45 – Người Phụ Nữ Cần Kiệm

FORTY-FIVE: The Frugal Woman BỐN MƯƠI LĂM: Người Phụ Nữ Cần Kiệm
If the yak is blind he will tumble off the road. Nếu bò Tây Tạng mà , nó sẽ lăn ngay xuống vực.
Tibetan Proverb. Tục ngữ Tây Tạng.
ONCE upon a time, a long, long time ago, in a little mud village, lost somewhere now in the mountains of Tibet, lived a group of people. Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi, tại một ngôi làng nhỏ đắp bằng đất bùn, nay đã thất lạc đâu đó giữa những dãy núi điệp trùng của Tây Tạng, có một nhóm người sinh sống.
A tiny stream of water from underground, perhaps from a magic horse’s head or a magic cow’s head, flowed and never went dry. Ở đó có một dòng suối nhỏ chảy ra từ lòng đất, có lẽ bắt nguồn từ đầu một con ngựa thần hay một con bò thần nào đó, nước cứ tuôn chảy mãi chẳng bao giờ cạn.
This stream gave them all the water they needed. Dòng suối ấy ban tặng cho dân làng tất cả lượng nước mà họ cần dùng.
Ruling over this village was a chief whom they called the head-man of the village. Cai quản ngôi làng này là một vị thủ lĩnh, người được dân chúng tôn xưng là Tộc trưởng.
He settled all their small quarrels, punished offenders and his word was law up to the matter of life and death. Ông là người đứng ra hòa giải mọi tranh chấp nhỏ to, trừng phạt kẻ phạm tội, và lời nói của ông là luật pháp, nắm trong tay cả quyền sinh sát.
He had a very handsome son, who had no wife. Ông có một người con trai rất tuấn tú nhưng chưa lập gia đình.
The middleman had made a marriage, all sides agreeing, between this son and the daughter of a prince who ruled over a slightly bigger territory. Thông qua người mai mối, hai bên gia đình đã thuận tình định ước cho chàng trai kết duyên cùng con gái của một vị hoàng tử cai trị vùng lãnh thổ rộng lớn hơn một chút ở lân cận.
This prince, with a hundred men and their musical instruments, dancers and singers, gifts for the family, milk money for the mother and wedding gifts of jewels to the bride, went down to claim his wife. Vị hoàng tử nọ, cùng với cả trăm tùy tùng mang theo nhạc cụ, vũ công và ca sĩ, mang theo sính lễ cho gia đình, tiền sữa cho người mẹ và trang sức châu báu làm của hồi môn cho cô dâu, đã rầm rộ kéo đến để làm lễ rước dâu.
The head-man feasted and kept them exchanging gifts for about three days, then they started to return, taking the bride with them. Vị Tộc trưởng mở tiệc chiêu đãi linh đình và hai bên trao đổi quà tặng suốt ba ngày ròng, sau đó họ bắt đầu lên đường trở về, đưa cô dâu theo cùng.
The mother followed her to the door, as she was leaving, and said, “Do not grieve because you are leaving home.” Người mẹ tiễn con gái ra tận cửa. Khi nàng sắp rời đi, bà dặn: “Đừng quá đau buồn vì phải xa nhà, con gái ạ.”
“In one month you can come back and visit us.” “Chỉ một tháng nữa thôi con có thể quay lại thăm cha mẹ.”
Her father and big brother and little sister all said, “Don’t be sorry, for now you are the wife of this big prince, and will have plenty to eat and nice clothes to wear,” Cha, anh trai và cả em gái nhỏ của nàng cũng nói: “Đừng buồn nữa, vì giờ đây con đã là vợ của một vị hoàng tử quyền quý, con sẽ được ăn ngon mặc đẹp.”
and her mother said, “You must keep as clean as if you were looking in a mirror all the time.” Mẹ nàng lại dặn thêm: “Con phải luôn giữ mình sạch sẽ như thể lúc nào cũng đang soi gương vậy.”
“You must be good to your own servants and kind to your husband’s parents, and also be charitable and give to the poor.” “Con phải đối đãi tốt với kẻ hầu người hạ của mình, hiếu thuận với cha mẹ chồng, và phải có lòng từ bi, bố thí cho người nghèo khó.”
“You mustn’t say bad things, as that’s just as silly as a billy-goat trying to butt down a stone wall with his horns.” “Con không được nói những lời xấu xa, vì làm thế cũng ngốc nghếch chẳng khác nào con dê đực cố dùng sừng húc đổ bức tường đá vậy.”
