23 – Alibaba và bốn mươi tên cướp

THE FORTY THIEVES ALI BABA VÀ BỐN MƯƠI TÊN CƯỚP
In a town in Persia there dwelt two brothers, one named Cassim, the other Ali Baba. Tại một thị trấn xứ Ba Tư nọ, có hai anh em ruột, người anh tên là Cassim, người em là Ali Baba.
Cassim was married to a rich wife and lived in plenty, while Ali Baba had to maintain his wife and children by cutting wood in a neighboring forest and selling it in the town. Cassim lấy được vợ giàu và sống trong nhung lụa, còn Ali Baba thì phải nai lưng kiếm sống bằng nghề đốn củi trong khu rừng gần đó để nuôi vợ con.
One day, when Ali Baba was in the forest, he saw a troop of men on horseback, coming toward him in a cloud of dust. Một ngày nọ, khi đang ở trong rừng, Ali Baba chợt thấy một đoàn người cưỡi ngựa đang tiến về phía mình trong một đám bụi mù mịt.
He was afraid they were robbers, and climbed into a tree for safety. Sợ rằng đó là một toán cướp, chàng vội trèo lên một cái cây cao để ẩn mình.
When they came up to him and dismounted, he counted forty of them. Khi họ đến gần và xuống ngựa, chàng đếm được chẵn bốn mươi người.
They unbridled their horses and tied them to trees. Họ tháo dây cương và buộc ngựa vào những gốc cây.
The finest man among them, whom Ali Baba took to be their captain, went a little way among some bushes, and said: “Open, Sesame!” so plainly that Ali Baba heard him. Người đàn ông trông bảnh bao nhất, mà Ali Baba đoán là thủ lĩnh của họ, tiến lại gần một lùm cây rồi hô lớn: “Vừng ơi, mở ra!”. Giọng hắn to và rõ đến nỗi Ali Baba nghe thấy từng lời.
A door opened in the rocks, and having made the troop go in, he followed them, and the door shut again of itself. Tức thì, một cánh cửa đá sừng sững mở ra. Sau khi cả toán cướp đã vào trong, hắn cũng bước theo, và cánh cửa tự động đóng sập lại.
They stayed some time inside, and Ali Baba, fearing they might come out and catch him, was forced to sit patiently in the tree. Họ ở trong đó một lúc lâu. Ali Baba sợ rằng họ có thể ra ngoài và tóm được mình nên đành kiên nhẫn ngồi yên trên cây.
At last the door opened again, and the Forty Thieves came out. Cuối cùng, cánh cửa lại mở ra và bốn mươi tên cướp bước ra.
As the Captain went in last he came out first, and made them all pass by him; he then closed the door, saying: “Shut, Sesame!” Tên thủ lĩnh vào sau cùng nên ra trước nhất, hắn đứng quan sát cho đến khi tất cả thuộc hạ đều đi qua. Sau đó, hắn ra lệnh: “Vừng ơi, đóng lại!”
Every man bridled his horse and mounted, the Captain put himself at their head, and they returned as they came. Bọn chúng thắng yên cương, nhảy lên ngựa, rồi tên thủ lĩnh dẫn đầu cả đoàn phóng đi như lúc đến.
Then Ali Baba climbed down and went to the door concealed among the bushes, and said: “Open, Sesame!” and it flew open. Lúc ấy Ali Baba mới trèo xuống, tiến đến cánh cửa ẩn sau lùm cây và nói: “Vừng ơi, mở ra!”. Cánh cửa liền bật mở.
Ali Baba, who expected a dull, dismal place, was greatly surprised to find it large and well lighted, hollowed by the hand of man in the form of a vault, which received the light from an opening in the ceiling. Ali Baba, vốn chỉ mong đợi một nơi tăm tối, ảm đạm, đã vô cùng kinh ngạc khi thấy đó là một hang động rộng lớn và sáng sủa, được đẽo gọt công phu thành một mái vòm, nhận ánh sáng từ một lỗ hổng trên trần.
He saw rich bales of merchandise—silk, stuff-brocades, all piled together, and gold and silver in heaps, and money in leather purses. Chàng kinh ngạc thấy nào là những kiện hàng hóa quý giá—lụa là, gấm vóc—chất cao như núi, nào là vàng bạc chất thành từng đống, nào là tiền đựng trong những túi da căng phồng.
He went in and the door shut behind him. Chàng bước vào và cánh cửa đóng lại sau lưng.
He did not look at the silver, but brought out as many bags of gold as he thought his asses, which were browsing outside, could carry, loaded them with the bags, and hid it all with fagots. Chàng không màng đến bạc, mà chỉ khuân những túi vàng mà chàng nghĩ những con lừa đang gặm cỏ bên ngoài của mình có thể chở nổi. Sau khi chất vàng lên lưng lừa, chàng phủ củi lên trên để che giấu.
Using the words: “Shut, Sesame!” he closed the door and went home. Rồi chàng hô lớn: “Vừng ơi, đóng lại!”, cánh cửa đóng sập lại và chàng trở về nhà.
Then he drove his asses into the yard, shut the gates, carried the money-bags to his wife, and emptied them out before her. Về đến sân nhà, chàng lùa lừa vào trong, đóng chặt cổng, rồi mang những túi tiền vào cho vợ và đổ hết ra trước mặt nàng.
He bade her keep the secret, and he would go and bury the gold. Chàng dặn vợ phải giữ bí mật, còn mình sẽ đi chôn số vàng này.
