghe vậy, công chúa đã kể hết câu chuyện của mình cho nàng tiên cá. Nàng tiên cá tỏ ra vô cùng thông cảm nhưng cũng khuyên công chúa đừng nản lòng, rồi nói thêm khi cáo từ: “Biết đâu một ngày nào đó, phu nhân sẽ tìm được lối thoát cho những khó khăn của mình.”
The princess was delighted with this visit and with the hopes the mermaid held out. Công chúa rất vui mừng sau cuộc trò chuyện này và những hy vọng mà nàng tiên cá mang lại.
It was something to meet someone fresh to talk to. Được gặp một người mới để trò chuyện quả là một điều thú vị.
‘We will make acquaintance with several of these people,’ she said to her governess, ‘and I dare say they are not all as hideous as the first one we saw. Anyhow, we shan’t be so dreadfully lonely.’ “Chúng ta sẽ làm quen với thêm nhiều người trong số họ,” nàng nói với cô giáo. “Cháu dám chắc là không phải ai cũng gớm ghiếc như người đầu tiên chúng ta thấy đâu. Dù sao đi nữa, chúng ta sẽ không còn cô đơn đến đáng sợ như vậy.”
‘Dear me,’ said Bonnetta, ‘ how hopeful young people are to be sure! As for me I feel afraid of these folk. But what do you think of the lover you have captivated?’ “Chao ôi,” bà Bonnetta nói, “những người trẻ tuổi quả là lạc quan! Còn ta thì lại thấy sợ những người này. Nhưng công chúa nghĩ sao về người tình mà công chúa đã quyến rũ được?”
‘Oh, I could never love him,’ cried the princess; ‘I can’t bear him. But, perhaps, as his sister says they are related to the fairy Marina, they may be of some use to us.’ “Ôi, cháu không bao giờ yêu hắn được,” công chúa kêu lên. “Cháu không chịu nổi hắn. Nhưng có lẽ, như em gái hắn nói, họ là họ hàng của tiên nữ Marina, biết đâu họ có thể giúp ích được gì đó cho chúng ta.”
The mermaid often returned, and each time she talked of her brother’s love, and each time Graziella talked of her longing to escape from her prison, till at length the mermaid promised to bring the fairy Marina to see her, in hopes she might suggest something. Nàng tiên cá thường xuyên trở lại, và lần nào nàng cũng nói về tình yêu của anh trai mình, lần nào Graziella cũng thổ lộ về khao khát thoát khỏi nhà ngục. Cuối cùng, nàng tiên cá hứa sẽ đưa tiên nữ Marina đến gặp nàng, với hy vọng bà có thể gợi ý điều gì đó.
Next day the fairy came with the mermaid, and the princess received her with delight. Ngày hôm sau, tiên nữ đến cùng nàng tiên cá. Công chúa vui mừng đón tiếp bà.
After a little talk she begged Graziella to show her the inside of the tower and let her see the garden on the top, for with the help of crutches she could manage to move about, and being a fairy could live out of water for a long time, provided she wetted her forehead now and then. Sau một hồi trò chuyện, bà ngỏ ý muốn Graziella dẫn đi tham quan bên trong tòa tháp và khu vườn trên đỉnh. Nhờ có đôi nạng, bà có thể đi lại được, và vì là tiên, bà có thể sống trên cạn một thời gian dài, miễn là thỉnh thoảng làm ướt trán.
Graziella gladly consented, and Bonnetta stayed below with the mermaid. Graziella vui vẻ đồng ý, còn bà Bonnetta ở lại bên dưới với nàng tiên cá.
When they were in the garden the fairy said: ‘Let us lose no time, but tell me how I can be of use to you.’ Khi đã ở trong vườn, tiên nữ nói: “Chúng ta đừng lãng phí thời gian nữa. Hãy cho ta biết ta có thể giúp gì cho cô.”
Graziella then told all her story and Marina replied: ‘My dear princess, I can do nothing for you as regards dry land, for my power does not reach beyond my own element. Graziella liền kể lại toàn bộ câu chuyện của mình, và Marina đáp: “Công chúa thân mến của ta, ta không thể làm gì cho cô liên quan đến đất liền, vì quyền năng của ta không vượt ra ngoài lãnh địa của mình.
