Trường hợp của Linda S Probable

Experience Description – Tường thuật kinh nghiệm:

My journey to understand God began in the rugged environment of a Texas childhood that was filled with ‘rattlesnakes, tornadoes, and hellfire-and-damnation.’

Hành trình tìm hiểu về Thượng Đế của tôi bắt đầu trong môi trường khắc nghiệt của tuổi thơ Texas, nơi đầy rẫy “rắn đuôi chuông, lốc xoáy và những lời răn đe về hỏa ngục.”

My early concept of God was molded by the pervasive, extremist religious community of the Bible belt exemplified by the Southern Baptist Religion practiced by my parents. The wrathful, vengeful God, as taught by my religion, instilled in me a deep fear of God, death and the afterlife.

Khái niệm đầu tiên của tôi về Thượng Đế được định hình bởi cộng đồng tôn giáo cực đoan bao trùm khắp vùng Bible Belt, tiêu biểu là Giáo hội Baptist miền Nam mà bố mẹ tôi theo. Một vị thần giận dữ, hay trừng phạt, theo như lời dạy của giáo phái, đã khắc sâu trong tôi nỗi sợ hãi tột cùng về Thượng Đế, cái chết và thế giới bên kia.

My lifelong search for a loving God and release from the paralyzing fear of death culminated in a brief journey to heaven after a debilitating illness.

Tôi kìm kiếm Đấng Thượng Đế nhân từ cả cuộc đời và thoát khỏi nổi ám ảnh sợ chết trong một hành trình đến Thiên Đàng do một căn bệnh suy nhược.

The near-death experience transformed me, showing that God is only a loving God, who does not judge and punish. I came to understand the Oneness of all existence, which permeates my life with peace, and the unfaltering knowledge of God’s goodness.

Kinh nghiệm cận tử đã thay đổi tôi, cho tôi biết rằng Thượng Đế không những nhân từ mà không hề phán xét hay trừng trị bất kỳ ai. Tôi nhận ra rằng Đấng Duy Nhất của vạn vật thẩm thấu vào cuộc sống của tôi với sự bình an và kiến thức bất biến về sự thiện lành của Thượng Đế.

When I finally gave up my will to live, relinquishing my life unto death was sublimely easy after my long illness with an immune system disorder and the loss of everything that had made life worthwhile for me.

Cuối cùng khi tôi quyết định từ bỏ sự sống, tôi bỏ mặc bản thân cho đến chết là cách dễ dàng nhất do căn bệnh rối loạn hệ thống miễn dịch kinh niên và tôi đã đánh mất tất cả mọi thứ mà chúng đáng giá cả cuộc đời đối với tôi.

The night I died, the decision to leave this world hung suspended in an extended moment of absolute quiet. Passionless, I watched my spirit leave my body as a feeling of ‘otherness’ engulfed me.

Đêm định mệnh ấy, quyết định rời khỏi thế gian như treo lơ lửng trong khoảnh khắc tĩnh lặng tuyệt đối. Vô cảm, tôi dõi nhìn linh hồn mình rời khỏi thể xác, cảm giác “tách biệt” bao trùm lấy tôi.

I felt a strange detachment from my physical body and the life I had created. I was no longer connected to a pitiful, suffering mass of flesh. I was not that body and yet, I still existed but in a new state of being.

Tôi cảm thấy một sự tách rời kỳ lạ khỏi thân thể vật chất và cuộc sống mà tôi đã xây dựng. Tôi không còn gắn bó với cái thân xác tội nghiệp, đau khổ đó nữa. Tôi không phải là thân xác ấy, nhưng tôi vẫn tồn tại, ở một trạng thái hoàn toàn mới.

Gone was the wrenching pain that had accompanied my every waking moment. The strain of expanding my lungs to gasp for air had disappeared. Fatigue, which had weighted my life for years, had lifted.

Những cơn đau quằn quại mỗi khi sơm mai thức giấc đã không còn theo tôi. Mỗi lần căng phổi để giành lấy từng chút hơi thở đã biến mất. Những mệt mỏi đè nặng trên cuộc đời tôi đã đc lấy đi.