“Let me first measure it,” said his wife. “I will go borrow a measure of someone, while you dig the hole.” “Khoan đã,” vợ chàng nói, “để em đong xem được bao nhiêu đã. Em sẽ đi mượn một cái đấu của ai đó trong lúc chàng đào hố.”
So she ran to the wife of Cassim and borrowed a measure. Nói rồi, nàng chạy sang nhà Cassim để mượn đấu.
Knowing Ali Baba’s poverty, the sister was curious to find out what sort of grain his wife wished to measure, and artfully put some suet at the bottom of the measure. Vốn biết gia cảnh nghèo khó của Ali Baba, người chị dâu tò mò không biết em dâu mình định đong loại ngũ cốc gì, nên đã lén trét một ít mỡ bò vào đáy đấu.
Ali Baba’s wife went home and set the measure on the heap of gold, and filled it and emptied it often, to her great content. Vợ của Ali Baba về nhà, đặt cái đấu lên đống vàng, vui sướng đong đi đong lại không biết bao nhiêu lần cho thỏa thích.
She then carried it back to her sister, without noticing that a piece of gold was sticking to it, which Cassim’s wife perceived directly her back was turned. Xong xuôi, nàng mang đấu trả lại cho chị dâu mà không để ý rằng một đồng vàng nhỏ đã dính vào đáy đấu. Vừa thấy vợ Ali Baba quay lưng đi, vợ của Cassim lập tức phát hiện ra.
She grew very curious, and said to Cassim when he came home: “Cassim, your brother is richer than you. He does not count his money, he measures it.” Nàng vô cùng ngạc nhiên, và đợi đến khi Cassim về nhà liền nói: “Cassim, em trai ông giờ còn giàu hơn cả ông đấy. Anh ta không đếm tiền, mà dùng đấu để đong cơ.”
He begged her to explain this riddle, which she did by showing him the piece of money and telling him where she found it. Cassim nài nỉ vợ giải thích câu nói khó hiểu ấy, nàng bèn cho hắn xem đồng tiền vàng và kể lại đầu đuôi câu chuyện.
Then Cassim grew so envious that he could not sleep, and went to his brother in the morning before sunrise. Lòng ganh tị của Cassim trỗi dậy đến nỗi đêm đó hắn không sao ngủ được. Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời chưa mọc, hắn đã tìm đến nhà em trai.
Ali Baba,” he said, showing him the gold piece, “you pretend to be poor and yet you measure gold.” Ali Baba,” hắn nói, giơ đồng vàng ra, “em nói em nghèo khó mà lại dùng đấu để đong vàng à?”
By this Ali Baba perceived that through his wife’s folly Cassim and his wife knew their secret, so he confessed all and offered Cassim a share. Đến lúc này Ali Baba mới nhận ra rằng vì sự khờ dại của vợ, vợ chồng Cassim đã biết bí mật của họ. Chàng đành thú nhận mọi chuyện và đề nghị chia cho Cassim một phần.
“That I expect,” said Cassim; “but I must know where to find the treasure, otherwise I will discover all, and you will lose all.” “Tất nhiên rồi,” Cassim nói, “nhưng ta phải biết kho báu đó ở đâu. Nếu không, ta sẽ tố cáo mọi chuyện, và em sẽ mất tất cả.”
Ali Baba, more out of kindness than fear, told him of the cave, and the very words to use. Ali Baba, phần vì tử tế hơn là vì sợ hãi, đã kể cho anh trai về hang động và cả câu thần chú.
Cassim left Ali Baba, meaning to be beforehand with him and get the treasure for himself. Cassim rời đi, lòng đầy toan tính sẽ đến đó trước em trai để chiếm trọn kho báu cho riêng mình.
He rose early next morning, and set out with ten mules loaded with great chests. Hắn dậy thật sớm vào sáng hôm sau, dong theo mười con la chở những cái rương lớn.
He soon found the place, and the door in the rock. Hắn nhanh chóng tìm thấy nơi đó và cánh cửa đá.
He said: “Open, Sesame!” and the door opened and shut behind him. Hắn hô lên: “Vừng ơi, mở ra!” và cánh cửa mở ra rồi đóng lại sau lưng hắn.
He could have feasted his eyes all day on the treasures, but he now hastened to gather together as much of it as possible; but when he was ready to go he could not remember what to say for thinking of his great riches. Hắn có thể đã ngắm kho báu cả ngày không chán, nhưng lòng tham thôi thúc hắn phải vơ vét thật nhanh. Nhưng khi đã sẵn sàng rời đi, vì quá mải mê nghĩ đến sự giàu có của mình, hắn lại quên mất câu thần chú.
Instead of “Sesame,” he said: “Open, Barley!” and the door remained fast. Thay vì “Vừng”, hắn lại hét lên: “Lúa mạch ơi, mở ra!” và cánh cửa vẫn đóng chặt.
He named several different sorts of grain, all but the right one, and the door still stuck fast. Hắn gọi tên đủ loại ngũ cốc khác nhau, trừ cái tên đúng, nhưng cánh cửa vẫn không hề nhúc nhích.
He was so frightened at the danger he was in that he had as much forgotten the word as if he had never heard it. Tồi tệ hơn, hắn sợ hãi đến mức quên bẵng mất câu thần chú cứ như thể chưa từng nghe qua.
About noon the robbers returned to their cave, and saw Cassim’s mules roving about with great chests on their backs. Khoảng giữa trưa, toán cướp quay trở lại hang ổ và nhìn thấy mấy con la của Cassim đang lảng vảng gần đó với những chiếc rương to trên lưng.
