THE BRONZE RING | CHIẾC NHẪN ĐỒNG |
---|---|
Once upon a time in a certain country there lived a king whose palace was surrounded by a spacious garden. | Ngày xửa ngày xưa, ở một vương quốc nọ có một vị vua sống trong một tòa cung điện nguy nga, bao quanh bởi một khu vườn thượng uyển rộng lớn. |
But, though the gardeners were many and the soil was good, this garden yielded neither flowers nor fruits, not even grass or shady trees. | Thế nhưng, dù người làm vườn đông đúc, đất đai màu mỡ, khu vườn vẫn không cho ra nổi một đóa hoa, một cái quả, thậm chí chẳng có lấy một ngọn cỏ xanh hay một bóng cây râm mát. |
The King was in despair about it, when a wise old man said to him: | Nhà vua buồn rầu tuyệt vọng. Đúng lúc ấy, một bậc hiền triết nói với ngài: |
“Your gardeners do not understand their business: but what can you expect of men whose fathers were cobblers and carpenters? How should they have learned to cultivate your garden?” | “Tâu bệ hạ, những người làm vườn của ngài chẳng am hiểu công việc của họ. Cha ông họ vốn là thợ giày, thợ mộc, thì làm sao họ biết cách vun trồng cho khu vườn của bệ hạ được?” |
“You are quite right,” cried the King. | “Ngài nói chí phải!” nhà vua thốt lên. |
“Therefore,” continued the old man, “you should send for a gardener whose father and grandfather have been gardeners before him, and very soon your garden will be full of green grass and gay flowers, and you will enjoy its delicious fruit.” | Bậc hiền triết nói tiếp: “Bởi vậy, bệ hạ nên tìm một người làm vườn mà cha và ông của anh ta cũng đều là những người làm vườn chân chính. Chẳng bao lâu nữa, khu vườn của bệ hạ sẽ phủ đầy cỏ xanh, hoa thắm, và ngài sẽ được thưởng thức những trái thơm quả ngọt.” |
So the King sent messengers to every town, village, and hamlet in his dominions, to look for a gardener whose forefathers had been gardeners also, and after forty days one was found. | Thế là, nhà vua bèn sai sứ giả đi khắp các thành thị, làng mạc, thôn xóm trong lãnh thổ để tìm cho ra một người làm vườn có tổ tiên cùng nghề. Sau bốn mươi ngày ròng rã, cuối cùng họ cũng tìm được một người. |
“Come with us and be gardener to the King,” they said to him. | “Hãy cùng chúng tôi về kinh và trở thành người làm vườn cho đức vua,” họ nói. |
“How can I go to the King,” said the gardener, “a poor wretch like me?” | “Làm sao một kẻ nghèo hèn như tôi lại có thể đến gặp đức vua được?” người làm vườn đáp. |
“That is of no consequence,” they answered. “Here are new clothes for you and your family.” | “Chuyện đó không thành vấn đề,” họ trả lời. “Đây là quần áo mới cho ông và gia đình.” |
“But I owe money to several people.” | “Nhưng tôi còn nợ tiền nhiều người.” |
“We will pay your debts,” they said. | “Chúng tôi sẽ trả hết nợ cho ông,” họ nói. |
So the gardener allowed himself to be persuaded, and went away with the messengers, taking his wife and his son with him; and the King, delighted to have found a real gardener, entrusted him with the care of his garden. | Vậy là người làm vườn xiêu lòng, đồng ý cùng các sứ giả lên đường, mang theo cả vợ và con trai. Nhà vua mừng rỡ vì tìm được một người làm vườn đích thực, liền giao phó toàn bộ khu vườn cho anh ta. |
The man found no difficulty in making the royal garden produce flowers and fruit, and at the end of a year the park was not like the same place, and the King showered gifts upon his new servant. | Quả nhiên, người làm vườn chẳng mấy khó khăn đã khiến khu vườn hoàng gia trổ đầy hoa thơm trái ngọt. Chỉ sau một năm, khu vườn như được lột xác hoàn toàn. Nhà vua vô cùng hài lòng và ban thưởng vô số của cải cho người đầy tớ mới của mình. |
The gardener, as you have heard already, had a son, who was a very handsome young man, with most agreeable manners, and every day he carried the best fruit of the garden to the King, and all the prettiest flowers to his daughter. | Người làm vườn, như đã kể, có một cậu con trai. Chàng trai này vô cùng khôi ngô tuấn tú, cử chỉ lại tao nhã, lịch thiệp. Hàng ngày, chàng mang những trái cây ngon nhất trong vườn dâng lên nhà vua và những đóa hoa đẹp nhất dâng lên công chúa. |
Now this princess was wonderfully pretty and was just sixteen years old, and the King was beginning to think it was time that she should be married. | Nàng công chúa cũng xinh đẹp tuyệt trần, vừa tròn mười sáu tuổi. Nhà vua bắt đầu nghĩ đã đến lúc gả chồng cho nàng. |
“My dear child,” said he, “you are of an age to take a husband, therefore I am thinking of marrying you to the son of my prime minister. | “Con gái yêu của ta,” vua nói, “con đã đến tuổi lấy chồng rồi. Ta đang định gả con cho con trai của quan tể tướng.” |
“Father,” replied the Princess, “I will never marry the son of the minister.” | “Thưa phụ hoàng,” công chúa đáp, “con sẽ không bao giờ lấy con trai của tể tướng.” |
“Why not?” asked the King. | “Tại sao vậy?” nhà vua hỏi. |
“Because I love the gardener’s son,” answered the Princess. | “Bởi vì con yêu con trai bác làm vườn,” công chúa trả lời. |