Depression no longer drained my mind of hope. Sight and sounds did not sear my head with pain, leaving me emotionally bereft. And yet, I still existed. I felt weightless and calm.

Buồn chán không còn hút cạn hy vọng trong tâm trí tôi. Cảnh vật và âm thanh không còn thiêu đốt đầu tôi bằng nỗi đau, khiến tôi kiệt quệ về mặt cảm xúc. Và giờ tôi vẫn tồn tại nhưng nhẹ nhàng và bình thản.

Although I knew I was not in the lifeless body lying on my bed, and that the eyes and brain I had previously identified as mine, were in that inanimate object with which I no longer identified, I was still aware of sight, thoughts, and sensations.

Dù biết mình không còn ở trong thân thể vô hồn nằm trên giường, và đôi mắt, bộ não mà trước đây tôi nhận định là của mình, giờ chỉ còn là vật vô tri vô giác kia, tôi vẫn ý thức được thị giác, suy nghĩ và cảm giác.

I observed my new reality with tranquility. Slowly I looked around and below me, I saw a vast, endless blackness. Like a void or black hole, I was irresistibly drawn toward the darkness. Gradually, I felt myself sinking toward it.

Với sự an tĩnh, tôi quan sát thực tại mới mẻ của mình. Chậm rãi nhìn quanh và phía dưới, tôi thấy một vùng đen rộng lớn, vô tận. Giống như một khoảng trống hay hố đen, tôi bị hút không cưỡng lại về phía bóng tối. Dần dần, tôi cảm thấy mình đang chìm xuống đó.

I thought, without fear or any emotional reaction, ‘Isn’t that strange?’ I had been so afraid I was going to be judged and sent to either heaven or hell. But it appeared I would simply disappear into the dark nothingness.

Tôi thầm nghĩ, không chút sợ hãi hay phản ứng cảm xúc nào, “Thật kỳ lạ nhỉ?” Tôi từng rất sợ mình sẽ bị phán xét và được đưa lên thiên đường hoặc xuống địa ngục. Nhưng có vẻ như tôi sẽ đơn giản là biến mất vào hư vô, chìm vào bóng tối.

As even my new awareness waned, I yielded to the heaviness overtaking me as darkness filled my mind. My vision became obscured as I began to merge into the void of blackness.

Khi ngay cả nhận thức mới mẻ của tôi cũng phai nhạt dần, tôi buông xuôi trước sức nặng đang nhấn chìm mình khi bóng tối phủ kín tâm trí. Tầm nhìn mờ mịt dần khi tôi bắt đầu hòa nhập vào khoảng trống đen đặc.

Offering no resistance, I released my hold on any remaining shred of consciousness and personal identity. At the very moment, I felt the last of me disappearing into nothingness. A powerful, energetic force that swooped beneath and lifted me, carrying me upward, suddenly buffeted me.

Không chút chống cự, tôi buông bỏ những mảnh vỡ còn sót lại của ý thức và bản ngã. Ngay khoảnh khắc ấy, tôi cảm thấy phần cuối cùng của bản thân đang tan biến vào hư vô. Bỗng nhiên, một lực lượng năng lượng mạnh mẽ ùa đến, cuộn xoáy bên dưới và nâng tôi lên, mang tôi bay lên cao, nhưng rồi lại đột ngột xô tôi đi.

Barely conscious, my only awareness was a sensation of rising. I seemed to be traveling upward at an unimaginable speed. A clean sensation of wind rushed over my face and body with tremendous force and yet there was no discomfort.

Trong tình trạng mơ hồ, nhận thức duy nhất của tôi là cảm giác đang bay lên. Dường như tôi đang di chuyển lên trên với tốc độ không thể tưởng tượng. Một luồng gió mát thổi mạnh táp vào mặt và người tôi, nhưng kỳ lạ là không hề khó chịu.

Vast distances seemed to fly by me. The higher I rose, the more my head cleared. I became aware of a deep sense of peace and warmth that permeated my senses. Confused, because the energy that had enveloped me had a definite presence, I tried to see what was happening and who was carrying me; who or what cared so deeply for me? I felt peaceful and loved immeasurably. I knew I was in the arms of a being who cherished me with perfect love and carried me from the dark void into a new reality.