This gave them the alarm; they drew their sabres, and went to the door, which opened on their Captain’s saying: “Open, Sesame!” Cảnh tượng này khiến chúng cảnh giác. Chúng rút gươm trần, tiến thẳng đến cửa hang. Tên thủ lĩnh hô lớn: “Vừng ơi, mở ra!”
Cassim, who had heard the trampling of their horses’ feet, resolved to sell his life dearly, so when the door opened he leaped out and threw the Captain down. Cassim nghe tiếng vó ngựa dồn dập, biết mình khó thoát, bèn quyết liều chết một phen. Ngay khi cánh cửa vừa mở, hắn lao ra xô ngã tên thủ lĩnh.
In vain, however, for the robbers with their sabres soon killed him. Nhưng than ôi, nỗ lực đó thật vô ích, vì những tên cướp khác đã vung gươm hạ sát hắn ngay tức khắc.
On entering the cave they saw all the bags laid ready, and could not imagine how anyone had got in without knowing their secret. Khi vào trong hang, chúng thấy rất nhiều túi vàng đã được xếp sẵn và không thể hiểu nổi làm sao có kẻ đột nhập được mà không biết bí mật của chúng.
They cut Cassim’s body into four quarters, and nailed them up inside the cave, in order to frighten anyone who should venture in, and went away in search of more treasure. Chúng phanh thây Cassim ra làm bốn mảnh rồi treo lên ngay vách đá bên trong hang, cốt để dọa cho kẻ nào liều lĩnh dám bén mảng đến đây phải khiếp sợ. Xong xuôi, chúng lại lên đường đi tìm thêm của cải.
As night drew on Cassim’s wife grew very uneasy, and ran to her brother-in-law, and told him where her husband had gone. Khi đêm xuống, vợ Cassim lòng như lửa đốt, bèn chạy sang nhà em chồng, kể cho chàng biết chồng mình đã đi đâu.
Ali Baba did his best to comfort her, and set out to the forest in search of Cassim. Ali Baba cố gắng hết sức để an ủi chị dâu rồi lên đường vào rừng tìm Cassim.
The first thing he saw on entering the cave was his dead brother. Điều đầu tiên chàng nhìn thấy khi bước vào hang chính là xác của người anh trai xấu số.
Full of horror, he put the body on one of his asses, and bags of gold on the other two, and, covering all with some fagots, returned home. Rụng rời vì kinh hãi, chàng đặt thi thể anh lên một con lừa, chất các túi vàng lên hai con còn lại, rồi lấy củi phủ lên trên để che giấu và trở về nhà.
He drove the two asses laden with gold into his own yard, and led the other to Cassim’s house. Chàng lùa hai con lừa chở vàng về sân nhà mình, rồi dắt con lừa còn lại đến nhà Cassim.
The door was opened by the slave Morgiana, whom he knew to be both brave and cunning. Cánh cửa được mở bởi nữ tỳ Morgiana, một người mà chàng biết rõ vừa mưu trí lại vừa can đảm.
Unloading the ass, he said to her: “This is the body of your master, who has been murdered, but whom we must bury as though he had died in his bed. I will speak with you again, but now tell your mistress I am come.” Dỡ con lừa xuống, chàng nói với cô: “Đây là thi thể của chủ cô. Ông ấy đã bị sát hại, nhưng chúng ta phải lo chôn cất làm sao cho mọi người tưởng ông ấy qua đời tự nhiên trên giường bệnh. Ta sẽ nói chuyện với cô sau, giờ hãy báo cho chủ mẫu của cô là ta đã đến.”
The wife of Cassim, on learning the fate of her husband, broke out into cries and tears, but Ali Baba offered to take her to live with him and his wife if she would promise to keep his counsel and leave everything to Morgiana; whereupon she agreed, and dried her eyes. Vợ Cassim, khi biết tin dữ về chồng, đã khóc lóc thảm thiết, nhưng Ali Baba đề nghị đón nàng về sống cùng vợ chồng chàng nếu nàng hứa sẽ giữ kín mọi chuyện và giao phó mọi việc cho Morgiana. Nghe vậy, nàng đồng ý và gạt nước mắt.
Morgiana, meanwhile, sought an apothecary and asked him for some lozenges. Trong khi đó, Morgiana tìm đến một hiệu thuốc và hỏi mua vài viên thuốc.
“My poor master,” she said, “can neither eat nor speak, and no one knows what his distemper is.” “Chủ nhân tội nghiệp của tôi,” cô nói, “không ăn không nói được gì cả, chẳng ai biết ông mắc phải chứng bệnh gì.”
She carried home the lozenges and returned next day weeping, and asked for an essence only given to those just about to die. Cô mang thuốc về nhà, hôm sau lại quay lại hiệu thuốc, mắt đẫm lệ, hỏi mua một loại thuốc đặc hiệu chỉ dành cho người hấp hối.
Thus, in the evening, no one was surprised to hear the wretched shrieks and cries of Cassim’s wife and Morgiana, telling everyone that Cassim was dead. Cứ như vậy, đến tối, không ai còn ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng khóc than ai oán của vợ CassimMorgiana, báo cho mọi người biết Cassim đã qua đời.
The day after Morgiana went to an old cobbler near the gates of the town who opened his stall early, put a piece of gold in his hand, and bade him follow her with his needle and thread. Ngày hôm sau, Morgiana tìm đến một ông lão thợ giày gần cổng thành, người thường mở sạp từ rất sớm. Cô đặt một đồng vàng vào tay ông rồi bảo ông mang kim chỉ đi theo mình.
