The Story of Dschemil and Dschemila | Chuyện kể về Dschemil và Dschemila |
---|---|
There was once a man whose name was Dschemil, and he had a cousin who was called Dschemila. | Ngày xửa ngày xưa, có một chàng trai tên là Dschemil, và chàng có một người em họ, tên là Dschemila. |
They had been betrothed by their parents when they were children, and now Dschemil thought that the time had come for them to be married, and he went two or three days’ journey, to the nearest big town, to buy furniture for the new house. | Hai người đã được cha mẹ đôi bên đính ước cho nhau từ thuở còn thơ bé. Giờ đây, Dschemil cho rằng đã đến lúc họ nên duyên chồng vợ, nên chàng đã lặn lội mất hai ba ngày đường để đến thị trấn lớn gần nhất sắm sửa đồ đạc cho tổ ấm mới. |
While he was away, Dschemila and her friends set off to the neighbouring woods to pick up sticks, and as she gathered them she found an iron mortar lying on the ground. | Nhân lúc chàng đi vắng, Dschemila cùng các bạn rủ nhau vào khu rừng gần đó để kiếm củi. Trong lúc nhặt củi, nàng tình cờ bắt gặp một chiếc cối bằng sắt nằm trên mặt đất. |
She placed it on her bundle of sticks, but the mortar would not stay still, and whenever she raised the bundle to put it on her shoulders it slipped off sideways. | Nàng đặt nó lên bó củi của mình, nhưng chiếc cối chẳng chịu nằm yên, cứ hễ nàng nhấc bó củi lên vai là nó lại tuột sang một bên. |
At length she saw the only way to carry the mortar was to tie it in the very middle of her bundle, and had just unfastened her sticks, when she heard her companions’ voices. | Cuối cùng, nàng nhận ra cách duy nhất là phải chằng nó vào chính giữa bó củi. Nàng vừa mới tháo dây buộc ra thì đã nghe tiếng bạn bè gọi với. |
‘Dschemila, what are you doing? it is almost dark, and if you mean to come with us you must be quick!’ | “Dschemila, cậu còn làm gì thế? Trời sắp tối mịt rồi, nếu muốn về cùng bọn tớ thì nhanh lên!” |
But Dschemila only replied, ‘You had better go back without me, for I am not going to leave my mortar behind, if I stay here till midnight.’ | Nhưng Dschemila chỉ đáp lại: “Các cậu cứ về trước đi, chứ tớ nhất quyết không bỏ lại chiếc cối này đâu, dẫu cho có phải ở lại đây đến nửa đêm.” |
‘Do as you like,’ said the girls, and started on their walk home. | “Vậy tùy cậu thôi,” các cô gái nói, rồi cất bước về nhà. |
The night soon fell, and at the last ray of light the mortar suddenly became an ogre, who threw Dschemila on his back, and carried her off into a desert place, distant a whole month’s journey from her native town. | Màn đêm nhanh chóng buông xuống, và khi tia sáng cuối cùng của ngày vụt tắt, chiếc cối tức thì biến thành một gã yêu tinh. Hắn quẳng Dschemila lên lưng rồi mang nàng đi đến một vùng hoang mạc, cách quê nhà nàng cả tháng đường ròng rã. |
Here he shut her into a castle, and told her not to fear, as her life was safe. | Tại đây, hắn nhốt nàng vào một tòa lâu đài và bảo nàng đừng sợ, tính mạng nàng sẽ được an toàn. |
Then he went back to his wife, leaving Dschemila weeping over the fate that she had brought upon herself. | Đoạn, hắn quay về với vợ mình, bỏ lại Dschemila khóc thương cho số phận nghiệt ngã do chính mình rước lấy. |
Meanwhile the other girls had reached home, and Dschemila‘s mother came out to look for her daughter. | Trong khi đó, các cô gái kia đã về đến nhà. Mẹ của Dschemila bước ra tìm con gái. |
‘What have you done with her?’ she asked anxiously. | “Các cháu đã để con bé ở đâu rồi?” bà hỏi lo lắng. |
‘We had to leave her in the wood,’ they replied, ‘for she had picked up an iron mortar, and could not manage to carry it.’ | “Chúng cháu đành phải bỏ cô ấy lại trong rừng,” họ đáp, “vì cô ấy nhặt được một chiếc cối sắt và không sao mang nó theo được.” |
So the old woman set off at once for the forest, calling to her daughter as she hurried along. | Nghe vậy, bà lão liền tất tả chạy vào rừng, vừa đi vừa gọi tên con gái. |
‘Do go home,’ cried the townspeople, as they heard her; ‘we will go and look for your daughter; you are only a woman, and it is a task that needs strong men.’ | Dân làng nghe thấy tiếng bà liền khuyên: “Bà hãy về nhà đi. Chúng tôi sẽ đi tìm con gái bà. Bà chỉ là phụ nữ, việc này cần những người đàn ông khỏe mạnh.” |
But she answered, ‘Yes, go; but I will go with you! Perhaps it will be only her corpse that we shall find after all. She has most likely been stung by asps, or eaten by wild beasts.’ | Nhưng bà đáp: “Phải, các vị đi đi, nhưng tôi cũng sẽ đi cùng! Biết đâu chúng ta chỉ tìm thấy thi thể của con bé thôi. Có lẽ nó đã bị rắn độc cắn, hoặc bị thú dữ ăn thịt rồi.” |
The men, seeing her heart was bent on it, said no more, but told one of the girls she must come with them, and show them the place where they had left Dschemila. | Thấy bà quyết tâm, những người đàn ông không nói gì thêm, chỉ yêu cầu một trong các cô gái đi cùng để chỉ nơi họ bỏ Dschemila lại. |
They found the bundle of wood lying where she had dropped it, but the maiden was nowhere to be seen. | Họ tìm thấy bó củi nằm chỏng chơ trên mặt đất, nhưng bóng dáng thiếu nữ thì chẳng thấy đâu. |
‘Dschemila! Dschemila!’ cried they; but nobody answered. | “Dschemila! Dschemila!” họ cất tiếng gọi, nhưng không một lời đáp lại. |
‘If we make a fire, perhaps she will see it,’ said one of the men. And they lit a fire, and then went, one this way, and one that, through the forest, to look for her, whispering to each other that if she had been killed by a lion they would be sure to find some trace of it; or if she had fallen asleep, the sound of their voices would wake her; or if a snake had bitten her, they would at least come on her corpse. | “Nếu chúng ta đốt một đống lửa, có lẽ cô ấy sẽ nhìn thấy,” một người đàn ông nói. Thế là họ nhóm lửa lên, rồi chia nhau đi các ngả trong rừng để tìm kiếm, vừa đi vừa thì thầm với nhau rằng nếu nàng bị sư tử giết, chắc chắn họ sẽ tìm thấy dấu vết; nếu nàng ngủ quên, tiếng gọi của họ sẽ đánh thức nàng dậy; còn nếu nàng bị rắn cắn, ít nhất họ cũng sẽ thấy xác nàng. |
All night they searched, and when morning broke and they knew no more than before what had become of the maiden, they grew weary, and said to the mother: ‘It is no use. Let us go home, nothing has happened to your daughter, except that she has run away with a man.’ | Họ tìm kiếm suốt đêm, nhưng khi bình minh lên mà vẫn không biết chút gì về tung tích của cô gái, họ dần mệt mỏi và nói với bà mẹ: “Vô ích thôi. Chúng ta về đi, có lẽ chẳng có chuyện gì xảy ra với con gái bà đâu, ngoại trừ việc con bé đã bỏ đi theo người đàn ông nào đó rồi.” |
‘Yes, I will come,’ answered she, ‘but I must first look in the river. Perhaps some one has thrown her in there.’ But the maiden was not in the river. | “Phải, tôi sẽ về,” bà đáp, “nhưng trước hết tôi phải tìm dưới sông đã. Biết đâu có kẻ nào đó đã ném con bé xuống đó.” Nhưng cô gái không có ở dưới sông. |
For four days the father and mother waited and watched for their child to come back; then they gave up hope, and said to each other: ‘What is to be done? What are we to say to the man to whom Dschemila is betrothed? Let us kill a goat, and bury its head in the grave, and when the man returns we must tell him Dschemila is dead.’ | Suốt bốn ngày, cha mẹ nàng mỏi mắt ngóng trông con gái trở về; rồi họ cũng đành buông xuôi trong tuyệt vọng và nói với nhau: “Phải làm sao đây? Chúng ta phải nói gì với người đã được hứa hôn với Dschemila? Hay là chúng ta giết một con dê, chôn đầu nó xuống mộ, và khi chàng trai trở về, chúng ta sẽ bảo nó rằng Dschemila đã chết.” |