On hearing this the King was at first very angry, and then he wept and sighed, and declared that such a husband was not worthy of his daughter; but the young Princess was not to be turned from her resolution to marry the gardener’s son. | Nghe vậy, nhà vua thoạt đầu vô cùng giận dữ, rồi sau đó lại thở than, sầu não, và tuyên bố rằng một người chồng như thế không xứng với con gái mình. Nhưng nàng công chúa vẫn một lòng kiên quyết với ý định lấy con trai bác làm vườn. |
Then the King consulted his ministers. “This is what you must do,” they said. “To get rid of the gardener you must send both suitors to a very distant country, and the one who returns first shall marry your daughter.” | Nhà vua bèn triệu tập các quan đại thần để bàn kế. “Đây là việc bệ hạ nên làm,” họ tâu. “Để loại bỏ người làm vườn, bệ hạ hãy phái cả hai kẻ cầu hôn đến một xứ sở thật xa xôi, ai trở về trước sẽ được cưới công chúa.” |
The King followed this advice, and the minister’s son was presented with a splendid horse and a purse full of gold pieces, while the gardener’s son had only an old lame horse and a purse full of copper money, and every one thought he would never come back from his journey. | Nhà vua nghe theo lời khuyên. Con trai tể tướng được ban một con tuấn mã và một túi đầy đồng tiền vàng, trong khi con trai bác làm vườn chỉ nhận được một con ngựa què già nua và một túi toàn đồng xu. Ai cũng nghĩ rằng chàng sẽ không bao giờ có ngày trở về. |
The day before they started the Princess met her lover and said to him: | Một ngày trước khi họ lên đường, công chúa hẹn gặp người yêu và nói: |
“Be brave, and remember always that I love you. Take this purse full of jewels and make the best use you can of them for love of me, and come back quickly and demand my hand.” | “Hãy dũng cảm lên, và luôn nhớ rằng thiếp yêu chàng. Chàng hãy cầm lấy túi châu báu này, tận dụng nó thật tốt vì tình yêu của chúng ta. Hãy sớm quay về để hỏi cưới thiếp nhé.” |
The two suitors left the town together, but the minister’s son went off at a gallop on his good horse, and very soon was lost to sight behind the most distant hills. | Hai người cầu hôn cùng rời khỏi kinh thành. Con trai tể tướng thúc con tuấn mã phi nước đại, chẳng mấy chốc đã khuất dạng sau những ngọn đồi xa. |
He traveled on for some days, and presently reached a fountain beside which an old woman all in rags sat upon a stone. | Hắn đi ròng rã mấy ngày, rồi đến bên một suối nước, nơi có một bà lão rách rưới đang ngồi trên tảng đá. |
“Good-day to you, young traveler,” said she. | “Chào chàng trai trẻ,” bà lão nói. |
But the minister’s son made no reply. | Nhưng con trai tể tướng chẳng thèm đáp lời. |
“Have pity upon me, traveler,” she said again. “I am dying of hunger, as you see, and three days have I been here and no one has given me anything.” | “Xin hãy thương lấy tôi, chàng trai trẻ,” bà lão nói tiếp. “Như cậu thấy đấy, tôi sắp chết đói rồi. Tôi đã ở đây ba ngày mà không ai cho tôi một miếng gì.” |
“Let me alone, old witch,” cried the young man; “I can do nothing for you,” and so saying he went on his way. | “Cút đi, mụ phù thủy già!” gã trai trẻ quát lên. “Ta không giúp gì được cho mụ đâu.” Nói rồi, hắn bỏ đi. |
That same evening the gardener’s son rode up to the fountain upon his lame gray horse. | Chiều hôm ấy, con trai bác làm vườn cũng cưỡi con ngựa què màu xám đến bên suối. |
“Good-day to you, young traveler,” said the beggar-woman. | “Chào chàng trai trẻ,” bà lão ăn xin nói. |
“Good-day, good woman,” answered he. | “Cháu chào bà ạ,” chàng đáp lời. |
“Young traveler, have pity upon me.” | “Chàng trai trẻ ơi, xin hãy thương lấy tôi.” |
“Take my purse, good woman,” said he, “and mount behind me, for your legs can’t be very strong.” | “Thưa bà, xin bà hãy cầm lấy túi tiền của cháu,” chàng nói, “và mời bà lên ngồi sau lưng con, chắc chân bà đã yếu lắm rồi.” |
The old woman didn’t wait to be asked twice, but mounted behind him, and in this style they reached the chief city of a powerful kingdom. | Bà lão không cần mời đến lần thứ hai, liền leo lên sau lưng chàng. Cứ thế, họ cùng nhau tiến vào kinh đô của một vương quốc hùng mạnh. |
The minister’s son was lodged in a grand inn, the gardener’s son and the old woman dismounted at the inn for beggars. | Con trai tể tướng trọ ở một quán trọ sang trọng, còn con trai bác làm vườn và bà lão thì dừng chân tại một quán trọ dành cho những người hành khất. |
The next day the gardener’s son heard a great noise in the street, and the King’s heralds passed, blowing all kinds of instruments, and crying: | Ngày hôm sau, con trai bác làm vườn nghe thấy tiếng náo động ngoài phố. Lính truyền lệnh của nhà vua đi qua, thổi đủ loại kèn trống và rao lớn: |
“The King, our master, is old and infirm. He will give a great reward to whoever will cure him and give him back the strength of his youth.” | “Nhà vua, đức chúa của chúng ta, đã già nua, bệnh tật. Ai có thể chữa khỏi bệnh cho ngài và giúp ngài tìm lại sức mạnh thời trai trẻ, sẽ được ban thưởng trọng hậu.” |