Having bound his eyes with a handkerchief, she took him to the room where the body lay, pulled off the bandage, and bade him sew the quarters together, after which she covered his eyes again and led him home. Sau khi lấy khăn bịt mắt ông lão lại, cô dẫn ông đến căn phòng đặt thi thể. Cô tháo khăn bịt mắt ra và bảo ông khâu bốn mảnh thi thể lại với nhau. Xong việc, cô lại bịt mắt ông và dẫn ông về nhà.
Then they buried Cassim, and Morgiana his slave followed him to the grave, weeping and tearing her hair, while Cassim’s wife stayed at home uttering lamentable cries. Sau đó, họ chôn cất Cassim. Nữ tỳ Morgiana của ông đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc, vò đầu bứt tai, trong khi vợ Cassim ở nhà than khóc thảm thiết.
Next day she went to live with Ali Baba, who gave Cassim’s shop to his eldest son. Ngày hôm sau, bà dọn đến ở cùng Ali Baba, người đã giao lại cửa hàng của Cassim cho con trai cả của mình.
The Forty Thieves, on their return to the cave, were much astonished to find Cassim’s body gone and some of their money-bags. Bốn mươi tên cướp, khi trở lại hang, đã vô cùng sửng sốt khi thấy thi thể của Cassim đã biến mất cùng một vài túi tiền.
“We are certainly discovered,” said the Captain, “and shall be undone if we cannot find out who it is that knows our secret. Two men must have known it; we have killed one, we must now find the other.” “Chúng ta chắc chắn đã bị phát hiện rồi,” tên thủ lĩnh nói, “và sẽ gặp đại họa nếu không tìm ra kẻ biết bí mật của chúng ta. Chắc chắn có hai kẻ biết chuyện. Chúng ta đã giết một, giờ phải tìm cho ra kẻ còn lại.”
“To this end one of you who is bold and artful must go into the city dressed as a traveler, and discover whom we have killed, and whether men talk of the strange manner of his death. If the messenger fails he must lose his life, lest we be betrayed.” “Để làm việc này, một tên trong các ngươi, kẻ nào gan dạ và lanh lẹ nhất, phải cải trang thành một lữ khách vào thành để tìm xem chúng ta đã giết ai và liệu người ta có bàn tán gì về cái chết kỳ lạ của hắn không. Nếu sứ giả thất bại, hắn phải mất mạng, để bí mật của chúng ta không bị lộ.”
One of the thieves started up and offered to do this, and after the rest had highly commended him for his bravery he disguised himself, and happened to enter the town at daybreak, just by Baba Mustapha’s stall. Một tên cướp lập tức đứng dậy tình nguyện đi. Sau khi được cả bọn ca ngợi lòng dũng cảm, hắn cải trang rồi lên đường. Hắn vào thành đúng lúc rạng đông và tình cờ đi ngang qua sạp của lão thợ giày Baba Mustapha.
The thief bade him good-day, saying: “Honest man, how can you possibly see to stitch at your age?” Tên cướp chào hỏi: “Chào bác, bác thật là, tuổi cao thế này mà mắt bác tinh tường khâu vá được hay vậy?”
“Old as I am,” replied the cobbler, “I have very good eyes, and will you believe me when I tell you that I sewed a dead body together in a place where I had less light than I have now.” “Già thì già thật,” ông lão thợ giày đáp, “nhưng mắt tôi còn tinh lắm. Cậu có tin không, tôi vừa mới khâu một cái xác ở một nơi còn tối hơn ở đây nhiều.”
The robber was overjoyed at his good fortune, and, giving him a piece of gold, desired to be shown the house where he stitched up the dead body. Tên cướp mừng như bắt được vàng, hắn dúi cho ông lão một đồng vàng và ngỏ ý muốn được chỉ đến ngôi nhà nơi ông đã khâu cái xác.
At first Mustapha refused, saying that he had been blindfolded; but when the robber gave him another piece of gold he began to think he might remember the turnings if blindfolded as before. Ban đầu, lão Mustapha từ chối, nói rằng lão đã bị bịt mắt. Nhưng khi tên cướp đưa thêm một đồng vàng nữa, lão bắt đầu nghĩ rằng nếu được bịt mắt lại như trước, lão có thể nhớ được các ngã rẽ.
This means succeeded; the robber partly led him, and was partly guided by him, right in front of Cassim’s house, the door of which the robber marked with a piece of chalk. Quả nhiên, cách này đã thành công; tên cướp nửa dắt nửa được ông lão chỉ đường, đi thẳng đến trước nhà Cassim. Tên cướp bèn lấy một viên phấn trắng đánh dấu lên cửa.
Then, well pleased, he bade farewell to Baba Mustapha and returned to the forest. Vô cùng đắc ý, hắn từ biệt Baba Mustapha rồi quay về rừng.
By and by Morgiana, going out, saw the mark the robber had made, quickly guessed that some mischief was brewing, and fetching a piece of chalk marked two or three doors on each side, without saying anything to her master or mistress. Một lát sau, Morgiana đi ra ngoài, trông thấy dấu phấn mà tên cướp đã vạch, nàng liền đoán ngay có chuyện chẳng lành. Nhanh trí, nàng cũng lấy một viên phấn, đi đánh dấu lên hai ba cánh cửa ở mỗi bên, rồi lặng lẽ đi vào nhà như không có chuyện gì.