Vùn vụt, những khoảng cách mênh mông lướt qua tôi. Càng bay lên cao, đầu óc tôi càng tỉnh táo. Một cảm giác thanh bình và ấm áp sâu sắc bao trùm lấy các giác quan của tôi. Bối rối vì năng lượng bao bọc lấy mình dường như có một sự hiện diện rõ ràng, tôi cố gắng nhìn xem chuyện gì đang xảy ra và ai đang mang mình đi; ai hoặc cái gì đã quan tâm đến tôi sâu sắc đến vậy? Tôi cảm thấy an lạc và được yêu thương vô hạn. Tôi biết mình đang được một Đấng Thiêng Liêng ôm ấp, trân trọng tôi bằng tình yêu hoàn hảo và đưa tôi từ khoảng trống tối tăm đến một thực tại mới.

As my mind cleared, scoured of the remnants of mortal, past associations, I was finally able to open my being fully to spirit and my vision cleared.

Khi tâm trí tôi sáng tỏ, được gột rửa sạch những tàn dư của phàm trần, những ràng buộc từ trước, cuối cùng tôi cũng có thể mở rộng hoàn toàn bản thể mình cho tâm linh và tầm nhìn trở nên rõ ràng. .

With the eyes of my soul body, I looked to see what held me in such love and I beheld a radiant, Spirit being, so magnificent and full of love that I knew I would never again feel the sense of loss.

Bằng đôi mắt của linh hồn, tôi hướng nhìn xem ai đang ôm tôi trong tình yêu thương ấy và tôi nhìn thấy một Đấng rực rỡ, hùng vĩ và tràn ngập yêu thương đến mức tôi biết mình sẽ không bao giờ còn cảm thấy hụt hẫng nữa.

I have no way of explaining how, but I knew the Spirit was Christ. It was not a belief, perception or understanding, but my recognition of Christ came from my new perspective of spirit.

Không cách nào để giải thích điều này, nhưng tôi biết Đấng ấy là Chúa Kitô. Đó không phải niềm tin, nhận thức hay sự hiểu biết, mà sự nhận ra Chúa Kitô của tôi đến từ góc nhìn mới mẻ bằng tinh thần của tôi.

I did not see the Spirit as I had seen Jesus of Nazareth depicted in paintings, but the innate knowing of my heart remembered and acknowledged Christ.

Tôi nhìn thấy Đấng ấy không giống như cách người ta thường khắc họa Chúa Giê-su thành Nazareth trong các bức tranh, nhưng sự hiểu biết sâu thẩm rong trái tim tôi đã nhớ lại và thừa nhận Chúa Kitô.

The radiant Spirit was Christ, the manifestation and expression of pure love. Because of my Christian education, I knew no other name to call what I felt as I looked at him.

Đấng sáng chói ấy chính là Đấng Christ, sự hiển lộ của tình yêu thuần túy. Bởi vì tôi theo Cơ đốc giáo nên tôi không biết tên gọi khác của Ngài với những gì tôi cảm nhận khi nhìn thấy Ngài.

Others might have called him Buddha, or Yahweh, or Great Spirit in the Sky, but the naming did not matter, only the recognition of absolute love and truth was important.

Có thể người khác gọi Ngài là Phật hay Yahweh hoặc Đại Hồn trên Thiên Đàng nhưng tên gì cũng không quan trọng, chỉ có nhận biết được sự thật và tình yêu tuyệt đối mới là điều quan trọng.

Safe in the gentle yet powerful embrace of his love, I rested, secure that everything was okay, exactly as it was supposed to be.

Tôi an nghỉ trong tình yêu trìu mến, nhẹ nhàng nhưng đầy mãnh liệt, làm cho tôi an tâm rằng mọi thứ đều ổn chính xác như vậy.

Ascending ever farther, I lifted my eyes to see a great light in the vast distance. With Christ as my guide, I rapidly approached the light. Ecstasy filled my soul as I looked at the radiance, many-fold brighter than a sun.