So they tried to comfort her as she went away weeping, and told her to be happy and contented. Họ cố gắng an ủi nàng khi nàng bước đi trong nước mắt, khuyên nhủ nàng hãy sống vui vẻ và hài lòng.
Now the greater part of the caravan had gone on before and only she and a few of the maid servants were left behind. Lúc bấy giờ, phần lớn đoàn lữ hành đã đi trước, chỉ còn lại nàng và vài người nữ tỳ đi sau.
Those in advance went on and on and when night came, they stopped in a fine valley and prepared to camp for the night. Những người đi trước cứ đi mãi, đi mãi, và khi màn đêm buông xuống, họ dừng chân tại một thung lũng tuyệt đẹp và dựng trại nghỉ qua đêm.
By and by when she came up to them she said, “This won’t do.” Một lúc sau, khi nàng đuổi kịp họ, nàng quan sát và nói: “Chỗ này không ổn đâu.”
“This is a bad place, for if it should rain everything, including ourselves, would be washed away.” “Đây là một nơi nguy hiểm, vì nếu trời đổ mưa, mọi thứ, kể cả chúng ta, sẽ bị cuốn trôi hết.”
She went on a little bit farther, found another spot and sent back word to them to come up there where she had stopped. Nàng đi thêm một đoạn nữa, tìm được một nơi khác cao ráo hơn và cho người nhắn lại với đoàn tùy tùng phía sau hãy chuyển lên chỗ nàng vừa dừng chân.
As the loads were already off the yak and all was prepared for the night they were very angry because all the loads had to be tied on again, the ponies gathered in from where they were grazing, and only to go such a little distance! Vì hành lý đã được dỡ xuống khỏi lưng bò Tây Tạng và mọi thứ đã sẵn sàng cho đêm nghỉ, đám tùy tùng vô cùng tức giận. Giờ đây họ phải buộc lại hành lý, lùa đám ngựa đang gặm cỏ quay về, chỉ để di chuyển một quãng đường ngắn tí tẹo!
They said to one another, “This woman is unspeakable.” Họ thì thầm với nhau: “Người đàn bà này thật quá quắt.”
“She comes from a very common home, but now she is the wife of this prince she thinks she can make us do as she likes.” “Cô ta xuất thân từ một gia đình thường dân, nhưng giờ đã là vợ hoàng tử nên cô ta nghĩ mình muốn sai bảo chúng ta thế nào cũng được.”
So grumbling a great deal, they unloaded and made camp again for the night. Vừa càu nhàu không ngớt, họ vừa dỡ đồ và dựng trại lại một lần nữa.
But sure enough that night a big rain came and washed everything out of the valley where they had first stopped. Nhưng quả nhiên, ngay đêm hôm ấy, một trận mưa lớn trút xuống và nước lũ đã cuốn phăng mọi thứ ở thung lũng nơi họ định hạ trại ban đầu.
When they saw that they said, “If we had been there everything would have been lost and we would have been dead.” Khi chứng kiến cảnh tượng đó, họ bàng hoàng nói: “Nếu chúng ta còn ở đó thì mọi thứ đã mất sạch và chúng ta cũng đã bỏ mạng rồi.”
“She is a prophetess and knows all things.” “Nàng ấy đúng là một nhà tiên tri, chuyện gì cũng biết.”
“We owe our lives to her.” “Chúng ta nợ nàng mạng sống này.”
So they journeyed on and came to her husband’s home, where they feasted again for three days. Thế là họ tiếp tục hành trình và về đến dinh thự của chồng nàng, nơi tiệc tùng lại được mở ra suốt ba ngày nữa.
Now it was time for the servants her father had sent with her to return. Đã đến lúc những người hầu mà cha nàng phái đi theo phải quay về.
She gave them all gifts, told them good-by and sent them back to her father’s house. Nàng tặng quà cho tất cả bọn họ, nói lời tạm biệt và gửi họ trở về nhà cha mẹ đẻ.
Now some of her husband’s servants had heard her mother tell her she was to keep as clean as if she were looking in a mirror all the time. Tuy nhiên, một số người hầu nhà chồng đã nghe thấy lời mẹ nàng dặn dò rằng nàng phải giữ mình sạch sẽ như thể lúc nào cũng đang soi gương.
So they went to the prince and asked him what it meant, that they didn’t understand that saying at all. Họ lấy làm lạ, bèn đến hỏi hoàng tử xem điều đó có nghĩa là gì, vì họ chẳng hiểu câu nói ấy chút nào.