I can only say that if you will honour my cousin by accepting his hand, you could then come and live amongst us. I could teach you in a moment to swim and dive with the best of us. I can harden your skin without spoiling its colour. My cousin is one of the best matches in the sea, and I will bestow so many gifts on him that you will be quite happy.’ Ta chỉ có thể nói rằng, nếu cô vinh hạnh chấp nhận lời cầu hôn của em họ ta, cô có thể đến sống cùng chúng ta. Ta có thể dạy cô bơi và lặn giỏi như bất kỳ ai trong chúng ta chỉ trong chốc lát. Ta có thể làm cho làn da của cô cứng cáp hơn mà không làm mất đi màu sắc. Em họ ta là một trong những mối tốt nhất ở dưới biển, và ta sẽ ban cho nó rất nhiều quà tặng để cô có thể hoàn toàn hạnh phúc.”
The fairy talked so well and so long that the princess was rather impressed, and promised to think the matter over. Vị tiên nói hay đến nỗi, và nói lâu đến nỗi công chúa đã có phần xiêu lòng và hứa sẽ suy nghĩ về việc đó.
Just as they were going to leave the garden they saw a ship sailing nearer the tower than any other had done before. Ngay khi họ chuẩn bị rời khỏi khu vườn, họ thấy một con tàu đang tiến lại gần tòa tháp hơn bất kỳ con tàu nào trước đó.
On the deck lay a young man under a splendid awning, gazing at the tower through a spy-glass; but before they could see anything clearly the ship moved away, and the two ladies parted, the fairy promising to return shortly. Trên boong tàu, một chàng trai trẻ đang nằm dưới một mái che lộng lẫy, chăm chú nhìn vào tòa tháp qua một chiếc kính viễn vọng; nhưng trước khi họ kịp nhìn rõ hơn, con tàu đã đi xa, và hai người chia tay, vị tiên hứa sẽ sớm trở lại.
As soon as she was gone Graziella told her governess what she had said. Bonnetta was not at all pleased at the turn matters were taking, for she did not fancy being turned into a mermaid in her old age. Ngay khi vị tiên rời đi, Graziella kể lại cho cô giáo những gì bà đã nói. Bà Bonnetta chẳng vui vẻ gì trước diễn biến của sự việc, vì bà không hề muốn bị biến thành một nàng tiên cá lúc tuổi già.
She thought the matter well over, and this was what she did. She was a very clever artist, and next morning she began to paint a picture of a handsome young man, with beautiful curly hair, a fine complexion, and lovely blue eyes. Bà suy nghĩ kỹ lưỡng về vấn đề này và đã làm như sau: Bà là một họa sĩ rất tài ba, và sáng hôm sau, bà bắt đầu vẽ một bức chân dung của một chàng trai trẻ tuấn tú, với mái tóc xoăn bồng bềnh, làn da khỏe khoắn, và đôi mắt xanh tuyệt đẹp.
When it was finished she showed it to Graziella, hoping it would show her the difference there was between a fine young man and her marine suitor. Khi hoàn thành, bà cho Graziella xem, hy vọng bức tranh sẽ cho nàng thấy sự khác biệt giữa một chàng trai trẻ tuấn tú và gã cầu hôn dưới biển kia.
The princess was much struck by the picture, and asked anxiously whether there could be any man so good looking in the world. Công chúa vô cùng kinh ngạc trước bức tranh, và lo lắng hỏi liệu trên đời có ai đẹp trai như vậy không.
Bonnetta assured her that there were plenty of them; indeed, many far handsomer. Bà Bonnetta cam đoan với nàng rằng có rất nhiều người như thế, thậm chí còn đẹp trai hơn nhiều.
‘I can hardly believe that,’ cried the princess; ‘but, alas! If there are, I don’t suppose I shall ever see them or they me, so what is the use? Oh, dear, how unhappy I am!’ “Cháu khó mà tin được,” công chúa kêu lên, “nhưng, than ôi! Nếu có, cháu cho rằng mình sẽ không bao giờ được thấy họ, và họ cũng chẳng thấy cháu, vậy thì có ích gì chứ? Ôi, trời ơi, cháu thật bất hạnh!”
She spent the rest of the day gazing at the picture, which certainly had the effect of spoiling all the merman’s hopes or prospects. Nàng dành phần còn lại của ngày để ngắm nhìn bức tranh, điều này chắc chắn đã làm tan vỡ mọi hy vọng hay triển vọng của chàng nhân ngư.
After some days, the fairy Marina came back to hear what was decided; but Graziella hardly paid any attention to her, and showed such dislike to the idea of the proposed marriage that the fairy went off in a regular huff. Vài ngày sau, tiên nữ Marina quay lại để nghe quyết định cuối cùng; nhưng Graziella gần như không để ý đến bà, và tỏ ra ghét bỏ ý tưởng về cuộc hôn nhân đến nỗi vị tiên tức giận bỏ đi.
Without knowing it, the princess had made another conquest. Mà không hề hay biết, công chúa đã có được một người say đắm khác.