The thief, meantime, told his comrades of his discovery. Trong lúc đó, tên cướp hớn hở về báo tin cho đồng bọn.
The Captain thanked him, and bade him show him the house he had marked. But when they came to it they saw that five or six of the houses were chalked in the same manner. Tên thủ lĩnh cảm ơn hắn và bảo hắn dẫn đường đến ngôi nhà đã đánh dấu. Nhưng khi chúng đến nơi, chúng thấy năm sáu ngôi nhà đều được đánh dấu y hệt nhau.
The guide was so confounded that he knew not what answer to make, and when they returned he was at once beheaded for having failed. Tên dẫn đường bối rối đến mức không biết phải trả lời ra sao. Khi trở về, hắn lập tức bị chém đầu vì đã thất bại.
Another robber was dispatched, and, having won over Baba Mustapha, marked the house in red chalk; but Morgiana being again too clever for them, the second messenger was put to death also. Một tên cướp khác được cử đi. Hắn cũng thuyết phục được Baba Mustapha và đánh dấu ngôi nhà bằng phấn đỏ. Nhưng Morgiana một lần nữa lại cao tay hơn, và sứ giả thứ hai cũng phải nhận lấy cái chết.
The Captain now resolved to go himself, but, wiser than the others, he did not mark the house, but looked at it so closely that he could not fail to remember it. Bấy giờ, chính tên thủ lĩnh quyết định tự mình đi. Khôn ngoan hơn những kẻ khác, hắn không đánh dấu ngôi nhà, mà nhìn kỹ đến mức không thể nào quên được.
He returned, and ordered his men to go into the neighboring villages and buy nineteen mules, and thirty-eight leather jars, all empty except one, which was full of oil. Hắn trở về, ra lệnh cho thuộc hạ đi đến các làng lân cận mua mười chín con la và ba mươi tám cái da, tất cả đều rỗng, chỉ trừ một vò chứa đầy dầu.
The Captain put one of his men, fully armed, into each, rubbing the outside of the jars with oil from the full vessel. Tên thủ lĩnh nhét một tên cướp được trang bị vũ khí đầy đủ vào mỗi chiếc , rồi lấy dầu từ vò đầy xoa lên bên ngoài tất cả các vò khác.
Then the nineteen mules were loaded with thirty-seven robbers in jars, and the jar of oil, and reached the town by dusk. Sau đó, mười chín con la được chất lên ba mươi bảy tên cướp trong , cùng một vò dầu, và đến được thị trấn vào lúc chạng vạng.
The Captain stopped his mules in front of Ali Baba’s house, and said to Ali Baba, who was sitting outside for coolness: “I have brought some oil from a distance to sell at to-morrow’s market, but it is now so late that I know not where to pass the night, unless you will do me the favor to take me in.” Tên thủ lĩnh dừng những con la của mình trước nhà Ali Baba và nói với chàng, lúc đó đang ngồi hóng mát bên ngoài: “Thưa ông, tôi mang dầu từ nơi xa đến đây để bán vào phiên chợ ngày mai, nhưng giờ đã muộn quá rồi, tôi không biết phải nghỉ đêm ở đâu. Không biết ông có thể làm phúc cho tôi tá túc một đêm được không ạ?”
Though Ali Baba had seen the Captain of the robbers in the forest, he did not recognize him in the disguise of an oil merchant. Dù đã từng thấy tên thủ lĩnh bọn cướp trong rừng, Ali Baba không hề nhận ra hắn trong bộ dạng của một gã buôn dầu.
He bade him welcome, opened his gates for the mules to enter, and went to Morgiana to bid her prepare a bed and supper for his guest. Chàng niềm nở mời hắn vào, mở cổng cho đàn la vào sân, rồi đến bảo Morgiana chuẩn bị giường và bữa tối cho khách.
He brought the stranger into his hall, and after they had supped went again to speak to Morgiana in the kitchen, while the Captain went into the yard under pretense of seeing after his mules, but really to tell his men what to do. Chàng mời người lạ mặt vào sảnh chính, và sau khi họ dùng bữa xong, chàng lại vào bếp nói chuyện với Morgiana. Trong khi đó, tên thủ lĩnh ra sân, giả vờ xem xét bầy la của mình, nhưng thực chất là để ra lệnh cho thuộc hạ.
Beginning at the first jar and ending at the last, he said to each man: “As soon as I throw some stones from the window of the chamber where I lie, cut the jars open with your knives and come out, and I will be with you in a trice.” Bắt đầu từ đầu tiên đến vò cuối cùng, hắn thì thầm với từng tên: “Ngay khi ta ném vài viên sỏi từ cửa sổ phòng ta ngủ xuống, các ngươi hãy dùng dao rạch chui ra. Ta sẽ có mặt ngay lập tức.”
He returned to the house, and Morgiana led him to his chamber. Hắn quay trở lại nhà và được Morgiana dẫn đến phòng nghỉ.
She then told Abdallah, her fellow-slave, to set on the pot to make some broth for her master, who had gone to bed. Sau đó, cô bảo Abdallah, một nô lệ khác, bắc nồi lên bếp để nấu chút canh cho chủ nhân, người đã đi ngủ.
Meanwhile her lamp went out, and she had no more oil in the house. Giữa lúc đó, đèn của cô phụt tắt, mà trong nhà lại hết dầu.
“Do not be uneasy,” said Abdallah; “go into the yard and take some out of one of those jars.” “Đừng lo,” Abdallah nói, “cứ ra sân lấy một ít từ một trong mấy cái kia kìa.”