Khi bay xa hơn nữa ở nơi xa xôi, tôi ngước mắt lên nhìn thấy ánh sáng vĩ đại. Đấng Christ là người dẫn đường, tôi nhanh chóng tiến vào ánh sáng. Linh hồn tôi đầy ấp sự an lạc khi nhìn vào ánh sáng vĩ đại, sáng hơn cả mặt trời gấp nhiều lần.

The light was everywhere and everything, the brightest I had ever seen and dazzling beyond description. Brilliant enough to blind or burn, yet I was not harmed.

Ánh sáng hiện diện ở khắp mọi nơi và bao trùm tất cả, rực rỡ nhất mà tôi từng thấy, chói lòa đến mức không thể nào miêu tả. Nó sáng đến mức có thể làm người ta mù lòa hoặc bị thiêu đốt, thế nhưng tôi lại không hề bị tổn thương.

The light moved over and through me. It washed every hidden place of my heart, removing all hurt and fear, transforming my very being into a song of joy.

Ánh sang di chuyển qua tôi. Rửa sạch những gốc khuất trong tim, loại bỏ mọi đau thương và sợ hãi, biến tôi trở thành khúc nhạc an vui.

I had thought the love I felt from Christ was complete; yet, the light toward which we were soaring was the fulfillment of my search, the loving Source of all that exists, the God of truth and unconditional love, the origin of creation.

Tôi từng nghĩ tình yêu thương mà Chúa Kitô dành cho tôi đã là trọn vẹn; thế nhưng, ánh sáng mà chúng ta đang hướng đến mới chính là sự hoàn thành cho hành trình kiếm tìm của tôi, Nguồn Tình Yêu của mọi thứ tồn tại, vị Thần của chân lý và tình yêu vô điều kiện, nguồn gốc của vạn vật.

My understanding of love was forever changed. The majesty and glory of that vision was an ineffable moment that defined forever more, the direction of my new truth. I was home and I wanted nothing more than to remain in the light of God.

Những hiểu biết của tôi về tình yêu đã thay đổi mãi mãi. Uy nghi và vinh quang mà tôi chứng kiến thật là bất khả thuyết và mãi mãi không thể định nghĩa, con đường của sự thật. Tôi đã trở về nhà và tôi muốn không gì khác hơn được ở lại trong ánh sáng của Thượng Đế.

Christ had delivered me into the light and I stood in the presence of God. I was filled with complete knowing: The light was love and love was God. Waves of consummate love, which emanated from the light obliterated every burden I carried and every thought that kept me from knowing God.

Đấng Christ đã đưa tôi đến ánh sáng, tôi đứng trong đó với sự hiện diện của Thượng Đế. Tôi biết được mọi thứ: Ánh sáng là tinh yêu và tình yêu là Thượng Đế. Những đợt sóng tình yêu hoàn hảo xuất phát từ ánh sáng xóa tan đi những gánh nặng mà tôi đang mang và những tư tưởng không cho tôi hiểu biết về Thượng Đế.

I was made aware of my purity. With new clarity, I realized I had been walking through life ghostlike, wrapped in a shroud of fear, huddled against illusions. I stood like a lover, open to the liquid flow of golden light that filled my empty shell to overflowing.

Tôi tự nhận thức được sự trong sạch của mình. Với sự sáng suốt mà tôi có, tôi nhận biết rằng mình đã đi qua cuộc đời như bóng ma, được bọc trong sợ hãi, chen chúc trong ảo tưởng. Tôi đứng đó như người yêu, tiếp nhận lấy dòng chảy ánh sáng hoàng kim đổ vào cái vỏ trống rỗng của mình cho đến khi tràn ra.

There was no limit to the outpouring as I came to the rapturous awareness of the infinite nature of God’s love. There was no place that God did not exist and I was within God.

Nhưng không có giới hạn nào để nó tràn khi tôi thích thú nhận thức được rằng bản chất tình yêu của Thượng Đế là vô tận.

I am an inseparable part of the light. The truth of who I am, indeed, who we all are, is perfect love as a creation of God. All of God’s creation is one creation and I am one with creation.