Then the old beggar-woman said to her benefactor: | Bà lão ăn xin bèn nói với ân nhân của mình: |
“This is what you must do to obtain the reward which the King promises. | “Đây là những gì con phải làm để nhận được phần thưởng của nhà vua. |
Go out of the town by the south gate, and there you will find three little dogs of different colors; the first will be white, the second black, the third red. | Hãy đi ra khỏi thành bằng cổng phía nam, ở đó con sẽ thấy ba con chó nhỏ khác màu: một trắng, một đen, một đỏ. |
You must kill them and then burn them separately, and gather up the ashes. | Con phải giết chúng, thiêu riêng từng con rồi thu lấy tro cốt. |
Put the ashes of each dog into a bag of its own color, then go before the door of the palace and cry out: | Hãy bỏ tro của mỗi con chó vào một chiếc túi cùng màu, rồi đến trước cổng hoàng cung mà rao to: |
‘A celebrated physician has come from Janina in Albania. He alone can cure the King and give him back the strength of his youth.’ | ‘Một danh y lừng lẫy từ Janina xứ Albania đã đến. Chỉ ngài mới có thể chữa khỏi bệnh cho nhà vua và giúp ngài tìm lại sức mạnh thời trai trẻ.’ |
The King’s physicians will say, ‘This is an impostor, and not a learned man,’ and they will make all sorts of difficulties, | Các ngự y của nhà vua sẽ nói: ‘Đây là một kẻ bịp bợm, không phải người có học thức,’ và họ sẽ gây khó dễ đủ điều, |
but you will overcome them all at last, and will present yourself before the sick King. | nhưng cuối cùng con sẽ vượt qua tất cả và được diện kiến nhà vua đang lâm bệnh. |
You must then demand as much wood as three mules can carry, and a great cauldron, | Khi đó, con hãy yêu cầu một lượng củi bằng sức chở của ba con la và một cái vạc thật lớn. |
and must shut yourself up in a room with the Sultan, and when the cauldron boils you must throw him into it, | Con hãy tự nhốt mình trong phòng cùng nhà vua, và khi nước trong vạc sôi lên, con phải đẩy ngài vào đó, |
and there leave him until his flesh is completely separated from his bones. | để ngài trong đó cho đến khi da thịt róc hết khỏi xương. |
Then arrange the bones in their proper places, and throw over them the ashes out of the three bags. | Sau đó, hãy xếp xương lại cho đúng vị trí rồi rắc tro từ ba chiếc túi lên. |
The King will come back to life, and will be just as he was when he was twenty years old. | Nhà vua sẽ sống lại, và sẽ trở lại tráng kiện như tuổi đôi mươi. |
For your reward you must demand the bronze ring which has the power to grant you everything you desire. | Về phần thưởng, con phải yêu cầu chiếc nhẫn đồng có quyền năng ban cho con mọi điều ước. |
Go, my son, and do not forget any of my instructions.” | Đi đi, con trai của ta, và đừng quên bất cứ lời nào ta dặn.” |
The young man followed the old beggar-woman’s directions. On going out of the town he found the white, red, and black dogs, and killed and burnt them, gathering the ashes in three bags. Then he ran to the palace and cried: | Chàng trai trẻ làm theo lời chỉ dẫn của bà lão. Ra khỏi thành, chàng tìm thấy ba con chó trắng, đỏ, đen, liền giết chúng, thiêu đi và thu tro vào ba chiếc túi. Rồi chàng chạy đến hoàng cung và rao to: |
“A celebrated physician has just come from Janina in Albania. He alone can cure the King and give him back the strength of his youth.” | “Một danh y lừng lẫy từ Janina xứ Albania đã đến. Chỉ ngài mới có thể chữa khỏi bệnh cho nhà vua và giúp ngài tìm lại sức mạnh thời trai trẻ.” |
The King’s physicians at first laughed at the unknown wayfarer, but the Sultan ordered that the stranger should be admitted. They brought the cauldron and the loads of wood, and very soon the King was boiling away. Toward mid-day the gardener’s son arranged the bones in their places, and he had hardly scattered the ashes over them before the old King revived, to find himself once more young and hearty. | Các ngự y ban đầu chế giễu kẻ lạ mặt, nhưng nhà vua hạ lệnh cho người lạ vào. Họ mang vạc lớn và củi đến, chẳng mấy chốc nhà vua đã bị đun trong vạc. Đến giữa trưa, con trai bác làm vườn xếp lại xương cốt, và chàng vừa rắc tro lên thì vị vua già liền sống lại, thấy mình một lần nữa trẻ trung, khỏe mạnh. |
“How can I reward you, my benefactor?” he cried. “Will you take half my treasures?” | “Làm sao ta có thể thưởng cho ngươi đây, hỡi ân nhân?” nhà vua mừng rỡ. “Ngươi có muốn lấy một nửa kho báu của ta không?” |
“No,” said the gardener’s son. | “Không,” con trai bác làm vườn đáp. |
“My daughter’s hand?” | “Vậy bàn tay con gái ta thì sao?” |
“No.” | “Không.” |
“Take half my kingdom.” | “Hãy lấy một nửa vương quốc của ta.” |
“No. Give me only the bronze ring which can instantly grant me anything I wish for.” | “Cũng không. Xin ngài chỉ ban cho thần chiếc nhẫn đồng có thể lập tức biến mọi điều ước của thần thành sự thật.” |
“Alas!” said the King, “I set great store by that marvelous ring; nevertheless, you shall have it.” And he gave it to him. | “Than ôi!” nhà vua nói, “ta vô cùng quý trọng chiếc nhẫn kỳ diệu đó; tuy nhiên, ngươi sẽ có được nó.” Và ngài trao chiếc nhẫn cho chàng. |