Very soon the bridegroom came back, bringing with him carpets and soft cushions for the house of his bride. And as he entered the town Dschemila‘s father met him, saying, ‘Greeting to you. She is dead.’ | Chẳng bao lâu sau, chàng rể quay về, mang theo nào thảm, nào gối nệm êm ái cho ngôi nhà của cô dâu. Khi chàng vừa vào đến cổng làng, cha của Dschemila đã đón gặp và nói: “Chào con. Con bé đã qua đời rồi.” |
At these words the young man broke into loud cries, and it was some time before he could speak. Then he turned to one of the crowd who had gathered round him, and asked: ‘Where have they buried her?’ | Nghe những lời đó, chàng trai trẻ vỡ òa trong tiếng khóc nức nở, hồi lâu sau mới có thể cất lời. Rồi chàng quay sang một người trong đám đông đang tụ lại quanh mình và hỏi: “Họ đã chôn cất em ấy ở đâu?” |
‘Come to the churchyard with me,’ answered he; and the young man went with him, carrying with him some of the beautiful things he had brought. These he laid on the grass and then began to weep afresh. | “Hãy đến nghĩa trang với tôi,” người kia đáp; và chàng trai trẻ đi theo ông, mang cả những món đồ tuyệt đẹp mà chàng đã mua. Chàng đặt chúng lên thảm cỏ rồi lại bắt đầu khóc. |
All day he stayed, and at nightfall he gathered up his stuffs and carried them to his own house. | Chàng ở đó cả ngày, đến khi chiều tà mới thu dọn đồ đạc mang về nhà. |
But when the day dawned he took them in his arms and returned to the grave, where he remained as long as it was light, playing softly on his flute. And this he did daily for six months. | Nhưng khi bình minh lên, chàng lại ôm chúng ra mộ, ngồi đó cho đến khi trời tối hẳn, khẽ thổi những giai điệu u sầu bằng cây sáo của mình. Cứ thế, ngày lại ngày trôi qua, suốt sáu tháng ròng. |
One morning, a man who was wandering through the desert, having lost his way, came upon a lonely castle. The sun was very hot, and the man was very tired, so he said to himself, ‘I will rest a little in the shadow of this castle.’ | Một buổi sáng nọ, một người lữ hành bị lạc trong sa mạc, tình cờ bắt gặp một tòa lâu đài đơn độc. Mặt trời nóng như thiêu đốt, và người đàn ông đã vô cùng mệt mỏi, nên anh ta tự nhủ: “Mình sẽ nghỉ một lát dưới bóng mát của tòa lâu đài này.” |
He stretched himself out comfortably, and was almost asleep, when he heard a voice calling to him softly: | Anh ta duỗi người thoải mái, và gần như đã thiếp đi thì bỗng nghe có tiếng gọi khẽ: |
‘Are you a ghost,’ it said, ‘or a man?’ | “Ngươi là ma hay là người?” tiếng nói cất lên. |
He looked up, and saw a girl leaning out of a window, and he answered: | Anh ta ngước lên và thấy một cô gái đang nhoài người ra ngoài cửa sổ, bèn đáp: |
‘I am a man, and a better one, too, than your father or your grandfather.’ | “Ta là người, và còn là một người tốt hơn cả cha và ông của cô.” |
‘May all good luck be with you,’ said she; ‘but what has brought you into this land of ogres and horrors?’ | “Cầu mong mọi điều may mắn đến với ông,” nàng nói; “nhưng điều gì đã mang ông đến vùng đất của yêu tinh và những nỗi kinh hoàng này?” |
‘Does an ogre really live in this castle?’ asked he. | “Thật sự có một gã yêu tinh sống trong lâu đài này sao?” anh hỏi. |
‘Certainly he does,’ replied the girl, ‘and as night is not far off he will be here soon. So, dear friend, depart quickly, lest he return and snap you up for supper.’ | “Chắc chắn rồi,” cô gái đáp, “và màn đêm cũng sắp buông xuống, hắn sẽ sớm trở về. Vậy nên, bạn hiền ơi, hãy mau rời đi kẻo hắn trở về và bắt ông làm bữa tối đấy.” |
‘But I am so thirsty! ‘ said the man. ‘Be kind, and give me some drink, or else I shall die! Surely, even in this desert there must be some spring?’ | “Nhưng ta khát quá!” người đàn ông nói. “Xin cô hãy làm phúc cho ta chút nước uống, nếu không ta sẽ chết mất! Chắc hẳn, ngay cả trong sa mạc này cũng phải có một con suối nào đó chứ?” |
‘Well, I have noticed that whenever the ogre brings back water he always comes from that side; so if you follow the same direction perhaps you may find some.’ | “À, tôi để ý thấy mỗi khi gã yêu tinh mang nước về, hắn luôn đi từ phía bên kia; vậy nếu ông đi theo hướng đó, có lẽ ông sẽ tìm thấy.” |
The man jumped up at once and was about to start, when the maiden spoke again: ‘Tell me, where are you going?’ | Người đàn ông lập tức bật dậy, định cất bước thì thiếu nữ lại lên tiếng: “Xin cho hỏi, ông định đi đâu?” |
‘Why do you want to know?’ | “Tại sao cô muốn biết?” |
‘I have an errand for you; but tell me first whether you go east or west.’ | “Tôi có việc muốn nhờ ông; nhưng xin hãy cho tôi biết trước ông đi về hướng đông hay hướng tây.” |
‘I travel to Damascus.’ | “Tôi đang đi đến Damascus.” |
‘Then do this for me. As you pass through our village, ask for a man called Dschemil, and say to him: “Dschemila greets you, from the castle, which lies far away, and is rocked by the wind. In my grave lies only a goat. So take heart.” ‘ | “Vậy xin ông hãy làm giúp tôi việc này. Khi đi qua ngôi làng của chúng tôi, xin hãy hỏi thăm một người tên là Dschemil, và nói với anh ấy rằng: ‘Dschemila gửi lời chào anh từ tòa lâu đài xa xôi, nơi bị những ngọn gió vùi dập. Dưới mộ em chỉ có một con dê. Vậy nên anh hãy vững lòng.’” |
And the man promised, and went his way, till he came to a spring of water. And he drank a great draught and then lay on the bank and slept quietly. | Người đàn ông hứa sẽ làm theo rồi lên đường, đi mãi cho đến khi thấy một con suối. Anh ta uống một ngụm nước lớn, rồi nằm dài trên bờ cỏ và ngủ một giấc thật yên bình. |
When he woke he said to himself, ‘The maiden did a good deed when she told me where to find water. A few hours more, and I should have been dead. So I will do her bidding, and seek out her native town and the man for whom the message was given.’ | Khi tỉnh dậy, anh ta tự nhủ: “Thiếu nữ ấy đã làm một việc thiện khi chỉ cho ta chỗ tìm nước. Nếu muộn vài giờ nữa, ta đã chết rồi. Vì vậy, ta sẽ làm theo lời dặn của nàng, tìm đến quê hương nàng và người đàn ông mà nàng nhắn gửi.” |
For a whole month he travelled, till at last he reached the town where Dschemil dwelt, and as luck would have it, there was the young man sitting before his door with his beard unshaven and his shaggy hair hanging over his eyes. | Anh ta đi ròng rã cả một tháng trời, cuối cùng cũng đến được thị trấn nơi Dschemil sinh sống. Và thật tình cờ, chàng trai trẻ đang ngồi trước cửa nhà mình, râu ria không cạo, mái tóc bờm xờm che cả mắt. |
‘Welcome, stranger,’ said Dschemil, as the man stopped. ‘Where have you come from?’ | “Chào mừng lữ khách,” Dschemil nói khi người đàn ông dừng lại. “Ông từ đâu tới?” |
‘I come from the west, and go towards the east,’ he answered. | “Tôi từ phương tây đến, và đi về phương đông,” anh ta đáp. |
‘Well, stop with us awhile, and rest and eat!’ said Dschemil. And the man entered; and food was set before him, and he sat down with the father of the maiden and her brothers, and Dschemil. Only Dschemil himself was absent, squatting on the threshold. | “Vậy thì, hãy ở lại với chúng tôi một lát, nghỉ ngơi và dùng bữa nhé!” Dschemil mời. Người đàn ông bước vào; thức ăn được dọn ra, và anh ngồi cùng bàn với cha và các anh của thiếu nữ, chỉ thiếu mỗi Dschemil, người vẫn đang ngồi thu lu nơi ngưỡng cửa. |