On board the ship which had sailed so near was the handsomest prince in the world. Trên con tàu đã đi qua, có một vị hoàng tử đẹp trai nhất thế gian.
He had heard of the enchanted tower, and determined to get as near it as he could. Chàng đã nghe về tòa tháp bị phù phép và quyết tâm đến gần đó nhất có thể.
He had strong glasses on board, and whilst looking through them he saw the princess quite clearly, and fell desperately in love with her at once. Chàng có những chiếc kính viễn vọng cực mạnh trên tàu, và khi nhìn qua chúng, chàng đã thấy công chúa rất rõ và lập tức yêu nàng say đắm.
He wanted to steer straight for the tower and to row off to it in a small boat, but his entire crew fell at his feet and begged him not to run such a risk. Chàng muốn lái thẳng đến tòa tháp và chèo thuyền nhỏ đến đó, nhưng toàn bộ thủy thủ đoàn đã quỳ xuống chân chàng và van xin chàng đừng liều lĩnh như vậy.
The captain, too, urged him not to attempt it. ‘You will only lead us all to certain death,’ he said. ‘Pray anchor nearer land, and I will then seek a kind fairy I know, who has always been most obliging to me, and who will, I am sure, try to help your Highness.’ Thuyền trưởng cũng khuyên chàng không nên thử. “Ngài sẽ chỉ dẫn tất cả chúng ta đến cái chết chắc chắn,” ông nói. “Xin hãy neo tàu gần bờ hơn, và thần sẽ tìm một vị tiên tốt bụng mà thần biết, người luôn rất tử tế với thần, và người chắc chắn sẽ cố gắng giúp đỡ điện hạ.”
The prince rather unwillingly listened to reason. Hoàng tử có phần miễn cưỡng nghe theo lý lẽ.
He landed at the nearest point, and sent off the captain in all haste to beg the fairy’s advice and help. Chàng lên bờ tại điểm gần nhất, và phái thuyền trưởng đi gấp để cầu xin lời khuyên và sự giúp đỡ của vị tiên.
Meantime he had a tent pitched on the shore, and spent all his time gazing at the tower and looking for the princess through his spy-glass. Trong khi đó, chàng cho dựng một chiếc lều trên bờ và dành toàn bộ thời gian ngắm nhìn tòa tháp, tìm kiếm công chúa qua kính viễn vọng.
After a few days the captain came back, bringing the fairy with him. Sau vài ngày, thuyền trưởng trở về, mang theo vị tiên.
The prince was delighted to see her, and paid her great attention. Hoàng tử vui mừng khi thấy bà và hết sức kính trọng bà.
‘I have heard about this matter,’ she said; ‘and, to lose no time, I am going to send off a trusty pigeon to test the enchantment. “Ta đã nghe về chuyện này,” bà nói, “và để không mất thời gian, ta sẽ gửi một con bồ câu đáng tin cậy đi để thử nghiệm lời nguyền.
If there is any weak spot he is sure to find it out and get in. I shall bid him bring a flower back as a sign of success; and if he does so I quite hope to get you in too.’ Nếu có điểm yếu nào, nó chắc chắn sẽ tìm ra và lọt vào được. Ta sẽ dặn nó mang về một bông hoa làm dấu hiệu thành công; và nếu nó làm được, ta hy vọng có thể đưa con vào trong đó.”
‘But,’ asked the prince, ‘could I not send a line by the pigeon to tell the princess of my love?’ “Nhưng,” hoàng tử hỏi, “thần có thể gửi một lá thư qua bồ câu để nói với công chúa về tình yêu của mình không ạ?”
‘Certainly,’ replied the fairy, ‘it would be a very good plan.’ “Chắc chắn rồi,” vị tiên đáp, “đó sẽ là một kế hoạch rất hay.”
So the prince wrote as follows:—- ‘Lovely Princess,—-I adore you, and beg you to accept my heart, and to believe there is nothing I will not do to end your misfortunes.—-BLONDEL. Thế là hoàng tử viết như sau: “Công chúa xinh đẹp,— Ta ngưỡng mộ nàng, và cầu xin nàng hãy chấp nhận trái tim của ta, và tin rằng không có gì mà ta không thể làm để chấm dứt những bất hạnh của nàng.— BLONDEL
This note was tied round the pigeon‘s neck, and he flew off with it at once. Lá thư được buộc vào cổ con bồ câu, và nó lập tức bay đi.
He flew fast till he got near the tower, when a fierce wind blew so hard against him that he could not get on. Nó bay nhanh cho đến khi gần đến tòa tháp, một cơn gió dữ dội thổi ngược lại khiến nó không thể tiến lên.