The gardener’s son went back to say good-by to the old beggar-woman; then he said to the bronze ring: | Con trai bác làm vườn quay lại từ biệt bà lão ăn xin, rồi chàng nói với chiếc nhẫn đồng: |
“Prepare a splendid ship in which I may continue my journey. Let the hull be of fine gold, the masts of silver, the sails of brocade; let the crew consist of twelve young men of noble appearance, dressed like kings. St. Nicholas will be at the helm. As to the cargo, let it be diamonds, rubies, emeralds, and carbuncles.” | “Hãy chuẩn bị cho ta một con tàu tráng lệ để ta tiếp tục cuộc hành trình. Thân tàu hãy làm bằng vàng ròng, cột buồm bằng bạc, cánh buồm bằng gấm vóc; thủy thủ đoàn gồm mười hai chàng trai tuấn tú, ăn vận như bậc đế vương. Thánh Nicholas sẽ là người cầm lái. Về hàng hóa, hãy chất đầy kim cương, hồng ngọc, lục bảo và ngọc hồng lựu.” |
And immediately a ship appeared upon the sea which resembled in every particular the description given by the gardener’s son, and, stepping on board, he continued his journey. | Ngay lập tức, một con tàu hiện ra trên biển, giống hệt như lời miêu tả của chàng. Chàng bước lên tàu và tiếp tục cuộc hành trình. |
Presently he arrived at a great town and established himself in a wonderful palace. After several days he met his rival, the minister’s son, who had spent all his money and was reduced to the disagreeable employment of a carrier of dust and rubbish. | Chẳng bao lâu, chàng đến một thành phố lớn và ở trong một cung điện tuyệt đẹp. Vài ngày sau, chàng gặp lại đối thủ của mình, con trai tể tướng, kẻ đã tiêu sạch tiền bạc và phải làm cái nghề phu hót rác hèn mọn. |
The gardener’s son said to him: | Con trai bác làm vườn hỏi hắn: |
“What is your name, what is your family, and from what country do you come?” | “Ngươi tên gì, thuộc gia đình nào, và từ đâu đến?” |
“I am the son of the prime minister of a great nation, and yet see what a degrading occupation I am reduced to.” | “Ta là con trai của quan tể tướng một nước lớn, thế mà hãy xem ta phải làm cái nghề mạt hạng này đây.” |
“Listen to me; though I don’t know anything more about you, I am willing to help you. I will give you a ship to take you back to your own country upon one condition.” | “Hãy nghe đây; tuy ta không biết gì hơn về ngươi, nhưng ta sẵn lòng giúp. Ta sẽ cho ngươi một con tàu để trở về quê hương, với một điều kiện.” |
“Whatever it may be, I accept it willingly.” | “Bất kể là gì, ta cũng xin vui lòng chấp nhận.” |
“Follow me to my palace.” | “Hãy theo ta về cung điện.” |
The minister’s son followed the rich stranger, whom he had not recognized. When they reached the palace the gardener’s son made a sign to his slaves, who completely undressed the new-comer. | Con trai tể tướng đi theo người lạ mặt giàu có mà không nhận ra. Khi họ đến cung điện, con trai bác làm vườn ra hiệu cho đám nô lệ, và họ lột sạch quần áo của kẻ mới đến. |
“Make this ring red-hot,” commanded the master, “and mark the man with it upon his back.” | “Hãy nung đỏ chiếc nhẫn này,” người chủ ra lệnh, “rồi đóng dấu lên lưng hắn.” |
The slaves obeyed him. | Các nô lệ tuân lệnh. |
“Now, young man,” said the rich stranger, “I am going to give you a vessel which will take you back to your own country.” | “Này, chàng trai trẻ,” người lạ mặt giàu có nói, “bây giờ ta sẽ cho ngươi một con tàu để về quê.” |
And, going out, he took the bronze ring and said: | Và, chàng bước ra ngoài, cầm chiếc nhẫn đồng và nói: |
“Bronze ring, obey thy master. Prepare me a ship of which the half-rotten timbers shall be painted black, let the sails be in rags, and the sailors infirm and sickly. One shall have lost a leg, another an arm, the third shall be a hunchback, another lame or club-footed or blind, and most of them shall be ugly and covered with scars. Go, and let my orders be executed.” | “Nhẫn đồng, hãy tuân lệnh chủ nhân. Chuẩn bị cho ta một con tàu có những tấm ván mục nát sơn đen, cánh buồm rách tả tơi, và thủy thủ thì ốm yếu bệnh tật. Kẻ thì mất một chân, kẻ mất một tay, kẻ thì gù, người thì què, chột hoặc mù, và hầu hết bọn họ đều xấu xí, mặt đầy sẹo. Đi, hãy thực thi lệnh của ta.” |
The minister’s son embarked in this old vessel, and thanks to favorable winds, at length reached his own country. In spite of the pitiable condition in which he returned they received him joyfully. | Con trai tể tướng lên con tàu cũ kỹ đó. Nhờ gió thuận, cuối cùng hắn cũng về đến quê hương. Bất chấp bộ dạng thảm hại của hắn, mọi người vẫn vui mừng đón chào. |
“I am the first to come back,” said he to the King; now fulfil your promise, and give me the princess in marriage. | “Con là người về đầu tiên,” hắn tâu với nhà vua, “giờ xin bệ hạ hãy thực hiện lời hứa và gả công chúa cho con.” |
So they at once began to prepare for the wedding festivities. As to the poor princess, she was sorrowful and angry enough about it. | Thế là họ lập tức chuẩn bị cho lễ cưới. Về phần nàng công chúa tội nghiệp, nàng vô cùng đau buồn và tức giận. |