‘Why do you not eat too?’ asked the stranger. But one of the young men whispered hastily: ‘Leave him alone. Take no notice! It is only at night that he ever eats.’ | “Sao anh không ăn cùng?” người lữ khách hỏi. Nhưng một trong những chàng trai vội thì thầm: “Cứ mặc kệ anh ấy. Đừng để ý! Chỉ đến đêm anh ấy mới ăn thôi.” |
So the stranger went on silently with his food. Suddenly one of Dschemil‘s brothers called out and said: ‘Dschemil, bring us some water! ‘ And the stranger remembered his message and said: | Thế là người lữ khách lặng lẽ ăn tiếp. Bỗng nhiên, một người anh của Dschemil cất tiếng gọi: “Dschemil, mang cho chúng tôi ít nước!” Và người lữ khách chợt nhớ ra lời nhắn của mình bèn nói: |
‘Is there a man here named “Dschemil“? I lost my way in the desert, and came to a castle, and a maiden looked out of the window and . . . ‘ | “Ở đây có ai tên là ‘Dschemil’ không? Tôi bị lạc trong sa mạc và đến một tòa lâu đài, một thiếu nữ đã nhìn ra ngoài cửa sổ và…” |
‘Be quiet,’ they cried, fearing that Dschemil might hear. But Dschemil had heard, and came forward and said: | “Im đi,” họ hét lên, sợ rằng Dschemil có thể nghe thấy. Nhưng Dschemil đã nghe thấy tất cả. Chàng bước tới và nói: |
‘What did you see? Tell me truly, or I will cut off your head this instant!’ | “Ông đã thấy gì? Nói cho ta sự thật, nếu không ta sẽ chém đầu ông ngay lập tức!” |
‘My lord,’ replied the stranger, ‘as I was wandering, hot and tired, through the desert, I saw near me a great castle, and I said aloud, “I will rest a little in its shadow.” And a maiden looked out of a window and said, “Are you a ghost or a man? “And I answered, “I am a man, and a better one, too, than your father or your grandfather.” And I was thirsty and asked for water, but she had none to give me, and I felt like to die. Then she told me that the ogre, in whose castle she dwelt, brought in water always from the same side, and that if I too went that way most likely I should come to it. But before I started she begged me to go to her native town, and if I met a man called Dschemil I was to say to him, “Dschemila greets you, from the castle which lies far away, and is rocked by the wind. In my grave lies only a goat. So take heart.”‘ | “Thưa ngài,” người lữ khách đáp, “khi tôi đang lang thang trong sa mạc, nóng nực và mệt mỏi, tôi thấy một tòa lâu đài lớn gần đó, và tôi nói lớn: ‘Mình sẽ nghỉ một lát dưới bóng mát của nó.’ Và một thiếu nữ nhìn ra ngoài cửa sổ nói: ‘Ngươi là ma hay là người?’ Tôi đáp: ‘Ta là người, và còn là một người tốt hơn cả cha và ông của cô.’ Tôi khát nước và xin nước uống, nhưng nàng không có để cho, tôi cảm thấy như sắp chết. Rồi nàng nói với tôi rằng gã yêu tinh, chủ nhân của tòa lâu đài nơi nàng ở, luôn mang nước về từ một hướng, và nếu tôi đi theo con đường đó, rất có thể tôi sẽ tìm thấy. Nhưng trước khi tôi đi, nàng nhờ tôi đến quê hương nàng, và nếu gặp một người đàn ông tên là Dschemil, hãy nói với anh ấy rằng: ‘Dschemila gửi lời chào anh từ tòa lâu đài xa xôi, nơi bị những ngọn gió vùi dập. Dưới mộ em chỉ có một con dê. Vậy nên anh hãy vững lòng.’” |
Then Dschemil turned to his family and said: ‘Is this true? and is Dschemila not dead at all, but simply stolen from her home?’ | Nghe xong, Dschemil quay sang gia đình mình và hỏi: “Chuyện này có thật không? Có phải Dschemila không hề chết, mà chỉ bị bắt đi khỏi nhà?” |
‘No, no,’ replied they, ‘his story is a pack of lies. Dschemila is really dead. Everybody knows it.’ | “Không, không,” họ đáp, “chuyện của ông ta toàn là bịa đặt. Dschemila đã chết thật rồi. Ai cũng biết điều đó.” |
‘That I shall see for myself,’ said Dschemil, and, snatching up a spade, hastened off to the grave where the goat‘s head lay buried. | “Ta sẽ tự mình xem cho rõ,” Dschemil nói, và vớ lấy một cái xẻng, vội vã chạy ra ngôi mộ nơi đầu con dê được chôn. |
And they answered, ‘Then hear what really happened. When you were away, she went with the other maidens to the forest to gather wood. And there she found an iron mortar, which she wished to bring home; but she could not carry it, neither would she leave it. So the maidens returned without her, and as night was come, we all set out to look for her, but found nothing. And we said, “The bridegroom will be here to- morrow, and when he learns that she is lost, he will set out to seek her, and we shall lose him too. Let us kill a goat, and bury it in her grave, and tell him she is dead.” Now you know, so do as you will. Only, if you go to seek her, take with you this man with whom she has spoken that he may show you the way.’ | Gia đình chàng vội chạy theo và nói: “Vậy hãy nghe sự thật đây. Khi con đi vắng, nó đã cùng các thiếu nữ khác vào rừng kiếm củi. Ở đó, nó tìm thấy một chiếc cối sắt và muốn mang về nhà; nhưng nó không mang nổi mà cũng không chịu bỏ lại. Thế là các thiếu nữ kia về trước, và khi đêm xuống, chúng ta đều đi tìm nó, nhưng không thấy gì. Chúng ta đã nói với nhau: ‘Ngày mai chàng rể sẽ trở về, và khi biết con bé mất tích, nó sẽ lên đường tìm kiếm, và rồi chúng ta sẽ mất cả nó nữa. Hãy giết một con dê, chôn nó xuống mộ và nói với nó rằng con bé đã chết.’ Giờ thì con đã biết, muốn làm gì thì tùy. Chỉ là, nếu con đi tìm con bé, hãy mang theo người đàn ông này, người đã nói chuyện với nó, để ông ta chỉ đường cho con.” |
‘Yes; that is the best plan,’ replied Dschemil; ‘so give me food, and hand me my sword, and we will set out directly.’ | “Phải, đó là kế hay nhất,” Dschemil đáp; “vậy hãy đưa cho tôi thức ăn, và cả thanh kiếm của tôi nữa, chúng ta sẽ lên đường ngay lập tức.” |
But the stranger answered: ‘I am not going to waste a whole month in leading you to the castle! If it were only a day or two’s journey I would not mind; but a month—no!’ | Nhưng người lữ khách đáp: “Tôi không định lãng phí cả tháng trời để dẫn ông đến tòa lâu đài đâu! Nếu chỉ là một hai ngày đường thì tôi không ngại; nhưng cả một tháng—không đời nào!” |
‘Come with me then for three days,’ said Dschemil, ‘and put me in the right road, and I will reward you richly.’ | “Vậy hãy đi cùng tôi trong ba ngày,” Dschemil nói, “và chỉ cho tôi con đường đúng, tôi sẽ thưởng cho ông thật hậu hĩnh.” |
‘Very well,’ replied the stranger, ‘so let it be.’ | “Được thôi,” người lữ khách đáp, “cứ vậy đi.” |
For three days they travelled from sunrise to sunset, then the stranger said: ‘Dschemil?’ | Họ đi suốt ba ngày, từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, rồi người lữ khách nói: “Dschemil?” |
‘Yes,’ replied he. | “Vâng,” chàng đáp. |
‘Go straight on till you reach a spring, then go on a little farther, and soon you will see the castle standing before you.’ | “Hãy đi thẳng cho đến khi ông đến một con suối, rồi đi tiếp một đoạn nữa, và chẳng bao lâu ông sẽ thấy tòa lâu đài hiện ra trước mắt.” |
‘So I will,’ said Dschemil. | “Tôi sẽ làm vậy,” Dschemil nói. |
‘Farewell, then,’ said the stranger, and turned back the way he had come. | “Vậy tạm biệt,” người lữ khách nói, rồi quay lại con đường mình đã đi. |
It was six and twenty days before Dschemil caught sight of a green spot rising out of the sandy desert, and knew that the spring was near at last. He hastened his steps, and soon was kneeling by its side, drinking thirstily of the bubbling water. | Hai mươi sáu ngày sau, Dschemil mới thấy một vệt xanh nổi lên giữa sa mạc cát bỏng, và chàng biết rằng con suối cuối cùng cũng đã ở gần. Chàng rảo bước nhanh hơn, và chẳng bao lâu đã quỳ bên dòng suối, tham lam uống từng ngụm nước mát lành. |