Tôi là một phần không thể tách rời của ánh sáng. Bởi nó là bản chất thật sự của tôi, của chúng ta, là tình yêu hoàn hảo nhất như sự sáng tạo của Thượng Đế. Tất cả những sáng tạo của Thượng Đế chỉ là một và tôi hiệp làm một với sự sáng tạo.

God and I are one, Creator and created. I had spent a lifetime of fear of judgment and now, standing with God, I had been known completely and found faultless. I knew God regarded me as perfect.

Thượng Đế và tôi làm một, Đấng Tạo Hóa và tạo vật. Tôi bỏ cả đời để sợ hãi sự phán xét và giờ đây tôi đứng với Người, Người hiểu hết tất cả về tôi và không hề coi tôi có bất kỳ tội lỗi nào. Tôi biết Người xem tôi là một vật hoàn hảo.

God loved me because love is the totality of God. God loves without limit. Finally it all made sense. God could only love me because God is only love, nothing other than love. The only reality is God; there cannot be another and GOD IS LOVE.

Thượng Đế yêu thương tôi bởi vì tình yêu là toàn bộ Thượng Đế. Thượng Đế yêu thương chúng ta vô bờ bến. Thượng Đế có thể chỉ yêu tôi bởi vì Người là tình yêu, không có gì khác hơn. Thực tại duy nhất là Thượng Đế; và ko có ai khác hơn, THƯỢNG ĐẾ LÀ TÌNH YÊU.

I had reached my true home. I turned to Christ and said, ‘This is beautiful. I am home. This is where I want to be. I want to stay.’ And Christ answered, ‘You can stay for a little while and then you must return.’

Tôi đã trở về nhà thật sự. Tôi quay sang nói với Đấng Christ, “Thật là đẹp. Con đã về nhà. Nơi đây là nơi con muốn trở về. Con muốn ở lại”. Và Đấng Christ trả lời, “Con chỉ được ở lại một chút, sau đó phải trở về”.

I couldn’t believe I had to come back to physical reality. After a lifetime of confusion and fear, I had stood in the presence of an open, receptive, non-judging, totally loving God. I wanted nothing more than to remain in that presence but was told I had to return.

Tôi không thể tin rằng tôi phải trở về cõi vật chất. Sau cả một cuộc đời sợ hãi và bối rối, tôi đã đứng trong Đấng Thượng Đế đại từ đại bi, không phán xét,luôn mở rộng vòng tay đón tiếp. Tôi không muốn bất cứ điều gì ngoài việc được ở lại nhưng tôi được dạy rằng phải quay về.

Another aspect of the dramatic change in my life after my near-death experience is that I no longer have a fear of death. In fact, death became my favorite subject overnight.

Một khía cạnh khác trong cuộc sống của tôi đã thay đổi 360 độ là sau lần chết đi sống lại này thì tôi không còn sợ hãi về cái chết. Thật sự cái chết trở thành chủ đề yêu thích của tôi từ đêm này qua đêm khác.

Where I had once forbidden even speaking the dreadful word in my home, now my family and friends couldn’t get me to stop talking about my amazing experience.

Nhà tôi từng cấm tôi nói chuyện, giờ đây thì gia đình và bạn bè không thể nào ngăn tôi kể về kinh nghiệm thú vị của mình.

Surprisingly, I was sad and angry, even defiant. I was confounded that after my lifetime of fear, I had made it to heaven and then had been sent back. ‘Why?’ I asked, ‘Was I too little a fish, or what!’

Thật ngạc nhiên khi tôi buồn và giận, thậm chí thách thức. Tôi đã từng lầm lẫn rằng cả cuộc đời tôi đầy sợ hãi, tôi được đi đến Thiên Đàng và bị trả về. “Tại sao” tôi hỏi, “Có phải tôi chỉ là con cá nhỏ bé hay gì”?

For almost a year, often I would lie in my bed at night crying, sobbing and begging God to let me come home. I was not one of those lucky persons who experienced a spontaneous remission of their illness with their near-death experience.

Gần một năm trời, ban đêm tôi thường nằm trên giường khóc nức nở và cầu xin Thượng Đế cho tôi trở về. Tôi không phải là một trong những người may mắn bệnh tình tự thuyên giảm với kinh nghiệm cận tử.