The next morning, at daybreak, a wonderful ship with every sail set came to anchor before the town. The King happened at that moment to be at the palace window. | Sáng hôm sau, lúc rạng đông, một con tàu kỳ diệu giương buồm tiến vào cảng và neo đậu trước kinh thành. Nhà vua tình cờ lúc đó đang ở bên cửa sổ cung điện. |
“What strange ship is this,” he cried, “that has a golden hull, silver masts, and silken sails, and who are the young men like princes who man it? And do I not see St. Nicholas at the helm? Go at once and invite the captain of the ship to come to the palace.” | “Kia là con tàu kỳ lạ nào vậy?” ngài thốt lên, “Thân tàu bằng vàng, cột buồm bằng bạc, cánh buồm bằng lụa là, và những chàng trai như vương tử kia là ai? Có phải ta đang thấy Thánh Nicholas cầm lái không? Hãy đi ngay và mời thuyền trưởng của con tàu đó đến cung điện.” |
His servants obeyed him, and very soon in came an enchantingly handsome young prince, dressed in rich silk, ornamented with pearls and diamonds. | Các thị vệ tuân lệnh, và chẳng bao lâu, một vị hoàng tử trẻ đẹp mê hồn, mặc áo lụa quý, trang sức toàn ngọc trai và kim cương bước vào. |
“Young man,” said the King, “you are welcome, whoever you may be. Do me the favor to be my guest as long as you remain in my capital.” | “Chàng trai trẻ,” nhà vua nói, “dù ngài là ai, ta cũng xin chào mừng. Xin hãy nhận lời làm khách quý của ta trong suốt thời gian ngài ở lại kinh đô.” |
“Many thanks, sire,” replied the captain, “I accept your offer.” | “Muôn tâu bệ hạ,” vị thuyền trưởng đáp, “thần xin nhận lời.” |
“My daughter is about to be married,” said the King; “will you give her away?” | “Con gái ta sắp kết hôn,” nhà vua nói, “ngài sẽ làm chủ hôn cho nó chứ?” |
“I shall be charmed, sire.” | “Thần rất vinh hạnh, thưa bệ hạ.” |
Soon after came the Princess and her betrothed. | Ngay sau đó, công chúa và vị hôn phu của nàng bước vào. |
“Why, how is this?” cried the young captain; “would you marry this charming princess to such a man as that?” | “Khoan đã, chuyện gì thế này?” vị thuyền trưởng trẻ kêu lên, “Lẽ nào ngài lại gả nàng công chúa kiều diễm này cho một kẻ như thế?” |
“But he is my prime minister’s son!” | “Nhưng đó là con trai của quan tể tướng của ta!” |
“What does that matter? I cannot give your daughter away. The man she is betrothed to is one of my servants.” | “Điều đó có nghĩa lý gì? Thần không thể làm chủ hôn cho cô ấy được. Người mà cô ấy hứa hôn là một trong những kẻ hầu của thần.” |
“Your servant?” | “Kẻ hầu của ngài?” |
“Without doubt. I met him in a distant town reduced to carrying away dust and rubbish from the houses. I had pity on him and engaged him as one of my servants.” | “Chắc chắn rồi. Thần đã gặp hắn ở một thành phố xa xôi, phải đi hót rác cho các nhà dân. Thần thương hại hắn nên đã thuê hắn làm một trong những kẻ hầu của mình.” |
“It is impossible!” cried the King. | “Không thể nào!” nhà vua kêu lên. |
“Do you wish me to prove what I say? This young man returned in a vessel which I fitted out for him, an unseaworthy ship with a black battered hull, and the sailors were infirm and crippled.” | “Bệ hạ có muốn thần chứng minh lời nói của mình không? Chàng trai này đã trở về trên một con tàu do thần cấp cho, một con tàu cũ kỹ không an toàn với thân tàu đen kịt, móp méo, và thủy thủ thì ốm yếu, tàn tật.” |
“It is quite true,” said the King. | “Đúng là như vậy,” nhà vua xác nhận. |
“It is false,” cried the minister’s son. “I do not know this man!” | “Nói dối!” con trai tể tướng hét lên. “Ta không biết người này!” |
“Sire,” said the young captain, “order your daughter’s betrothed to be stripped, and see if the mark of my ring is not branded upon his back.” | “Thưa bệ hạ,” vị thuyền trưởng trẻ nói, “xin bệ hạ hãy ra lệnh lột áo kẻ sắp thành phò mã này ra, xem sau lưng hắn có dấu ấn chiếc nhẫn của thần không.” |
The King was about to give this order, when the minister’s son, to save himself from such an indignity, admitted that the story was true. | Nhà vua định ra lệnh thì con trai tể tướng, để cứu mình khỏi sự sỉ nhục, đã thừa nhận rằng câu chuyện là thật. |
“And now, sire,” said the young captain, “do you not recognize me?” | “Và bây giờ, thưa bệ hạ,” vị thuyền trưởng trẻ nói, “ngài nhận ra thần chứ?” |
“I recognize you,” said the Princess; “you are the gardener’s son whom I have always loved, and it is you I wish to marry.” | “Ta nhận ra chàng,” công chúa reo lên, “chàng là con trai bác làm vườn mà thiếp hằng yêu, và chính chàng là người thiếp muốn lấy làm chồng.” |
“Young man, you shall be my son-in-law,” cried the King. “The marriage festivities are already begun, so you shall marry my daughter this very day.” | “Chàng trai trẻ, ngươi sẽ là phò mã của ta,” nhà vua tuyên bố. “Lễ cưới đã được chuẩn bị, vậy ngươi hãy cưới con gái ta ngay hôm nay.” |
And so that very day the gardener’s son married the beautiful Princess. | Và thế là ngay trong ngày hôm đó, con trai bác làm vườn đã cưới nàng công chúa xinh đẹp. |