Then he lay down on the cool grass, and began to think. ‘If the man was right, the castle must be somewhere about. I had better sleep here to-night, and to-morrow I shall be able to see where it is.’ So he slept long and peacefully. | Sau đó, chàng nằm xuống bãi cỏ xanh, và bắt đầu suy nghĩ. “Nếu người đàn ông kia nói đúng, tòa lâu đài phải ở đâu đó quanh đây. Tốt hơn hết mình nên ngủ ở đây đêm nay, và ngày mai sẽ có thể thấy nó ở đâu.” Thế là chàng ngủ một giấc dài và yên bình. |
When he awoke the sun was high, and he jumped up and washed his face and hands in the spring, before going on his journey. | Khi chàng tỉnh dậy, mặt trời đã lên cao. Chàng đứng dậy, rửa mặt mũi chân tay trong dòng suối trước khi tiếp tục hành trình. |
He had not walked far, when the castle suddenly appeared before him, though a moment before not a trace of it could be seen. | Chàng đi chưa được bao xa thì tòa lâu đài đột nhiên hiện ra trước mắt, dù chỉ một khoảnh khắc trước đó không hề có một dấu vết nào. |
‘How am I to get in?’ he thought. ‘I dare not knock, lest the ogre should hear me. Perhaps it would be best for me to climb up the wall, and wait to see what will happen. | “Làm sao để vào trong đây?” chàng nghĩ. “Mình không dám gõ cửa, kẻo gã yêu tinh nghe thấy. Có lẽ tốt nhất mình nên trèo lên tường, và chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra.” |
So he did, and after sitting on the top for about an hour, a window above him opened, and a voice said: ‘Dschemil!’ | Nghĩ là làm, chàng trèo lên. Sau khi ngồi trên đỉnh tường khoảng một giờ, một ô cửa sổ phía trên chàng mở ra, và một giọng nói vang lên: “Dschemil!” |
He looked up, and at the sight of Dschemila, whom he had so long believed to be dead, he began to weep. | Chàng ngước nhìn lên, và khi thấy Dschemila, người mà chàng đã tin là đã chết từ lâu, chàng bắt đầu bật khóc. |
‘Dear cousin,’ she whispered, ‘what has brought you here?’ | “Anh yêu dấu,” nàng thì thầm, “điều gì đã mang anh đến đây?” |
‘My grief at losing you.’ | “Nỗi đau khổ vì mất em.” |
‘Oh! go away at once. If the ogre comes back he will kill you.’ | “Ôi! Anh đi ngay đi. Nếu gã yêu tinh quay về, hắn sẽ giết anh mất.” |
‘I swear by your head, queen of my heart, that I have not found you only to lose you again! If I must die, well, I must!’ | “Anh thề có mái tóc của em, nữ hoàng của lòng anh, rằng anh đã tìm thấy em không phải để mất em một lần nữa! Nếu phải chết, thì đành chịu vậy!” |
‘Oh, what can I do for you?’ | “Ôi, em có thể làm gì cho anh đây?” |
‘Anything you like!’ | “Bất cứ điều gì em muốn!” |
‘If I let you down a cord, can you make it fast under your arms, and climb up?’ | “Nếu em thả cho anh một sợi dây thừng, anh có thể buộc chặt dưới cánh tay và trèo lên không?” |
‘Of course I can,’ said he. | “Tất nhiên là anh có thể,” chàng nói. |
So Dschemila lowered the cord, and Dschemil tied it round him, and climbed up to her window. Then they embraced each other tenderly, and burst into tears of joy. | Vậy là Dschemila hạ sợi dây xuống, Dschemil buộc chặt quanh người và trèo lên cửa sổ của nàng. Rồi họ ôm nhau thắm thiết, vỡ òa trong những giọt nước mắt hạnh phúc. |
‘But what shall I do when the ogre returns?’ asked she. | “Nhưng em phải làm sao khi gã yêu tinh trở về?” nàng hỏi. |
‘Trust to me,’ he said. | “Hãy tin ở anh,” chàng đáp. |
Now there was a chest in the room, where Dschemila kept her clothes. And she made Dschemil get into it, and lie at the bottom, and told him to keep very still. | Trong phòng có một chiếc rương, nơi Dschemila cất giữ quần áo của mình. Nàng bảo Dschemil chui vào đó, nằm gọn dưới đáy, và dặn chàng phải giữ thật im lặng. |
He was only hidden just in time, for the lid was hardly closed when the ogre’s heavy tread was heard on the stairs. He flung open the door, bringing men’s flesh for himself and lamb’s flesh for the maiden. | Chàng vừa kịp trốn vào trong, nắp rương vừa đậy lại thì tiếng bước chân nặng nề của gã yêu tinh đã vang lên ngoài cầu thang. Hắn xô cửa bước vào, mang theo thịt người cho mình và thịt cừu cho cô gái. |
‘I smell the smell of a man!’ he thundered. ‘What is he doing here?’ | “Ta ngửi thấy mùi người!” hắn gầm lên. “Hắn làm gì ở đây?” |
‘How could any one have come to this desert place?’ asked the girl, and burst into tears. | “Làm sao có ai đến được nơi hoang mạc này chứ?” cô gái hỏi lại, rồi bật khóc. |
‘Do not cry,’ said the ogre; ‘perhaps a raven has dropped some scraps from his claws.’ | “Đừng khóc,” gã yêu tinh nói, “có lẽ một con quạ đã đánh rơi vài mẩu vụn từ móng vuốt của nó.” |
‘Ah, yes, I was forgetting,’ answered she. ‘One did drop some bones about.’ | “À, vâng, con đã quên mất,” nàng đáp. “Đúng là có một con đã làm rơi vài khúc xương.” |
‘Well, burn them to powder,’ replied the ogre, ‘so that I may swallow it.’ | “Vậy thì, đốt chúng ra tro đi,” gã yêu tinh trả lời, “để ta nuốt nó.” |
So the maiden took some bones and burned them, and gave them to the ogre, saying, ‘ Here is the powder, swallow it.’ | Thế là thiếu nữ lấy một ít xương, đốt thành tro và đưa cho gã yêu tinh, nói: “Tro đây thưa cha, cha nuốt đi.” |
And when he had swallowed the powder the ogre stretched himself out and went to sleep. | Khi đã nuốt xong chỗ tro, gã yêu tinh duỗi người ra rồi ngủ thiếp đi. |
In a little while the man’s flesh, which the maiden was cooking for the ogre’s supper, called out and said: | Một lúc sau, miếng thịt người mà thiếu nữ đang nấu cho bữa tối của gã yêu tinh bỗng cất tiếng: |
‘Hist! Hist! A man lies in the kist! ‘ | “Suỵt! Suỵt! Có người trốn trong rương!” |
And the lamb’s flesh answered: | Và miếng thịt cừu đáp lại: |
‘He is your brother, And cousin of the other.’ | “Ấy là anh của ngươi, Cũng là anh họ của người kia thôi.” |
The ogre moved sleepily, and asked, ‘What did the meat say, Dschemila?’ | Gã yêu tinh ngái ngủ cựa mình và hỏi: “Miếng thịt nói gì thế, Dschemila?” |
‘Only that I must be sure to add salt.’ | “Chỉ là con phải nhớ cho thêm muối thôi ạ.” |
‘Well, add salt.’ | “Ừ, vậy cho muối vào đi.” |
‘Yes, I have done so,’ said she. | “Vâng, con đã cho rồi,” nàng đáp. |
The ogre was soon sound asleep again, when the man’s flesh called out a second time: | Gã yêu tinh nhanh chóng chìm vào giấc ngủ trở lại, thì miếng thịt người lại cất tiếng lần thứ hai: |
‘Hist! Hist! A man lies in the kist!’ | “Suỵt! Suỵt! Có người trốn trong rương!” |
And the lamb’s flesh answered: | Và miếng thịt cừu đáp lại: |
‘He is your brother, And cousin of the other.’ | “Ấy là anh của ngươi, Cũng là anh họ của người kia thôi.” |
‘What did it say, Dschemila?’ asked the ogre. | “Nó nói gì thế, Dschemila?” gã yêu tinh hỏi. |
‘Only that I must add pepper.’ | “Chỉ là con phải cho thêm tiêu ạ.” |
‘Well, add pepper.’ | “Ừ, vậy cho tiêu vào đi.” |
‘Yes, I have done so,’ said she. | “Vâng, con đã cho rồi,” nàng đáp. |
The ogre had had a long day’s hunting, and could not keep himself awake. In a moment his eyes were tight shut, and then the man’s flesh called out for the third time: | Gã yêu tinh đã có một ngày đi săn dài mệt mỏi và không thể nào tỉnh táo nổi. Trong phút chốc, mắt hắn đã nhắm nghiền, và rồi miếng thịt người lại cất tiếng lần thứ ba: |