Morgiana thanked him for his advice, took the oil pot, and went into the yard. Morgiana cảm ơn lời khuyên của anh, cầm bình dầu và đi ra sân.
When she came to the first jar the robber inside said softly: “Is it time?” Khi cô đến gần chiếc đầu tiên, tên cướp bên trong khẽ hỏi: “Đến lúc chưa?”
Any other slave but Morgiana, on finding a man in the jar instead of the oil she wanted, would have screamed and made a noise; but she, knowing the danger her master was in, bethought herself of a plan, and answered quietly: “Not yet, but presently.” Nếu là một nô tỳ khác, khi phát hiện một gã đàn ông trong thay vì dầu, hẳn đã la hét ầm ĩ. Nhưng Morgiana, biết rõ chủ nhân đang gặp nguy hiểm, đã nhanh trí nghĩ ra một kế. Cô bình tĩnh đáp: “Chưa đâu, nhưng sắp rồi.”
She went to all the jars, giving the same answer, till she came to the jar of oil. Cô đi đến tất cả các khác, đưa ra cùng một câu trả lời, cho đến khi đến chiếc chứa dầu.
She now saw that her master, thinking to entertain an oil merchant, had let thirty-eight robbers into his house. Lúc này cô đã hiểu ra rằng chủ nhân mình, tưởng rằng đang tiếp đãi một gã buôn dầu, thực chất đã cho ba mươi tám tên cướp vào nhà.
She filled her oil pot, went back to the kitchen, and, having lit her lamp, went again to the oil jar and filled a large kettle full of oil. Cô đổ đầy bình dầu của mình, quay trở lại bếp, thắp đèn lên, rồi lại ra chỗ vò dầu và đổ đầy một cái vạc lớn.
When it boiled she went and poured enough oil into every jar to stifle and kill the robber inside. Khi dầu sôi sùng sục, cô đi đến từng chiếc và đổ đủ dầu sôi vào để giết chết tên cướp bên trong.
When this brave deed was done she went back to the kitchen, put out the fire and the lamp, and waited to see what would happen. Sau khi hoàn thành hành động dũng cảm đó, cô quay trở lại bếp, dập tắt lửa, thổi đèn và chờ xem điều gì sẽ xảy ra.
In a quarter of an hour the Captain of the robbers awoke, got up, and opened the window. Một khắc sau, tên thủ lĩnh bọn cướp tỉnh dậy, đứng lên và mở cửa sổ.
As all seemed quiet, he threw down some little pebbles which hit the jars. Thấy mọi thứ im ắng, hắn ném xuống vài viên sỏi nhỏ trúng vào các .
He listened, and as none of his men seemed to stir he grew uneasy, and went down into the yard. Hắn lắng nghe, nhưng không thấy một tên thuộc hạ nào nhúc nhích. Lòng hắn bắt đầu bất an. Hắn lẻn xuống sân.
On going to the first jar and saying, “Are you asleep?” he smelt the hot boiled oil, and knew at once that his plot to murder Ali Baba and his household had been discovered. Đến gần chiếc đầu tiên và hỏi: “Ngươi ngủ rồi à?” Hắn ngửi thấy mùi dầu nóng và biết ngay kế hoạch ám sát Ali Baba và cả gia đình đã bị phát giác.
He found all the gang was dead, and, missing the oil out of the last jar, became aware of the manner of their death. Hắn nhận ra cả băng đảng đã chết, và khi thấy vò dầu cuối cùng đã cạn, hắn hiểu ra cách chúng bị tiêu diệt.
He then forced the lock of a door leading into a garden, and climbing over several walls made his escape. Hắn bèn phá khóa một cánh cửa dẫn ra vườn, trèo qua vài bức tường rồi tẩu thoát.
Morgiana heard and saw all this, and, rejoicing at her success, went to bed and fell asleep. Morgiana đã nghe và thấy tất cả, lòng vui mừng vì thành công, cô trở về giường và chìm vào giấc ngủ.
At daybreak Ali Baba arose, and, seeing the oil jars still there, asked why the merchant had not gone with his mules. Rạng sáng, Ali Baba thức dậy và thấy những vò dầu vẫn còn đó. Chàng hỏi tại sao gã buôn dầu vẫn chưa dắt bầy la đi.
Morgiana bade him look in the first jar and see if there was any oil. Morgiana bảo chàng hãy nhìn vào chiếc đầu tiên xem có dầu không.
Seeing a man, he started back in terror. Thấy một người đàn ông, chàng giật mình lùi lại kinh hãi.
“Have no fear,” said Morgiana; “the man cannot harm you: he is dead.” “Đừng sợ,” Morgiana nói, “hắn không làm hại được ông đâu, hắn chết rồi.”
Ali Baba, when he had recovered somewhat from his astonishment, asked what had become of the merchant. Khi Ali Baba đã phần nào trấn tĩnh lại sau cơn kinh ngạc, chàng hỏi gã buôn dầu đâu.
“Merchant!” said she, “he is no more a merchant than I am!” and she told him the whole story, assuring him that it was a plot of the robbers of the forest, of whom only three were left, and that the white and red chalk marks had something to do with it. “Buôn dầu ư!” cô nói, “hắn cũng là lái buôn như tôi thôi!” Rồi cô kể lại toàn bộ câu chuyện, quả quyết rằng đó là âm mưu của băng cướp trong rừng, rằng chúng chỉ còn lại ba tên, và những dấu phấn trắng, phấn đỏ cũng liên quan đến chuyện này.