Several months passed. The young couple were as happy as the day was long, and the King was more and more pleased with himself for having secured such a son-in-law. | Nhiều tháng trôi qua. Đôi vợ chồng trẻ hạnh phúc không kể xiết, còn nhà vua thì ngày càng mãn nguyện vì có được một người con rể như ý. |
But, presently, the captain of the golden ship found it necessary to take a long voyage, and after embracing his wife tenderly he embarked. | Nhưng rồi, thuyền trưởng của con tàu vàng phải thực hiện một chuyến hải hành dài ngày. Sau khi ôm hôn vợ thật nồng thắm, chàng lên đường. |
Now in the outskirts of the capital there lived an old man, who had spent his life in studying black arts—alchemy, astrology, magic, and enchantment. This man found out that the gardener’s son had only succeeded in marrying the Princess by the help of the genii who obeyed the bronze ring. | Bấy giờ, ở vùng ngoại ô kinh thành có một lão già đã dành cả đời nghiên cứu hắc thuật – thuật giả kim, chiêm tinh, ma thuật và bùa mê. Lão phát hiện ra rằng con trai bác làm vườn có được công chúa là nhờ sự giúp đỡ của các vị thần tuân lệnh chiếc nhẫn đồng. |
“I will have that ring,” said he to himself. So he went down to the sea-shore and caught some little red fishes. Really, they were quite wonderfully pretty. Then he came back, and, passing before the Princess’s window, he began to cry out: | “Ta phải có được chiếc nhẫn đó,” lão tự nhủ. Vậy là lão ra bờ biển bắt một ít cá đỏ nhỏ. Trông chúng thật sự đẹp lạ lùng. Rồi lão quay lại, đi qua cửa sổ của công chúa và bắt đầu rao: |
“Who wants some pretty little red fishes?” | “Ai mua cá đỏ xinh đây, cá đỏ xinh đây?” |
The Princess heard him, and sent out one of her slaves, who said to the old peddler: | Công chúa nghe thấy, bèn sai một nữ tỳ ra nói với người bán hàng rong: |
“What will you take for your fish?” | “Ngươi bán cá giá bao nhiêu?” |
“A bronze ring.” | “Một chiếc nhẫn đồng.” |
“A bronze ring, old simpleton! And where shall I find one?” | “Một chiếc nhẫn đồng ư, lão ngốc này! Ta lấy đâu ra bây giờ?” |
“Under the cushion in the Princess’s room.” | “Ở dưới gối trong phòng công chúa.” |
The slave went back to her mistress. | Nữ tỳ quay về với chủ. |
“The old madman will take neither gold nor silver,” said she. | “Lão già điên đó không nhận vàng cũng chẳng nhận bạc,” cô nói. |
“What does he want then?” | “Thế lão muốn gì?” |
“A bronze ring that is hidden under a cushion.” | “Một chiếc nhẫn đồng giấu dưới chiếc gối.” |
“Find the ring and give it to him,” said the Princess. | “Tìm chiếc nhẫn đó và đưa cho lão đi,” công chúa nói. |
And at last the slave found the bronze ring, which the captain of the golden ship had accidentally left behind and carried it to the man, who made off with it instantly. | Cuối cùng, nữ tỳ tìm thấy chiếc nhẫn đồng mà vị thuyền trưởng đã vô tình để lại, và mang nó cho lão già. Lão ta lập tức biến mất cùng chiếc nhẫn. |
Hardly had he reached his own house when, taking the ring, he said, “Bronze ring, obey thy master. I desire that the golden ship shall turn to black wood, and the crew to hideous negroes; that St. Nicholas shall leave the helm and that the only cargo shall be black cats.” | Vừa về đến nhà, lão cầm lấy chiếc nhẫn và nói: “Nhẫn đồng, hãy tuân lệnh chủ nhân. Ta muốn con tàu vàng biến thành gỗ đen, thủy thủ đoàn biến thành những tên da đen gớm ghiếc; Thánh Nicholas phải rời khỏi bánh lái và hàng hóa chỉ toàn là mèo đen.” |
And the genii of the bronze ring obeyed him. | Và các vị thần của chiếc nhẫn đồng đã tuân lệnh. |
Finding himself upon the sea in this miserable condition, the young captain understood that some one must have stolen the bronze ring from him, and he lamented his misfortune loudly; but that did him no good. | Thấy mình lâm vào cảnh khốn cùng giữa biển khơi, vị thuyền trưởng trẻ hiểu rằng ai đó đã đánh cắp chiếc nhẫn đồng của mình. Chàng than khóc cho số phận nhưng cũng chẳng ích gì. |
“Alas!” he said to himself, “whoever has taken my ring has probably taken my dear wife also. What good will it do me to go back to my own country?” And he sailed about from island to island, and from shore to shore, believing that wherever he went everybody was laughing at him, and very soon his poverty was so great that he and his crew and the poor black cats had nothing to eat but herbs and roots. After wandering about a long time he reached an island inhabited by mice. The captain landed upon the shore and began to explore the country. There were mice everywhere, and nothing but mice. Some of the black cats had followed him, and, not having been fed for several days, they were fearfully hungry, and made terrible havoc among the mice. | “Than ôi!” chàng tự nhủ, “kẻ nào lấy chiếc nhẫn của ta có lẽ cũng đã chiếm lấy người vợ yêu quý của ta rồi. Ta trở về quê hương còn có ích gì nữa?” Và chàng dong buồm từ đảo này sang đảo khác, từ bờ này sang bờ kia, tin rằng đi đến đâu người ta cũng cười nhạo mình. Chẳng mấy chốc, chàng trở nên nghèo túng đến nỗi chàng, thủy thủ đoàn và cả bầy mèo đen tội nghiệp không có gì ăn ngoài rễ cây và cỏ dại. Sau một thời gian dài lang thang, chàng cập bến một hòn đảo chỉ toàn là chuột. Thuyền trưởng lên bờ và bắt đầu khám phá. Khắp nơi đều là chuột, không có gì khác ngoài chuột. Vài con mèo đen đã theo chàng lên bờ, và vì đói lả nhiều ngày, chúng trở nên hung dữ tàn bạo, cắn xé bầy chuột không thương tiếc. |