‘Hist! Hist A man lies in the kist,’ | “Suỵt! Suỵt! Có người trốn trong rương,” |
And the lamb’s flesh answered: | Và miếng thịt cừu đáp lại: |
‘He is your brother, And cousin of the other.’ | “Ấy là anh của ngươi, Cũng là anh họ của người kia thôi.” |
‘What did it say, Dschemila?’ asked the ogre. | “Nó nói gì thế, Dschemila?” gã yêu tinh hỏi. |
‘Only that it was ready, and that I had better take it off the fire.’ | “Chỉ là nó đã chín rồi, và con nên bắc nó ra khỏi bếp ạ.” |
‘Then if it is ready, bring it to me, and I will eat it.’ | “Nếu nó chín rồi thì mang ra đây cho ta ăn.” |
So she brought it to him, and while he was eating she supped off the lamb’s flesh herself, and managed to put some aside for her cousin. | Thế là nàng mang ra cho hắn. Trong lúc hắn ăn, nàng cũng dùng bữa với thịt cừu, và lén giấu lại một ít cho người anh họ. |
When the ogre had finished, and had washed his hands, he said to Dschemila: ‘Make my bed, for I am tired.’ | Khi gã yêu tinh đã ăn xong và rửa tay, hắn nói với Dschemila: “Dọn giường cho ta, ta mệt rồi.” |
So she made his bed, and put a nice soft pillow for his head, and tucked him up. | Nàng bèn dọn giường, đặt một chiếc gối mềm mại dưới đầu và đắp chăn cho hắn. |
‘Father,’ she said suddenly. | “Cha ơi,” nàng đột ngột lên tiếng. |
‘Well, what is it?’ | “Sao, có chuyện gì?” |
‘Dear father, if you are really asleep, why are your eyes always open?’ | “Cha kính yêu, nếu cha đã thực sự ngủ rồi, tại sao mắt cha lúc nào cũng mở?” |
‘Why do you ask that, Dschemila? Do you want to deal treacherously with me?’ | “Tại sao con lại hỏi thế, Dschemila? Con muốn lừa dối ta ư?” |
‘No, of course not, father. How could I, and what would be the use of it?’ | “Không, tất nhiên là không rồi thưa cha. Làm sao con có thể, và làm vậy thì được ích gì chứ?” |
‘Well, why do you want to know?’ | “Vậy tại sao con muốn biết?” |
‘Because last night I woke up and saw the whole place shining in a red light, which frightened me.’ | “Bởi vì đêm qua con thức dậy và thấy cả nơi này rực sáng trong một thứ ánh sáng đỏ, khiến con sợ hãi.” |
‘That happens when I am fast asleep.’ | “Đó là khi ta ngủ say.” |
‘And what is the good of the pin you always keep here so carefully?’ | “Thế còn cây trâm mà cha lúc nào cũng giữ gìn cẩn thận ở đây thì có tác dụng gì ạ?” |
‘If I throw that pin in front of me, it turns into an iron mountain.’ | “Nếu ta ném cây trâm này ra trước mặt, nó sẽ biến thành một ngọn núi sắt.” |
‘And this darning needle?’ | “Còn cây kim khâu này?” |
‘That becomes a sea.’ | “Cái đó sẽ biến thành biển cả.” |
‘And this hatchet?’ | “Và chiếc rìu này?” |
‘That becomes a thorn hedge, which no one can pass through. But why do you ask all these questions? I am sure you have something in your head.’ | “Cái đó sẽ biến thành một hàng rào gai mà không ai có thể đi qua. Nhưng tại sao con lại hỏi tất cả những câu này? Ta chắc rằng con đang có âm mưu gì đó.” |
‘Oh, I just wanted to know; and how could anyone find me out here?’ and she began to cry. | “Ồ, con chỉ muốn biết thôi ạ; với lại, làm sao có ai tìm ra con ở tận nơi này được chứ?” và nàng bắt đầu khóc. |
‘Oh, don’t cry, I was only in fun,’ said the ogre. | “Thôi đừng khóc, ta chỉ đùa thôi mà,” gã yêu tinh nói. |
He was soon asleep again, and a yellow light shone through the castle. | Hắn nhanh chóng ngủ thiếp đi, và một luồng ánh sáng vàng rực chiếu khắp lâu đài. |
‘Come quick!’ called Dschemil from the chest; ‘we must fly now while the ogre is asleep.’ | “Ra mau lên!” Dschemil gọi từ trong rương, “chúng ta phải trốn đi趁 gã yêu tinh đang ngủ.” |
‘Not yet,’ she said, ‘there is a yellow light shining. I don’t think he is asleep.’ | “Chưa được,” nàng nói, “có một luồng ánh sáng vàng đang chiếu. Em không nghĩ là hắn đã ngủ say đâu.” |
So they waited for an hour. Then Dschemil whispered again: ‘Wake up! There is no time to lose!’ | Họ chờ đợi thêm một giờ nữa. Rồi Dschemil lại thì thầm: “Dậy đi! Không còn thời gian để lãng phí nữa đâu!” |
‘Let me see if he is asleep,’ said she, and she peeped in, and saw a red light shining. Then she stole back to her cousin, and asked, ‘But how are we to get out?’ | “Để em xem hắn đã ngủ chưa,” nàng nói, và nàng lén nhìn vào, thấy một luồng ánh sáng đỏ rực. Rồi nàng lẻn trở lại chỗ người anh họ và hỏi: “Nhưng làm sao chúng ta thoát ra ngoài được?” |
‘Get the rope, and I will let you down.’ | “Lấy sợi dây thừng đi, anh sẽ thả em xuống.” |
So she fetched the rope, the hatchet, and the pin and the needles, and said, ‘Take them, and put them in the pocket of your cloak, and be sure not to lose them.’ | Thế là nàng đi lấy sợi dây, chiếc rìu, cây trâm và cây kim, rồi nói: “Anh cầm lấy chúng, bỏ vào túi áo choàng và nhớ đừng làm mất.” |
Dschemil put them carefully in his pocket, and tied the rope round her, and let her down over the wall. | Dschemil cẩn thận cất chúng vào túi, rồi buộc dây quanh người nàng và thả nàng xuống khỏi tường thành. |
‘Are you safe?’ he asked. | “Em an toàn chưa?” chàng hỏi. |
‘Yes, quite.’ | “Rồi, hoàn toàn an toàn.” |
‘Then untie the rope, so that I may draw it up.’ | “Vậy tháo dây ra để anh kéo lên.” |
And Dschemila did as she was told, and in a few minutes he stood beside her. | Dschemila làm theo lời chàng, và vài phút sau, chàng đã đứng bên cạnh nàng. |
Now all this time the ogre was asleep, and had heard nothing. Then his dog came to him and said, ‘O, sleeper, are you having pleasant dreams? Dschemila has forsaken you and run away.’ | Trong suốt thời gian đó, gã yêu tinh ngủ say và không hề hay biết gì. Rồi con chó của hắn đến bên và nói: “Ôi, kẻ đang ngủ, ngài đang có những giấc mơ đẹp chăng? Dschemila đã bỏ ngài mà chạy trốn rồi.” |
The ogre got out of bed, gave the dog a kick, then went back again, and slept till morning. | Gã yêu tinh trở mình dậy, đá cho con chó một cái, rồi lại nằm xuống ngủ tiếp đến sáng. |
When it grew light, he rose, and called, ‘Dschemila! Dschemila!’ but he only heard the echo of his own voice! | Khi trời hửng sáng, hắn tỉnh dậy và gọi: “Dschemila! Dschemila!” nhưng chỉ nghe thấy tiếng vọng của chính mình! |
Then he dressed himself quickly; buckled on his sword and whistled to his dog, and followed the road which he knew the fugitives must have taken. | Rồi hắn vội vã mặc quần áo, đeo kiếm và huýt sáo gọi con chó, rồi đuổi theo con đường mà hắn biết những kẻ đào tẩu chắc chắn đã đi qua. |
‘Cousin,’ said Dschemila suddenly, and turning round as she spoke. | “Anh họ,” Dschemila đột nhiên nói, quay người lại. |
‘What is it?’ answered he. | “Có chuyện gì vậy?” chàng đáp. |
‘The ogre is coming after us. I saw him.’ | “Gã yêu tinh đang đuổi theo chúng ta. Em đã thấy hắn.” |
‘But where is he? I don’t see him.’ | “Nhưng hắn ở đâu? Anh không thấy.” |
‘Over there. He only looks about as tall as a needle.’ | “Ở đằng kia kìa. Hắn trông chỉ cao bằng cây kim thôi.” |
Then they both began to run as fast as they could, while the ogre and his dog kept drawing always nearer. A few more steps, and he would have been by their side, when Dschemila threw the darning needle behind her. In a moment it became an iron mountain between them and their enemy. | Rồi cả hai bắt đầu chạy nhanh hết sức có thể, trong khi gã yêu tinh và con chó của hắn ngày một gần hơn. Chỉ còn vài bước nữa là hắn đã đuổi kịp họ, thì Dschemila ném cây kim khâu ra sau lưng. Ngay lập tức, nó biến thành một ngọn núi sắt ngăn cách họ và kẻ thù. |