Ali Baba at once gave Morgiana her freedom, saying that he owed her his life. Ali Baba lập tức trả tự do cho Morgiana, nói rằng cô đã cứu mạng chàng.
They then buried the bodies in Ali Baba’s garden, while the mules were sold in the market by his slaves. Sau đó, họ chôn xác bọn cướp trong vườn nhà Ali Baba, còn bầy la được các nô lệ của chàng đem ra chợ bán.
The Captain returned to his lonely cave, which seemed frightful to him without his lost companions, and firmly resolved to avenge them by killing Ali Baba. Tên thủ lĩnh trở về hang động cô độc của mình. Nơi đây giờ trở nên thật đáng sợ khi thiếu vắng đồng bọn. Hắn quyết tâm báo thù bằng cách giết chết Ali Baba.
He dressed himself carefully, and went into the town, where he took lodgings in an inn. Hắn ăn vận cẩn thận, vào thành và thuê một phòng trọ.
In the course of a great many journeys to the forest he carried away many rich stuffs and much fine linen, and set up a shop opposite that of Ali Baba’s son. Sau nhiều chuyến đi lại khu rừng, hắn mang ra rất nhiều vải vóc quý giá và hàng lụa hảo hạng, rồi mở một cửa hiệu ngay đối diện cửa hiệu của con trai Ali Baba.
He called himself Cogia Hassan, and as he was both civil and well dressed he soon made friends with Ali Baba’s son, and through him with Ali Baba, whom he was continually asking to sup with him. Hắn tự xưng là Cogia Hassan. Vì ăn nói lịch sự và ăn mặc bảnh bao, hắn nhanh chóng kết bạn được với con trai của Ali Baba, và qua đó, làm quen với chính Ali Baba. Hắn liên tục mời Ali Baba đến dùng bữa tối với mình.
Ali Baba, wishing to return his kindness, invited him into his house and received him smiling, thanking him for his kindness to his son. Ali Baba, muốn đáp lại lòng tốt của hắn, đã mời hắn đến nhà mình. Chàng tiếp đón hắn với nụ cười niềm nở, cảm ơn lòng tốt của hắn đối với con trai mình.
When the merchant was about to take his leave Ali Baba stopped him, saying: “Where are you going, sir, in such haste? Will you not stay and sup with me?” Khi gã thương gia định cáo từ, Ali Baba giữ lại, nói: “Thưa ngài, sao ngài lại vội vã ra về thế? Ngài không ở lại dùng bữa tối với tôi sao?”
The merchant refused, saying that he had a reason; and, on Ali Baba’s asking him what that was, he replied: “It is, sir, that I can eat no victuals that have any salt in them.” Gã thương gia từ chối, nói rằng hắn có lý do riêng. Khi Ali Baba hỏi lý do là gì, hắn đáp: “Thưa ông, đó là vì tôi không thể ăn bất kỳ món nào có muối.”
“If that is all,” said Ali Baba, “let me tell you that there shall be no salt in either the meat or the bread that we eat to-night.” “Nếu chỉ có vậy,” Ali Baba nói, “thì để tôi nói cho ngài hay, cả thịt và bánh mì tối nay chúng ta ăn sẽ không có chút muối nào.”
He went to give this order to Morgiana, who was much surprised. “Who is this man,” she said, “who eats no salt with his meat?” Chàng vào ra lệnh cho Morgiana, người đã rất ngạc nhiên. “Ai mà lại không ăn muối với thịt vậy nhỉ?” cô nói.
“He is an honest man, Morgiana,” returned her master; “therefore do as I bid you.” “Anh ta là một người tử tế, Morgiana ạ,” chủ nhân đáp, “cô cứ làm theo lời ta dặn.”
But she could not withstand a desire to see this strange man, so she helped Abdallah to carry up the dishes, and saw in a moment that Cogia Hassan was the robber Captain, and carried a dagger under his garment. Nhưng cô không thể nén nổi sự tò mò muốn nhìn mặt người đàn ông kỳ lạ này, nên cô đã giúp Abdallah bưng các món ăn lên. Ngay lập tức, cô nhận ra Cogia Hassan chính là tên thủ lĩnh bọn cướp, và hắn đang giấu một con dao găm dưới lớp áo.
“I am not surprised,” she said to herself, “that this wicked man, who intends to kill my master, will eat no salt with him; but I will hinder his plans.” “Thảo nào,” cô tự nhủ, “tên gian ác này định giết chủ nhân của ta nên không muốn ăn chung muối với ông. Nhưng ta sẽ phá kế hoạch của hắn.”
She sent up the supper by Abdallah, while she made ready for one of the boldest acts that could be thought on. Cô để Abdallah dọn bữa tối lên, trong khi mình chuẩn bị cho một trong những hành động táo bạo nhất có thể tưởng tượng được.
When the dessert had been served, Cogia Hassan was left alone with Ali Baba and his son, whom he thought to make drunk and then to murder them. Khi món tráng miệng được dọn ra, Cogia Hassan chỉ còn lại một mình với Ali Baba và con trai ông, những người mà hắn định chuốc cho say rồi ra tay sát hại.