Then the queen of the mice held a council. | Lúc ấy, chuột chúa liền triệu tập hội đồng. |
“These cats will eat every one of us,” she said, “if the captain of the ship does not shut the ferocious animals up. Let us send a deputation to him of the bravest among us.” | “Lũ mèo này sẽ ăn thịt hết chúng ta,” chuột chúa nói, “nếu thuyền trưởng không nhốt những con thú hung tợn đó lại. Chúng ta hãy cử một phái đoàn gồm những con dũng cảm nhất đến gặp ông ta.” |
Several mice offered themselves for this mission and set out to find the young captain. | Vài con chuột tình nguyện nhận nhiệm vụ này và lên đường tìm vị thuyền trưởng trẻ. |
“Captain,” said they, “go away quickly from our island, or we shall perish, every mouse of us.” | “Thưa thuyền trưởng,” chúng nói, “xin ngài hãy nhanh chóng rời khỏi đảo của chúng tôi, nếu không toàn bộ loài chuột chúng tôi sẽ bị diệt vong.” |
“Willingly,” replied the young captain, “upon one condition. That is that you shall first bring me back a bronze ring which some clever magician has stolen from me. If you do not do this I will land all my cats upon your island, and you shall be exterminated.” | “Ta đồng ý,” vị thuyền trưởng đáp, “với một điều kiện. Đó là các ngươi phải tìm lại cho ta một chiếc nhẫn đồng mà một pháp sư tài giỏi đã đánh cắp. Nếu không làm được, ta sẽ thả hết lũ mèo của ta lên đảo các ngươi, và các ngươi sẽ bị tận diệt.” |
The mice withdrew in great dismay. “What is to be done?” said the Queen. “How can we find this bronze ring?” She held a new council, calling in mice from every quarter of the globe, but nobody knew where the bronze ring was. Suddenly three mice arrived from a very distant country. One was blind, the second lame, and the third had her ears cropped. | Bầy chuột lui về trong nỗi kinh hoàng. “Phải làm sao đây?” chuột chúa nói. “Làm thế nào chúng ta tìm được chiếc nhẫn đồng đó?” Chuột chúa lại mở một hội đồng mới, triệu tập chuột từ khắp nơi trên thế giới, nhưng không ai biết chiếc nhẫn đồng ở đâu. Bỗng nhiên, ba con chuột từ một xứ sở rất xa xôi đến. Một con bị mù, một con bị què, và con thứ ba bị xén tai. |
“Ho, ho, ho!” said the new-comers. “We come from a far distant country.” | “Hô hô hô!” những con mới đến nói. “Chúng tôi từ một xứ sở xa xôi đến đây.” |
“Do you know where the bronze ring is which the genii obey?” | “Các ngươi có biết chiếc nhẫn đồng mà các vị thần tuân lệnh đang ở đâu không?” |
“Ho, ho, ho! we know; an old sorcerer has taken possession of it, and now he keeps it in his pocket by day and in his mouth by night.” | “Hô hô hô! Chúng tôi biết chứ; một lão phù thủy đã chiếm được nó, giờ lão để nó trong túi ban ngày và ngậm trong miệng ban đêm.” |
“Go and take it from him, and come back as soon as possible.” | “Hãy đi lấy nó về đây, và trở lại càng sớm càng tốt.” |
So the three mice made themselves a boat and set sail for the magician’s country. When they reached the capital they landed and ran to the palace, leaving only the blind mouse on the shore to take care of the boat. Then they waited till it was night. The wicked old man lay down in bed and put the bronze ring into his mouth, and very soon he was asleep. | Vậy là ba con chuột tự đóng một chiếc thuyền và dong buồm đến xứ sở của lão pháp sư. Khi đến kinh thành, chúng lên bờ và chạy đến cung điện, chỉ để lại con chuột mù ở bờ biển để trông thuyền. Rồi chúng đợi đến đêm. Lão già độc ác nằm lên giường, ngậm chiếc nhẫn đồng vào miệng, và chẳng mấy chốc đã ngủ say. |
“Now, what shall we do?” said the two little animals to each other. | “Bây giờ làm gì đây?” hai con chuột nhỏ nói với nhau. |
The mouse with the cropped ears found a lamp full of oil and a bottle full of pepper. So she dipped her tail first in the oil and then in the pepper, and held it to the sorcerer’s nose. | Con chuột xén tai tìm thấy một cây đèn đầy dầu và một lọ hạt tiêu. Thế là nó nhúng đuôi mình vào dầu rồi vào hạt tiêu, rồi đưa lên mũi lão pháp sư. |
“Atisha! atisha!” sneezed the old man, but he did not wake, and the shock made the bronze ring jump out of his mouth. Quick as thought the lame mouse snatched up the precious talisman and carried it off to the boat. | “Hắt xì! Hắt xì!” lão già hắt hơi, nhưng không tỉnh giấc. Cú hắt hơi làm chiếc nhẫn đồng văng ra khỏi miệng lão. Nhanh như chớp, con chuột què vồ lấy báu vật và mang nó ra thuyền. |
Imagine the despair of the magician when he awoke and the bronze ring was nowhere to be found! | Hãy tưởng tượng nỗi tuyệt vọng của lão pháp sư khi tỉnh dậy và không thấy chiếc nhẫn đâu nữa! |