But he was not to be beaten, but flew carefully round the top of the tower till he came to one spot which, by some mistake, had not been enchanted like the rest. Nhưng nó không hề nản chí, mà bay cẩn thận quanh đỉnh tháp cho đến khi đến một điểm mà do sai sót nào đó, đã không bị phù phép như phần còn lại.
He quickly slipped into the arbour and waited for the princess. Nó nhanh chóng lách vào giàn cây và đợi công chúa.
Before long Graziella appeared alone, and the pigeon at once fluttered to meet her, and seemed so tame that she stopped to caress the pretty creature. Không lâu sau, Graziella xuất hiện một mình, và con bồ câu lập tức bay đến gặp nàng. Nó có vẻ rất dạn dĩ khiến nàng dừng lại vuốt ve sinh vật xinh đẹp này.
As she did so she saw it had a pink ribbon round its neck, and tied to the ribbon was a letter. Khi làm vậy, nàng thấy nó có một dải ruy băng hồng quanh cổ, và buộc vào dải ruy băng là một lá thư.
She read it over several times and then wrote this answer: ‘You say you love me; but I cannot promise to love you without seeing you. Send me your portrait by this faithful messenger. If I return it to you, you must give up hope; but if I keep it you will know that to help me will be to help yourself.—-GRAZIELLA. Nàng đọc đi đọc lại nhiều lần rồi viết thư trả lời: “Chàng nói chàng yêu thiếp, nhưng thiếp không thể hứa sẽ yêu chàng mà chưa gặp mặt. Hãy gửi cho thiếp chân dung của chàng qua sứ giả trung thành này. Nếu thiếp trả lại, chàng phải từ bỏ hy vọng; nhưng nếu thiếp giữ lại, chàng sẽ biết rằng giúp thiếp cũng là giúp chính mình.— GRAZIELLA
Before flying back the pigeon remembered about the flower, so, seeing one in the princess’s dress, he stole it and flew away. Trước khi bay về, con bồ câu nhớ đến bông hoa, nên khi thấy một bông hoa trên áo của công chúa, nó đã lấy trộm rồi bay đi.
The prince was wild with joy at the pigeon‘s return with the note. Hoàng tử vui sướng như điên khi con bồ câu trở về cùng với lá thư.
After an hour’s rest the trusty little bird was sent back again, carrying a miniature of the prince, which by good luck he had with him. Sau một giờ nghỉ ngơi, chú chim nhỏ trung thành lại được phái đi, mang theo một bức tiểu họa của hoàng tử mà may mắn thay chàng có mang theo.
On reaching the tower the pigeon found the princess in the garden. She hastened to untie the ribbon, and on opening the miniature case what was her surprise and delight to find it very like the picture her governess had painted for her. Khi đến tòa tháp, con bồ câu thấy công chúa đang ở trong vườn. Nàng vội tháo dải ruy băng, và khi mở chiếc hộp tiểu họa, nàng đã vô cùng ngạc nhiên và vui sướng khi thấy nó rất giống với bức tranh mà cô giáo đã vẽ cho nàng.
She hastened to send the pigeon back, and you can fancy the prince’s joy when he found she had kept his portrait. Nàng vội gửi con bồ câu trở lại, và bạn có thể tưởng tượng được niềm vui của hoàng tử khi thấy nàng đã giữ lại chân dung của mình.
‘Now,’ said the fairy, ‘let us lose no more time. I can only make you happy by changing you into a bird, but I will take care to give you back your proper shape at the right time.’ “Bây giờ,” vị tiên nói, “chúng ta đừng mất thêm thời gian nữa. Ta chỉ có thể làm con hạnh phúc bằng cách biến con thành một con chim, nhưng ta sẽ đảm bảo trả lại hình dạng thực cho con vào đúng thời điểm.”
The prince was eager to start, so the fairy, touching him with her wand, turned him into the loveliest humming-bird you ever saw, at the same time letting him keep the power of speech. Hoàng tử háo hức lên đường. Vị tiên chạm cây đũa thần vào chàng, biến chàng thành một chú chim ruồi xinh đẹp nhất mà bạn từng thấy, đồng thời vẫn giữ cho chàng khả năng nói.
The pigeon was told to show him the way. Con bồ câu được lệnh dẫn đường cho chàng.
Graziella was much surprised to see a perfectly strange bird, and still more so when it flew to her saying, ‘Good-morning, sweet princess.’ Graziella rất ngạc nhiên khi thấy một con chim hoàn toàn xa lạ, và còn ngạc nhiên hơn khi nó bay đến chỗ nàng và nói: “Chào buổi sáng, công chúa ngọt ngào.”