‘We will break it down, my dog and I,’ cried the ogre in a rage, and they dashed at the mountain till they had forced a path through, and came ever nearer and nearer. | “Ta và con chó của ta sẽ phá tan nó,” gã yêu tinh giận dữ gầm lên, và chúng lao vào ngọn núi cho đến khi mở được một lối đi, và ngày càng tiến lại gần hơn. |
‘Cousin! ‘ said Dschemila suddenly. | “Anh họ!” Dschemila đột nhiên nói. |
‘What is it?’ | “Sao thế em?” |
‘The ogre is coming after us with his dog.’ | “Gã yêu tinh và con chó của hắn đang đuổi theo chúng ta.” |
‘You go on in front then,’ answered he; and they both ran on as fast as they could, while the ogre and the dog drew always nearer and nearer. | “Vậy em chạy trước đi,” chàng đáp; và cả hai lại chạy nhanh hết sức có thể, trong khi gã yêu tinh và con chó càng lúc càng áp sát. |
‘They are close upon us! ‘ cried the maiden, glancing behind, ‘you must throw the pin.’ | “Chúng ngay sau lưng chúng ta rồi!” cô gái kêu lên, ngoảnh lại nhìn, “anh phải ném cây trâm đi.” |
So Dschemil took the pin from his cloak and threw it behind him, and a dense thicket of thorns sprang up round them, which the ogre and his dog could not pass through. | Thế là Dschemil lấy cây trâm từ áo choàng ra và ném về phía sau. Một bụi gai dày đặc tức thì mọc lên quanh họ, khiến gã yêu tinh và con chó không thể vượt qua. |
‘I will get through it somehow, if I burrow underground,’ cried he, and very soon he and the dog were on the other side. | “Ta sẽ tìm cách vượt qua, dù có phải đào đất chui xuống,” hắn gầm lên, và chẳng bao lâu sau, hắn và con chó đã ở phía bên kia. |
‘Cousin,’ said Dschemila, ‘they are close to us now.’ | “Anh họ,” Dschemila nói, “chúng gần kề chúng ta rồi.” |
‘Go on in front, and fear nothing,’ replied Dschemil. | “Em cứ chạy trước đi, đừng sợ gì cả,” Dschemil đáp. |
So she ran on a little way, and then stopped. | Nàng chạy trước một đoạn ngắn rồi dừng lại. |
‘He is only a few yards away now,’ she said, and Dschemil flung the hatchet on the ground, and it turned into a lake. | “Hắn chỉ còn cách vài bước chân thôi,” nàng nói, và Dschemil quăng chiếc rìu xuống đất, nó lập tức biến thành một cái hồ. |
‘I will drink, and my dog shall drink, till it is dry,’ shrieked the ogre, and the dog drank so much that it burst and died. | “Ta sẽ uống, và con chó của ta cũng sẽ uống, cho đến khi hồ cạn khô!” gã yêu tinh gào thét. Con chó uống nhiều đến nỗi bụng nó vỡ tung mà chết. |
But the ogre did not stop for that, and soon the whole lake was nearly dry. | Nhưng gã yêu tinh không vì thế mà dừng lại, và chẳng bao lâu sau, cả cái hồ đã gần như cạn kiệt. |
Then he exclaimed, ‘Dschemila, let your head become a donkey’s head, and your hair fur!’ | Bấy giờ, hắn gầm lên: “Dschemila, hãy để đầu nhà ngươi biến thành đầu lừa, và tóc nhà ngươi biến thành bộ lông thô ráp!” |
But when it was done, Dschemil looked at her in horror, and said, ‘ She is really a donkey, and not a woman at all! ‘ | Khi phép thuật ứng nghiệm, Dschemil kinh hoàng nhìn nàng và nói: “Nàng thực sự đã biến thành một con lừa rồi, chẳng còn là người nữa!” |
And he left her, and went home. | Rồi chàng bỏ mặc nàng và quay gót về nhà. |
For two days poor Dschemila wandered about alone, weeping bitterly. When her cousin drew near his native town, he began to think over his conduct, and to feel ashamed of himself. | Suốt hai ngày ròng, Dschemila đáng thương một mình lang thang trong nỗi khóc than cay đắng. Khi người anh họ đã gần về đến quê nhà, chàng bắt đầu ngẫm nghĩ về hành động của mình và cảm thấy vô cùng hổ thẹn. |
‘Perhaps by this time she has changed back to her proper shape,’ he said to himself, ‘I will go and see!’ | “Biết đâu giờ này nàng đã trở lại hình dạng cũ rồi,” chàng tự nhủ, “mình sẽ quay lại xem sao!” |
So he made all the haste he could, and at last he saw her seated on a rock, trying to keep off the wolves, who longed to have her for dinner. | Thế là chàng vội vã hết mức có thể, và cuối cùng chàng thấy nàng đang ngồi trên một tảng đá, cố xua đuổi bầy sói đang chực chờ biến nàng thành bữa tối. |
He drove them off and said, ‘Get up, dear cousin, you have had a narrow escape.’ | Chàng đuổi chúng đi và nói: “Đứng dậy đi, em họ yêu quý, em vừa thoát nạn trong gang tấc.” |
Dschemila stood up and answered, ‘Bravo, my friend. You persuaded me to fly with you, and then left me helplessly to my fate.’ | Dschemila đứng dậy và đáp: “Hoan hô, bạn hiền. Anh đã thuyết phục em trốn đi cùng, để rồi bỏ mặc em bơ vơ với số phận của mình.” |
‘Shall I tell you the truth?’ asked he. | “Anh có nên nói cho em sự thật không?” chàng hỏi. |
‘Tell it.’ | “Nói đi.” |
‘I thought you were a witch, and I was afraid of you.’ | “Anh đã nghĩ em là một phù thủy, và anh đã sợ em.” |
‘Did you not see me before my transformation? and did you not watch it happen under your very eyes, when the ogre bewitched me?’ | “Chẳng lẽ anh không nhìn thấy em trước khi em bị biến đổi sao? Và chẳng phải anh đã chứng kiến mọi chuyện xảy ra ngay trước mắt mình, khi gã yêu tinh nguyền rủa em ư?” |
‘What shall I do?’ said Dschemil. ‘If I take you into the town, everyone will laugh, and say, “Is that a new kind of toy you have got? It has hands like a woman, feet like a woman, the body of a woman; but its head is the head of an ass, and its hair is fur.” ‘ | “Anh phải làm gì bây giờ?” Dschemil nói. “Nếu anh đưa em vào làng, mọi người sẽ cười nhạo và nói: ‘Đây có phải là món đồ chơi kiểu mới mà anh có được không? Nó có tay như phụ nữ, chân như phụ nữ, thân hình cũng của phụ nữ; nhưng đầu của nó lại là đầu lừa, và tóc của nó lại là lông thú.’” |
‘Well, what do you mean to do with me?’ asked Dschemila. ‘Better take me home to my mother by night, and tell no one anything about it.’ | “Vậy anh định làm gì với em?” Dschemila hỏi. “Tốt nhất là hãy đưa em về nhà mẹ vào ban đêm, và đừng nói cho ai biết bất cứ điều gì.” |
‘So I will,’ said he. | “Anh sẽ làm vậy,” chàng nói. |
They waited where they were till it was nearly dark, then Dschemil brought his cousin home. | Họ chờ đợi ở đó cho đến khi trời gần tối mịt, rồi Dschemil đưa người em họ về nhà. |
‘Is that Dschemil?’ asked the mother when he knocked softly. | “Có phải Dschemil không?” người mẹ hỏi khi chàng gõ cửa nhè nhẹ. |
‘Yes, it is.’ | “Vâng, là con đây.” |
‘And have you found her?’ | “Và con đã tìm thấy nó chưa?” |
‘Yes, and I have brought her to you.’ | “Vâng, và con đã đưa nó về cho mẹ đây.” |
‘Oh, where is she? let me see her!’ cried the mother. | “Ôi, nó đâu? Cho mẹ gặp nó đi!” người mẹ khóc lên. |
‘Here, behind me,’ answered Dschemil. | “Đây ạ, sau lưng con,” Dschemil đáp. |
But when the poor woman caught sight of her daughter, she shrieked, and exclaimed, ‘Are you making fun of me? When did I ever give birth to an ass?’ | Nhưng khi người đàn bà tội nghiệp nhìn thấy con gái mình, bà hét lên kinh hãi: “Con đang chế nhạo mẹ phải không? Mẹ sinh ra một con lừa từ bao giờ vậy?” |
‘Hush!’ said Dschemil, ‘it is not necessary to let the whole world know! And if you look at her body, you will see two scars on it.’ | “Suỵt!” Dschemil nói, “không cần thiết phải cho cả thiên hạ biết đâu! Và nếu mẹ nhìn vào người nó, mẹ sẽ thấy hai vết sẹo.” |
‘Mother,’ sobbed Dschemila, ‘do you really not know your own daughter?’ | “Mẹ ơi,” Dschemila nức nở, “mẹ thực sự không nhận ra con gái mình sao?” |
‘Yes, of course I know her.’ | “Có chứ, dĩ nhiên là mẹ nhận ra nó.” |