I was still very sick and I didn’t understand the point of my having to remain on earth when I could make no contributions and had barely any interactions with my family or other people. I found myself whining, questioning, and begging God. ‘Please, please, please, PLEASE let me come home.’

Tôi vẫn còn bệnh rất nặng và tôi không hiểu mục đích tôi còn tồn tại trên thế gian này để làm gì khi tôi ko thể làm gì để cống hiến và hầu như không giao thiệp với ai trong gia đình hay người ngoài. Tôi than thở, chất vấn và cầu xin Chúa. ‘Làm ơn, làm ơn, làm ơn, làm ơn hãy cho con trở về.’

Bargaining with God, I urged, ‘If I have to stay here, why can’t you cure me so I can do something?’ Pleading with God, I cried, ‘If you aren’t going to cure me outright, what if you let me be just well enough to paint even just an hour a day? If I can’t do anything, why can’t there be some way I can be around people? I’M LONELY!’

Tôi khẩn cầu, mặc cả với Thượng Đế, “Nếu con phải ở đây, tại sao Người không chữa lành cho con để con có thể làm gì đó?”. Tôi khóc và van cầu Thượng Đế, “Nếu Người không chữa lành cho con liền, vậy Người hãy cho con được khỏe mạnh để vẽ tranh chỉ một giờ một ngày? Nếu con ko làm được gì, vậy sao ko cho con ở cùng mọi người? Con cô đơn!”

Although I felt waves of love wash over me constantly when I stopped complaining long enough to remember my experience, I never got the answers to my pleas. At least not the answers I wanted.

Mặc dù tôi cảm nhận được từng đợt sóng tình yêu tràn qua tôi liên tục khi tôi ngừng phàn nàn và nhớ lại chuyện chết đi sống lại, tôi không bao giờ nhận đc câu trả lời cho những yêu cầu của tôi. Ít ra không phải câu trả lời tôi muốn cũng đc.

After about a year, I prayed a new prayer from the sincerest depths of my heart. Once again, I relinquished my will and efforts to direct my own life, as completely as the night I gave up my hold on life and died.

Sau khoảng một năm, tôi cầu nguyện từ tận đáy lòng với lòng thành kính nhất. Một lần nữa. Tôi từ bỏ nghị lực và ý chí dẫn lối cuộc đời tôi giống y như đêm tôi đã từ bỏ cuộc sống và chịu chết.

I said to God, ‘My dear God, I give up. I do not know what is right for me. I don’t know what I am supposed to do, who I am to see, or what I should say. I don’t even know what to think. I am always requesting what I think would be best for me. God, I don’t know what is best for me. My life is yours.

Tôi nói với Thượng Đế, “Đấng Thượng Đế lòng lành, con đầu hàng. Con không biết điều gì là đúng cho con. Con không biết con phải nên làm gì, con phải gặp ai, hay con nên nói gì. Thậm chí con ko biết phải nghĩ gì. Con luôn cầu xin con nên nghĩ gì thì tốt cho con. Thượng Đế, Con không biết điều gì là tốt nhất cho con. Cuộc đời con là của Người.

Whatever you want for me is fine. If I am to lie here in this bed, sick and disabled for the rest of my life, whether it is twenty minutes or twenty years, that’s fine. Whatever happens is fine. I know you love me.’ And then I added, ‘I make one request, however. Please, if I am to live, let me be useful in some way – for YOU.’

Bất kỳ điều gì người muốn cũng tốt cho con. Nếu con nằm trên giường này đây, bệnh và tàn tật suốt dù hai mươi phút hay hai mươi năm, hay cả đời cũng được. Điều gì xảy ra cũng đc. Con biết người thương con.” Và Tôi nói thêm, “Tuy nhiên, con có một yêu cầu. Nếu con phải sống, hãy để con hữu dụng với Người”.

A curious manifestation after my near-death experience was that I began seeing a white glow and glint of lights around people and objects. Because I had had so many physical anomalies during my illness, I assumed the ‘lights’ were another, optical side effect of the illness. I was later shown that the lights were far more than that.