She was delighted with the pretty creature, and let him perch on her finger, when he said, ‘Kiss, kiss, little birdie,’ which she gladly did, petting and stroking him at the same time. Nàng thích thú với sinh vật xinh đẹp này và để nó đậu trên ngón tay mình. Khi nó nói: “Hôn đi, hôn đi, chim nhỏ,” nàng vui vẻ làm theo, vừa vuốt ve và âu yếm nó.
After a time the princess, who had been up very early, grew tired, and as the sun was hot she went to lie down on a mossy bank in the shade of the arbour. Một lúc sau, công chúa, người đã thức dậy từ rất sớm, cảm thấy mệt. Vì trời nắng nóng, nàng đi nằm xuống một thảm rêu dưới bóng mát của giàn cây.
She held the pretty bird near her breast, and was just falling asleep, when the fairy contrived to restore the prince to his own shape, so that as Graziella opened her eyes she found herself in the arms of a lover whom she loved in return! Nàng ôm chú chim xinh đẹp vào lòng và vừa thiếp đi, thì vị tiên đã biến hoàng tử trở lại hình dạng cũ. Khi Graziella mở mắt, nàng thấy mình đang ở trong vòng tay của một người tình mà nàng cũng hết lòng yêu thương!
At the same moment her enchantment came to an end. Cùng lúc đó, lời nguyền của nàng được hóa giải.
The tower began to rock and to split. Bonnetta hurried up to the top so that she might at least perish with her dear princess. Tòa tháp bắt đầu rung chuyển và nứt ra. Bà Bonnetta vội chạy lên đỉnh để ít nhất cũng có thể chết cùng với công chúa yêu quý của mình.
Just as she reached the garden, the kind fairy who had helped the prince arrived with the fairy Placida, in a car of Venetian glass drawn by six eagles. Ngay khi bà lên đến khu vườn, vị tiên tốt bụng đã giúp hoàng tử và tiên nữ Placida đã đến trên một cỗ xe bằng kính Venetian do sáu con đại bàng kéo.
‘Come away quickly,’ they cried, ‘the tower is about to sink!’ The prince, princess, and Bonnetta lost no time in stepping into the car, which rose in the air just as, with a terrible crash, the tower sank into the depths of the sea, for the fairy Marina and the mermen had destroyed its foundations to avenge themselves on Graziella. “Mau lên!” họ kêu lên, “Tòa tháp sắp chìm rồi!” Hoàng tử, công chúa, và bà Bonnetta không chậm trễ bước lên xe. Cỗ xe bay vút lên không trung ngay khi, với một tiếng đổ sập kinh hoàng, tòa tháp chìm sâu xuống đáy biển, vì tiên nữ Marina và các nhân ngư đã phá hủy nền móng của nó để trả thù Graziella.
Luckily their wicked plans were defeated, and the good fairies took their way to the kingdom of Graziella’s parents. May mắn thay, kế hoạch độc ác của họ đã thất bại, và các vị tiên tốt bụng đã bay về vương quốc của cha mẹ Graziella.
They found that Queen Mutinosa had died some years ago, but her kind husband lived on peaceably, ruling his country well and happily. Họ thấy rằng Hoàng hậu Mutinosa đã qua đời vài năm trước, nhưng người chồng tốt bụng của bà vẫn sống trong yên bình, cai trị đất nước của mình một cách tốt đẹp và hạnh phúc.
He received his daughter with great delight, and there were universal rejoicings at the return of the lovely princess. Ông vui mừng đón con gái trở về, và khắp nơi đều hân hoan trước sự trở lại của nàng công chúa xinh đẹp.
The wedding took place the very next day, and, for many days after, balls, dinners, tournaments, concerts and all sorts of amusements went on all day and all night. Đám cưới diễn ra ngay ngày hôm sau, và trong nhiều ngày liền, các buổi khiêu vũ, yến tiệc, đấu thương, hòa nhạc và đủ mọi loại hình giải trí diễn ra suốt ngày đêm.
All the fairies were carefully invited, and they came in great state, and promised the young couple their protection and all sorts of good gifts. Tất cả các vị tiên đều được mời một cách trang trọng, và họ đã đến rất lộng lẫy, hứa sẽ bảo trợ và ban tặng cho đôi vợ chồng trẻ đủ mọi món quà tốt lành.
Prince Blondel and Princess Graziella lived to a good old age, beloved by every one, and loving each other more and more as time went on. Hoàng tử BlondelCông chúa Graziella sống đến trọn đời, được mọi người yêu mến, và ngày càng yêu thương nhau hơn theo năm tháng.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.