‘What are her two scars then?’ | “Vậy hai vết sẹo của nó là gì?” |
‘On her thigh is a scar from the bite of a dog, and on her breast is the mark of a burn, where she pulled a lamp over her when she was little.’ | “Trên đùi nó có một vết sẹo do chó cắn, và trên ngực là vết bỏng, do nó kéo đổ cây đèn khi còn nhỏ.” |
‘Then look at me, and see if I am not your daughter,’ said Dschemila, throwing off her clothes and showing her two scars. | “Vậy mẹ hãy nhìn con xem, con có phải là con gái của mẹ không,” Dschemila nói, rồi cởi bỏ quần áo và cho mẹ xem hai vết sẹo. |
And at the sight her mother embraced her, weeping. | Nhìn thấy chúng, người mẹ ôm chầm lấy nàng mà khóc nức nở. |
‘Dear daughter,’ she cried, ‘what evil fate has befallen you?’ | “Con gái yêu của mẹ,” bà kêu lên, “số phận nghiệt ngã nào đã giáng xuống đầu con vậy?” |
‘It was the ogre who carried me off first, and then bewitched me,’ answered Dschemila. | “Chính là gã yêu tinh đã bắt cóc con, rồi sau đó nguyền rủa con,” Dschemila đáp. |
‘But what is to be done with you?’ asked her mother. | “Nhưng phải làm gì với con bây giờ?” mẹ nàng hỏi. |
‘Hide me away, and tell no one anything about me. And you, dear cousin, say nothing to the neighbours, and if they should put questions, you can make answer that I have not yet been found.’ | “Hãy giấu con đi, và đừng nói cho ai biết gì về con cả. Còn anh, anh họ yêu quý, xin đừng nói gì với hàng xóm, và nếu họ có hỏi, anh có thể trả lời rằng vẫn chưa tìm thấy em.” |
‘So I will,’ replied he. | “Anh sẽ làm vậy,” chàng đáp. |
Then he and her mother took her upstairs and hid her in a cupboard, where she stayed for a whole month, only going out to walk when all the world was asleep. | Rồi chàng và mẹ nàng đưa nàng lên lầu, giấu nàng trong một cái tủ, nơi nàng ở suốt cả một tháng trời, chỉ ra ngoài đi dạo khi cả thế gian đã chìm vào giấc ngủ. |
Meanwhile Dschemil had returned to his own home, where his father and mother, his brothers and neighbours, greeted him joyfully. | Trong khi đó, Dschemil đã trở về nhà mình, nơi cha mẹ, các anh em và hàng xóm vui mừng chào đón chàng. |
‘When did you come back?’ said they, ‘and have you found Dschemila?’ | “Cháu đã trở về khi nào vậy?” họ nói, “và đã tìm thấy Dschemila chưa?” |
‘No, I searched the whole world after her, and could hear nothing of her.’ | “Chưa, cháu đã tìm kiếm khắp nơi nhưng không có chút tin tức nào về cô ấy cả.” |
‘Did you part company with the man who started with you?’ | “Thế người đi cùng cháu đã chia tay ở đâu?” |
‘Yes; after three days he got so weak and useless he could not go on. It must be a month by now since he reached home again. I went on and visited every castle, and looked in every house. But there were no signs of her; and so I gave it up.’ | “Dạ, sau ba ngày ông ta đã yếu sức và không thể đi tiếp được nữa. Chắc ông ta đã về nhà được cả tháng rồi. Cháu vẫn tiếp tục, đã đến thăm mọi lâu đài, tìm trong mọi ngôi nhà. Nhưng không có dấu vết nào của cô ấy cả, nên cháu đành bỏ cuộc.” |
And they answered him: ‘We told you before that it was no good. An ogre or an ogress must have snapped her up, and how can you expect to find her?’ | Và họ đáp lời chàng: “Chúng ta đã bảo cháu là vô ích mà. Một gã yêu tinh hay mụ yêu tinh nào đó hẳn đã bắt cô ấy đi rồi, làm sao cháu có thể tìm thấy được?” |
‘I loved her too much to be still,’ he said. | “Cháu đã yêu cô ấy quá nhiều để có thể ngồi yên,” chàng nói. |
But his friends did not understand, and soon they spoke to him again about it. | Nhưng bạn bè chàng không hiểu, và chẳng bao lâu họ lại nói với chàng về chuyện đó. |
‘We will seek for a wife for you. There are plenty of girls prettier than Dschemila.’ | “Chúng ta sẽ tìm cho cháu một người vợ. Có rất nhiều cô gái xinh đẹp hơn Dschemila.” |
‘I dare say; but I don’t want them.’ | “Cháu tin là vậy, nhưng cháu không muốn họ.” |
‘But what will you do with all the cushions and carpets, and beautiful things you bought for your house?’ | “Thế cháu sẽ làm gì với tất cả những gối nệm, thảm và những món đồ đẹp đẽ mà cháu đã mua cho nhà mình?” |
‘They can stay in the chests.’ | “Cứ để chúng trong rương.” |
‘But the moths will eat them! For a few weeks, it is of no consequence, but after a year or two they will be quite useless.’ | “Nhưng mối sẽ ăn hết chúng đấy! Vài tuần thì không sao, nhưng sau một hai năm thì chúng sẽ trở nên vô dụng.” |
‘And if they have to lie there ten years I will have Dschemila, and her only, for my wife. For a month, or even two months, I will rest here quietly. Then I will go and seek her afresh.’ | “Và dù có phải để chúng ở đó mười năm, cháu cũng sẽ chỉ lấy Dschemila, và chỉ mình cô ấy, làm vợ. Trong một tháng, hoặc hai tháng, cháu sẽ nghỉ ngơi ở đây. Rồi cháu sẽ lại lên đường tìm kiếm cô ấy.” |
‘Oh, you are quite mad! Is she the only maiden in the world? There are plenty of others better worth having than she is.’ | “Ồ, cháu điên rồi! Cô ấy là thiếu nữ duy nhất trên đời sao? Có rất nhiều người khác đáng giá hơn cô ấy nhiều.” |
‘If there are I have not seen them! And why do you make all this fuss? Every man knows his own business best. | “Nếu có thì cháu cũng chưa thấy! Và tại sao mọi người lại làm ầm lên như vậy? Mỗi người tự biết việc của mình nhất mà.” |
‘Why, it is you who are making all the fuss yourself.’ | “Chính cháu mới là người đang làm ầm lên đấy.” |
But Dschemil turned and went into the house, for he did not want to quarrel. | Nhưng Dschemil quay người vào nhà, vì chàng không muốn cãi cọ. |
Three months later a Jew, who was travelling across the desert, came to the castle, and laid himself down under the wall to rest. | Ba tháng sau, một người Do Thái đang du hành qua sa mạc, tình cờ đến tòa lâu đài và nằm nghỉ dưới chân tường thành. |
In the evening the ogre saw him there and said to him, ‘Jew, what are you doing here? Have you anything to sell?’ | Vào buổi tối, gã yêu tinh thấy ông ta ở đó và nói: “Này người Do Thái, ông làm gì ở đây? Có gì bán không?” |
‘I have only some clothes,’ answered the Jew, who was in mortal terror of the ogre. | “Tôi chỉ có một ít quần áo thôi,” người Do Thái đáp, ông ta sợ gã yêu tinh đến chết khiếp. |
‘Oh, don’t be afraid of me,’ said the ogre, laughing. ‘I shall not eat you. Indeed, I mean to go a bit of the way with you myself.’ | “Ồ, đừng sợ ta,” gã yêu tinh cười nói. “Ta sẽ không ăn thịt ngươi đâu. Thực ra, ta còn định đi cùng ngươi một đoạn đường nữa.” |
‘I am ready, gracious sir,’ replied the Jew, rising to his feet. | “Thưa ngài quyền quý, tôi sẵn sàng,” người Do Thái đáp, đứng bật dậy. |
‘Well, go straight on till you reach a town, and in that town you will find a maiden called Dschemila and a young man called Dschemil. Take this mirror and this comb with you, and say to Dschemila, “Your father, the ogre, greets you, and begs you to look at your face in this mirror, and it will appear as it was before, and to comb your hair with this comb, and it will be as formerly.” If you do not carry out my orders, I will eat you the next time we meet.’ | “Được, cứ đi thẳng cho đến khi đến một thị trấn. Trong thị trấn đó, ngươi sẽ tìm thấy một thiếu nữ tên là Dschemila và một chàng trai tên là Dschemil. Hãy mang theo chiếc gương và cây lược này, và nói với Dschemila: ‘Cha của cô, gã yêu tinh, gửi lời chào cô và nhờ cô soi mặt vào chiếc gương này, mặt cô sẽ trở lại như xưa, và hãy chải tóc bằng cây lược này, tóc cô cũng sẽ trở lại như trước.’ Nếu ngươi không thực hiện lệnh của ta, ta sẽ ăn thịt ngươi vào lần gặp sau.” |