When she got up in the morning, she swept the house and combed her hair and saw that every-body had food before she would eat anything. Họ thấy mỗi sáng thức dậy, nàng đều quét dọn nhà cửa, chải chuốt tóc tai gọn gàng và lo cho tất cả mọi người ăn uống no đủ rồi mới chịu ngồi vào bàn ăn.
One day her husband said to her, “What did your mother mean by that saying?” Một ngày nọ, chồng nàng hỏi: “Lời mẹ nàng dặn câu ấy có ý nghĩa gì vậy?”
She answered, “My mother’s meaning was this: that I wasn’t to be greedy and eat good things all the time, but if I waited on others I’d be hungry and things would taste good to me.” Nàng đáp: “Ý của mẹ thiếp là thế này: Thiếp không được tham lam mà cứ ăn những món ngon mọi lúc. Nếu thiếp chịu khó phục vụ người khác trước, thiếp sẽ thấy đói, và khi đói thì ăn món gì cũng thấy ngon.”
“And looking in the looking glass meant I was to keep myself clean and the house clean so I’d never be ashamed of it.” “Còn việc soi gương có nghĩa là thiếp phải giữ cho bản thân sạch sẽ và nhà cửa tinh tươm, để không bao giờ phải cảm thấy hổ thẹn khi nhìn lại chính mình.”
One day a big crane coming from near the sea was carrying a few heads of rice for his own food; as he flew over the palace, he dropped a few of the grains, which the servants gathered up and took to the mistress of the house. Một ngày kia, có một con sếu lớn bay từ vùng biển về, mang theo vài bông lúa làm thức ăn cho chính nó; khi bay ngang qua cung điện, nó vô tình đánh rơi vài hạt lúa, đám gia nhân nhặt được và mang đến cho bà chủ.
She said to them, “We must plant a few of these seeds and be careful with them, for they make fine medicine for fevers.” Nàng bảo họ: “Chúng ta phải gieo trồng vài hạt giống này và chăm sóc chúng thật cẩn thận, vì chúng là phương thuốc quý để chữa các chứng sốt.”
They divided the grains among the different families, who took them home and planted them. Họ chia những hạt lúa cho các gia đình khác nhau, ai nấy đều mang về và gieo trồng.
After a while the king’s wife took sick with the fever and he called all his chief head-men of the surrounding villages and all the lamas, who told him that if she didn’t have some rice from near the sea she would die. Ít lâu sau, vợ của nhà vua (Hoàng hậu) lâm bệnh sốt nặng. Nhà vua triệu tập tất cả các Tộc trưởng của những làng quanh vùng và cả các vị Lạt ma đến. Các Lạt ma phán rằng nếu Hoàng hậu không ăn được loại gạo từ vùng gần biển thì bà sẽ không qua khỏi.
Then he sent out to all the people he knew, asking if they had any rice, but none of them had a grain. Nhà vua cho người đi hỏi khắp nơi xem ai có loại gạo ấy không, nhưng chẳng ai có lấy một hạt.
Finally he sent to this woman, the wife of the prince, and asked if she had any rice, and she said, “Of course I have.” Cuối cùng, nhà vua cho người đến hỏi người phụ nữ ấy, vợ của vị hoàng tử, xem nàng có gạo không. Nàng đáp: “Tất nhiên là tôi có.”
“Not only for her but for all the sick people in the country.” “Không chỉ đủ cho Hoàng hậu mà còn đủ cho tất cả những người đang bị bệnh trong vương quốc.”
So she sent some to the king’s wife, who got well, and she gave it also to all the other sick folks, and from this time on the people worshiped her and always went to her in times of trouble. Thế là nàng gửi gạo đến cho vợ vua, và bà ấy đã khỏi bệnh. Nàng cũng mang gạo chia cho tất cả những người ốm đau khác. Kể từ đó về sau, người dân vô cùng tôn sùng nàng và luôn tìm đến nàng mỗi khi gặp chuyện tai ương trắc trở.


ONE DAY A BIG CRANE FLYING OVER THE PALACE, CARRYING A FEW HEADS OF RICE FOR HIS OWN FOOD, DROPPED SOME GRAINS INTO THE PALACE GARDEN.
Một ngày nọ, có con sếu lớn bay ngang qua cung điện, mỏ ngậm vài bông lúa định bụng đem về ăn, chẳng ngờ lại đánh rơi vài hạt xuống vườn ngự uyển.

Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.