But by that time our three mice had set sail with their prize. A favoring breeze was carrying them toward the island where the queen of the mice was awaiting them. Naturally they began to talk about the bronze ring. | Nhưng lúc đó, ba con chuột của chúng ta đã dong buồm ra khơi cùng với chiến lợi phẩm. Một cơn gió thuận đang đưa chúng về hòn đảo nơi chuột chúa đang chờ đợi. Đương nhiên, chúng bắt đầu bàn tán về chiếc nhẫn đồng. |
“Which of us deserves the most credit?” they cried all at once. | “Trong chúng ta, ai có công lớn nhất?” chúng đồng thanh la lên. |
“I do,” said the blind mouse, “for without my watchfulness our boat would have drifted away to the open sea.” | “Là ta,” con chuột mù nói, “nếu không có sự canh chừng của ta, thuyền của chúng ta đã bị trôi ra biển khơi rồi.” |
“No, indeed,” cried the mouse with the cropped ears; “the credit is mine. Did I not cause the ring to jump out of the man’s mouth?” | “Không phải,” con chuột xén tai kêu lên, “công lao là của ta. Chẳng phải ta đã làm cho chiếc nhẫn văng ra khỏi miệng lão già đó sao?” |
“No, it is mine,” cried the lame one, “for I ran off with the ring.” | “Không, là của ta,” con chuột què la lên, “vì chính ta đã chạy đi lấy chiếc nhẫn.” |
And from high words they soon came to blows, and, alas! when the quarrel was fiercest the bronze ring fell into the sea. | Và từ lời qua tiếng lại, chúng lao vào đánh nhau. Than ôi, khi cuộc cãi vã lên đến đỉnh điểm, chiếc nhẫn đồng đã rơi xuống biển. |
“How are we to face our queen,” said the three mice “when by our folly we have lost the talisman and condemned our people to be utterly exterminated? We cannot go back to our country; let us land on this desert island and there end our miserable lives.” No sooner said than done. The boat reached the island, and the mice landed. | “Chúng ta còn mặt mũi nào mà đối diện với chuột chúa,” ba con chuột nói, “khi sự ngu ngốc của chúng ta đã làm mất báu vật và đẩy giống loài vào cảnh diệt vong? Chúng ta không thể trở về quê hương được nữa; hãy cập vào hòn đảo hoang này và kết thúc cuộc đời khốn khổ ở đây.” Nói là làm. Thuyền cập vào đảo, và ba con chuột lên bờ. |
The blind mouse was speedily deserted by her two sisters, who went off to hunt flies, but as she wandered sadly along the shore she found a dead fish, and was eating it, when she felt something very hard. At her cries the other two mice ran up. | Con chuột mù nhanh chóng bị hai con kia bỏ rơi để đi săn ruồi, nhưng khi nó buồn bã lang thang dọc bờ biển, nó tìm thấy một con cá chết. Đang ăn, nó cảm thấy có vật gì đó rất cứng. Nghe tiếng kêu của nó, hai con chuột kia chạy lại. |
“It is the bronze ring! It is the talisman!” they cried joyfully, and, getting into their boat again, they soon reached the mouse island. It was time they did, for the captain was just going to land his cargo of cats, when a deputation of mice brought him the precious bronze ring. | “Là chiếc nhẫn đồng! Là báu vật!” chúng vui mừng kêu lên, rồi leo lại lên thuyền và nhanh chóng về đến đảo chuột. Chúng về thật đúng lúc, vì thuyền trưởng đang chuẩn bị thả lũ mèo của mình lên bờ thì một phái đoàn chuột đã mang chiếc nhẫn quý giá đến cho chàng. |
“Bronze ring,” commanded the young man, “obey thy master. Let my ship appear as it was before.” | “Nhẫn đồng,” chàng trai ra lệnh, “hãy tuân lệnh chủ nhân. Hãy để con tàu của ta trở lại như xưa.” |
Immediately the genii of the ring set to work, and the old black vessel became once more the wonderful golden ship with sails of brocade; the handsome sailors ran to the silver masts and the silken ropes, and very soon they set sail for the capital. | Ngay lập tức, các vị thần của chiếc nhẫn bắt tay vào việc, và con tàu đen kịt cũ kỹ một lần nữa trở thành con tàu vàng lộng lẫy với những cánh buồm gấm vóc. Các thủy thủ tuấn tú chạy đến bên những cột buồm bằng bạc và những sợi dây bằng lụa, và chẳng bao lâu họ đã dong buồm trở về kinh thành. |
Ah! how merrily the sailors sang as they flew over the glassy sea! | A, thủy thủ đoàn đã hát vang vui vẻ biết bao khi lướt đi trên mặt biển trong xanh! |
At last the port was reached. | Cuối cùng, cảng đã ở trước mắt. |
The captain landed and ran to the palace, where he found the wicked old man asleep. The Princess clasped her husband in a long embrace. The magician tried to escape, but he was seized and bound with strong cords. | Thuyền trưởng lên bờ và chạy đến cung điện, nơi chàng thấy lão già độc ác đang ngủ say. Công chúa ôm chầm lấy chồng trong vòng tay siết chặt. Lão pháp sư cố gắng trốn thoát, nhưng đã bị bắt và trói lại bằng dây thừng chắc chắn. |
The next day the sorcerer, tied to the tail of a savage mule loaded with nuts, was broken into as many pieces as there were nuts upon the mule’s back. | Ngày hôm sau, lão phù thủy bị trói vào đuôi một con la hoang chất đầy hạt dẻ, rồi bị phanh thây thành bao nhiêu mảnh tương ứng với số hạt dẻ trên lưng la. |
Sachsongngu.top dịch
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.