‘Oh, I will obey you punctually,’ cried the Jew. | “Ôi, tôi sẽ tuân lệnh ngài răm rắp,” người Do Thái kêu lên. |
After thirty days the Jew entered the gate of the town, and sat down in the first street he came to, hungry, thirsty, and very tired. | Ba mươi ngày sau, người Do Thái bước vào cổng thị trấn, và ngồi bệt xuống con phố đầu tiên, vừa đói, vừa khát lại vô cùng mệt mỏi. |
Quite by chance, Dschemil happened to pass by, and seeing a man sitting there, full in the glare of the sun, he stopped, and said, ‘ Get up at once, Jew; you will have a sunstroke if you sit in such a place.’ | Thật tình cờ, Dschemil đi ngang qua, thấy một người đàn ông đang ngồi ngay dưới nắng gắt, chàng liền dừng lại và nói: “Đứng dậy ngay đi, người Do Thái; ông sẽ bị cảm nắng nếu cứ ngồi ở chỗ như thế này.” |
‘Ah, good sir,’ replied the Jew, ‘for a whole month I have been travelling, and I am too tired to move.’ | “À, thưa ngài tốt bụng,” người Do Thái đáp, “tôi đã đi ròng rã cả tháng trời, và tôi quá mệt để có thể di chuyển.” |
‘Which way did you come?’ asked Dschemil. | “Ông đã đi từ hướng nào đến?” Dschemil hỏi. |
‘From out there,’ answered the Jew pointing behind him. | “Từ đằng kia,” người Do Thái đáp, chỉ tay về phía sau. |
‘And you have been travelling for a month, you say? Well, did you see anything remarkable?’ | “Và ông nói là ông đã đi suốt một tháng? Vậy, ông có thấy điều gì đặc biệt không?” |
‘Yes, good sir; I saw a castle, and lay down to rest under its shadow. And an ogre woke me, and told me to come to this town, where I should find a young man called Dschemil, and a girl called Dschemila.’ | “Có, thưa ngài; tôi đã thấy một tòa lâu đài và nằm nghỉ dưới bóng mát của nó. Và một gã yêu tinh đã đánh thức tôi dậy, bảo tôi đến thị trấn này, nơi tôi sẽ tìm thấy một chàng trai tên Dschemil và một cô gái tên Dschemila.” |
‘My name is Dschemil. What does the ogre want with me?’ | “Tôi tên là Dschemil. Gã yêu tinh muốn gì ở tôi?” |
‘He gave me some presents for Dschemila. How can I see her?’ | “Ông ấy đưa tôi vài món quà cho Dschemila. Làm sao tôi có thể gặp cô ấy?” |
‘Come with me, and you shall give them into her own hands.’ | “Hãy đi với tôi, và ông sẽ tận tay trao chúng cho cô ấy.” |
So the two went together to the house of Dschemil‘s uncle, and Dschemil led the Jew into his aunt’s room. | Thế là hai người cùng nhau đến nhà chú của Dschemil, và Dschemil dẫn người Do Thái vào phòng dì mình. |
‘Aunt!’ he cried, ‘this Jew who is with me has come from the ogre, and has brought with him, as presents, a mirror and a comb which the ogre has sent her.’ | “Dì ơi!” chàng kêu lên, “người Do Thái đi cùng con đây đã đến từ chỗ gã yêu tinh, và mang theo một chiếc gương và một cây lược mà gã yêu tinh gửi cho cô ấy.” |
‘But it may be only some wicked trick on the part of the ogre,’ said she. | “Nhưng đó có thể chỉ là một trò lừa độc ác của gã yêu tinh,” bà nói. |
‘Oh, I don’t think so,’ answered the young man, ‘give her the things.’ | “Ồ, con không nghĩ vậy đâu,” chàng trai đáp, “cứ đưa cho cô ấy đi ạ.” |
Then the maiden was called, and she came out of her hiding place, and went up to the Jew, saying, ‘Where have you come from, Jew?’ | Sau đó, thiếu nữ được gọi ra. Nàng bước ra từ nơi ẩn náu, đi đến chỗ người Do Thái và nói: “Ông từ đâu đến, người Do Thái?” |
‘From your father the ogre.’ | “Từ cha của cô, gã yêu tinh.” |
‘And what errand did he send you on?’ | “Và ông ấy sai ông đến đây với việc gì?” |
‘He told me I was to give you this mirror and this comb, and to say “Look in this mirror, and comb your hair with this comb, and both will become as they were formerly.” ‘ | “Ông ấy bảo tôi phải đưa cho cô chiếc gương và cây lược này, và nói rằng: ‘Hãy soi vào gương này, và chải tóc bằng lược này, cả hai sẽ trở lại như xưa.’” |
And Dschemila took the mirror and looked into it, and combed her hair with the comb, and she had no longer an ass’s head, but the face of a beautiful maiden. | Dschemila cầm lấy chiếc gương, soi vào đó, rồi dùng lược chải tóc, và nàng không còn cái đầu lừa nữa, mà thay vào đó là gương mặt của một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần. |
Great was the joy of both mother and cousin at this wonderful sight, and the news that Dschemila had returned soon spread, and the neighbours came flocking in with greetings. | Cả người mẹ và người anh họ đều vui mừng khôn xiết trước cảnh tượng kỳ diệu này. Tin tức Dschemila đã trở về nhanh chóng lan truyền, và hàng xóm lũ lượt kéo đến chúc mừng. |
‘When did you come back?’ | “Cô đã về khi nào vậy?” |
‘My cousin brought me.’ | “Anh họ tôi đã đưa tôi về.” |
‘Why, he told us he could not find you! ‘ | “Vậy mà anh ấy đã nói với chúng tôi là không tìm thấy cô!” |
‘Oh, I did that on purpose,’ answered Dschemil. ‘I did not want everyone to know.’ | “Ồ, tôi cố tình làm vậy,” Dschemil đáp. “Tôi không muốn ai cũng biết.” |
Then he turned to his father and his mother, his brothers and his sisters-in-law, and said, ‘We must set to work at once, for the wedding will be to-day.’ | Sau đó, chàng quay sang cha mẹ, các anh và các chị dâu rồi nói: “Chúng ta phải bắt tay vào việc ngay, vì đám cưới sẽ diễn ra ngay hôm nay.” |
A beautiful litter was prepared to carry the bride to her new home, but she shrank back, saying, ‘I am afraid, lest the ogre should carry me off again.’ | Một chiếc kiệu hoa lộng lẫy được chuẩn bị để rước dâu về nhà mới, nhưng cô dâu lại lùi lại, nói: “Em sợ lắm, nhỡ đâu gã yêu tinh lại bắt em đi lần nữa.” |
‘How can the ogre get at you when we are all here?’ they said. ‘There are two thousand of us all told, and every man has his sword.’ | “Làm sao gã yêu tinh có thể đến gần em khi tất cả chúng ta đều ở đây?” họ nói. “Chúng ta có cả thảy hai nghìn người, và ai cũng mang theo gươm.” |
‘He will manage it somehow,’ answered Dschemila, ‘he is a powerful king!’ | “Hắn sẽ tìm cách nào đó thôi,” Dschemila đáp, “hắn là một vị vua quyền năng!” |
‘She is right,’ said an old man. ‘Take away the litter, and let her go on foot if she is afraid.’ | “Cô ấy nói đúng đấy,” một ông lão nói. “Dẹp kiệu đi, và hãy để cô ấy đi bộ nếu cô ấy sợ.” |
‘But it is absurd!’ exclaimed the rest; ‘how can the ogre get hold of her?’ | “Nhưng thật vô lý!” những người còn lại thốt lên, “làm sao gã yêu tinh có thể bắt được cô ấy chứ?” |
‘I will not go,’ said Dschemila again. ‘You do not know that monster; I do.’ | “Em không đi đâu,” Dschemila lại nói. “Mọi người không biết con quái vật đó; nhưng em thì biết.” |
And while they were disputing the bridegroom arrived. | Trong lúc họ còn đang tranh cãi, chú rể đã đến. |
‘Let her alone. She shall stay in her father’s house. After all, I can live here, and the wedding feast shall be made ready.’ | “Cứ để cô ấy yên. Cô ấy sẽ ở lại nhà cha mình. Dù sao thì, tôi cũng có thể sống ở đây, và tiệc cưới sẽ được chuẩn bị.” |
And so they were married at last, and died without having had a single quarrel. | Và thế là cuối cùng họ cũng đã thành đôi, sống bên nhau cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng mà chưa một lần cãi vã. |
[Marchen und Gedichte aus der Stadt Tripolis,] / [Trích: Những câu chuyện cổ tích và thơ ca từ thành phố Tripoli] |
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.