Morgiana, meanwhile, put on a head-dress like a dancing-girl’s, and clasped a girdle round her waist, from which hung a dagger with a silver hilt, and said to Abdallah: “Take your tabor, and let us go and divert our master and his guest.” Trong khi đó, Morgiana đội một chiếc khăn đội đầu như của vũ nữ, đeo một chiếc đai quanh eo có giắt một con dao găm chuôi bạc. Cô nói với Abdallah: “Hãy lấy trống của anh đi, chúng ta hãy ra mua vui cho chủ nhân và vị khách của ông.”
Abdallah took his tabor and played before Morgiana until they came to the door, where Abdallah stopped playing and Morgiana made a low courtesy. Abdallah cầm trống và gõ nhịp đi trước Morgiana cho đến khi họ tới cửa. Abdallah ngừng chơi nhạc và Morgiana cúi chào thật thấp.
“Come in, Morgiana,” said Ali Baba, “and let Cogia Hassan see what you can do”; and, turning to Cogia Hassan, he said: “She’s my slave and my housekeeper.” “Vào đi, Morgiana,” Ali Baba nói, “hãy để ngài Cogia Hassan xem tài nghệ của cháu”; rồi quay sang Cogia Hassan, ông nói: “Cô ấy là nữ tỳ và cũng là quản gia của tôi.”
Cogia Hassan was by no means pleased, for he feared that his chance of killing Ali Baba was gone for the present; but he pretended great eagerness to see Morgiana, and Abdallah began to play and Morgiana to dance. Cogia Hassan không vui chút nào, vì hắn sợ cơ hội giết Ali Baba lần này đã vuột mất. Nhưng hắn vẫn giả vờ háo hức muốn xem Morgiana biểu diễn. Abdallah bắt đầu chơi trống và Morgiana bắt đầu nhảy múa.
After she had performed several dances she drew her dagger and made passes with it, sometimes pointing it at her own breast, sometimes at her master’s, as if it were part of the dance. Sau khi trình diễn vài điệu múa, cô rút con dao găm ra và múa với nó, lúc thì chỉa vào ngực mình, lúc thì chỉa vào ngực chủ nhân, như thể đó là một phần của điệu múa.
Suddenly, out of breath, she snatched the tabor from Abdallah with her left hand, and, holding the dagger in her right hand, held out the tabor to her master. Đột nhiên, sau khi tỏ ra hụt hơi, cô giật lấy chiếc trống từ tay Abdallah bằng tay trái, tay phải vẫn cầm dao găm, rồi chìa chiếc trống ra trước mặt chủ nhân.
Ali Baba and his son put a piece of gold into it, and Cogia Hassan, seeing that she was coming to him, pulled out his purse to make her a present, but while he was putting his hand into it Morgiana plunged the dagger into his heart. Ali Baba và con trai ông mỗi người đặt một đồng vàng vào đó. Cogia Hassan, thấy cô đang tiến về phía mình, liền rút ví ra định tặng cô một món quà. Nhưng trong lúc hắn đang thò tay vào ví, Morgiana đã đâm thẳng con dao găm vào tim hắn.
“Unhappy girl!” cried Ali Baba and his son, “what have you done to ruin us?” “Con bé bất hạnh!” Ali Baba và con trai ông la lên, “Con làm gì thế hả? Con định hại cha con ta à?”
“It was to preserve you, master, not to ruin you,” answered Morgiana. “See here,” opening the false merchant’s garment and showing the dagger; “see what an enemy you have entertained! Remember, he would eat no salt with you, and what more would you have? Look at him! he is both the false oil merchant and the Captain of the Forty Thieves.” “Con làm vậy là để bảo vệ chủ nhân, chứ không phải để hại ông,” Morgiana đáp. “Nhìn đây,” cô vạch áo của gã thương gia giả ra và chỉ vào con dao găm, “hãy xem ông đã tiếp đãi một kẻ thù như thế nào! Hãy nhớ rằng, hắn không chịu ăn muối cùng ông, ông còn cần bằng chứng gì nữa? Hãy nhìn kỹ hắn đi! Hắn chính là gã buôn dầu giả mạo và cũng là thủ lĩnh của Bốn Mươi Tên Cướp.”
Ali Baba was so grateful to Morgiana for thus saving his life that he offered her to his son in marriage, who readily consented, and a few days after the wedding was celebrated with greatest splendor. Ali Baba vô cùng biết ơn Morgiana đã cứu mạng mình đến nỗi ông đã gả cô cho con trai mình. Chàng trai cũng vui vẻ đồng ý, và vài ngày sau, đám cưới được tổ chức linh đình và trang trọng nhất.
At the end of a year Ali Baba, hearing nothing of the two remaining robbers, judged they were dead, and set out to the cave. Sau một năm, Ali Baba không nghe tin tức gì về hai tên cướp còn lại, cho rằng chúng đã chết, bèn lên đường đến hang động.
The door opened on his saying: “Open Sesame!” Cánh cửa mở ra khi ông hô: “Vừng ơi, mở ra!”
He went in, and saw that nobody had been there since the Captain left it. Ông bước vào và thấy rằng không có ai ở đó kể từ khi tên thủ lĩnh bỏ đi.
He brought away as much gold as he could carry, and returned to town. Ông mang về nhiều vàng nhất có thể rồi quay trở lại thị trấn.
He told his son the secret of the cave, which his son handed down in his turn, so the children and grandchildren of Ali Baba were rich to the end of their lives. Ông kể cho con trai mình bí mật về hang động, rồi người con trai lại truyền lại cho đời sau. Cứ thế, con cháu của Ali Baba sống trong giàu sang cho đến hết đời.
[1] Arabian Nights: Trích từ truyện “Nghìn lẻ một đêm”.

Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.