Một sự hiển lộ kỳ lạ xảy ra sau lần chết đi sống lại là tôi bắt đầu nhìn những thấy tia ánh sáng trắng ấm áp quanh người và vật. Bởi vì tôi gặp phải nhiều chuyện dị thường trong lúc bệnh, tôi cho rằng “ánh sáng” là một thứ khác, tác dụng phụ quang học do bệnh. Sau này tôi được cho biết ánh sáng đó sâu xa hơn nhiều.

As my health had slowly improved, I occasionally drove myself short distances to appointments. One day as I was driving down a busy street, I stopped at a red light and watched an odd scene unfold before me. A delivery truck had parked on the right side of the street about a half-block ahead.

Khi sức khỏe dần hồi phục, thỉnh thoảng tôi tự lái xe đi những đoạn đường ngắn đến các buổi hẹn. Một ngày nọ, khi đang lái xe xuống một con phố đông đúc, tôi dừng lại ở đèn đỏ và chứng kiến một cảnh tượng kỳ lạ diễn ra trước mắt. Một chiếc xe tải giao hàng đã đỗ bên phải đường, cách khoảng nửa dãy nhà phía trước.

The truck was one that opened from the sides rather than the back. I watched as the driver walked around to the traffic side of his truck and began unloading his cargo with oncoming traffic approaching. Inside my car, I said aloud in my little Southern voice, ‘Oh honey, you shouldn’t do that, it’s dangerous.’

Chiếc xe tải đó có cửa mở từ bên hông chứ không phải ở phía sau. Tôi thấy tài xế đi vòng qua bên giao thông và bắt đầu dỡ hàng trong khi xe cộ đang chạy đến. Từ trong xe, tôi la lớn bằng giọng miền nam, “Ồ, em ko nên làm thế, rất nguy hiểm”.

On this notable day, I watched, stunned, as the familiar dancing lights around the delivery man swirled, quickly coalescing into the form of a breath-taking, translucent, beautiful woman-spirit, glowing with light.

Vào ngày đáng nhớ này, tôi đã kinh ngạc nhìn thấy những luồng ánh sáng nhảy múa quen thuộc xung quanh người giao hàng xoáy cuộn, nhanh chóng quy tụ thành hình dạng của một vị nữ thần linh diệu, lấp lánh, rực rỡ, toát ra ánh sáng.

Perhaps it was because I had sent a loving and concerned thought about the delivery man’s wellbeing that the spirit turned her loving gaze on me. For a brief moment, our eyes met. She smiled at me, then, hovering over the unsuspecting man, returned her attention to her charge who was oblivious to the heavenly presence and was busily going about his business. I was thunderstruck.

Có lẽ vì tôi đã gửi một suy nghĩ yêu thương và lo lắng về sự an toàn của người giao hàng nên vị thần linh ấy đã hướng ánh nhìn trìu mến về phía tôi. Trong giây lát ngắn ngủi, ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Nàng mỉm cười với tôi, sau đó, lơ lửng phía trên người đàn ông vô tình, nàng lại tập trung sự chú ý vào người được nàng bảo vệ, người hoàn toàn không hề hay biết về sự hiện diện của Đấng thiêng liêng và đang bận rộn với công việc của mình. Tôi như bị sét đánh trúng (bị sửng sốt cực độ).

Barely breathing for fear the vision would leave, and mesmerized by the vision, I was reluctant to take my eyes off the beauty of the scene; however, from my peripheral vision, I became aware of even more compelling lights. When I was able to tear myself away from the spirit, I glanced slowly at the vista around me and everywhere I looked, single people in my view had beautiful, loving spirits attending them.

Nín thở vì sợ tầm nhìn sẽ biến mất và bị mê hoặc bởi chúng, tôi do dự không muốn rời mắt khỏi vẻ đẹp của cảnh ấy, tuy nhiên từ bên ngoài tầm nhìn, tôi nhận thức được có nhiều ánh sáng hấp dẫn. Khi tôi có thể tách mình ra khỏi cảnh vừa rồi, tôi liếc nhìn chậm rãi viễn cảnh xung quanh và mọi nơi, tôi thấy từng người đều có những đấng yêu thương xinh đẹp theo họ.

Spirits accompanied people walking nonchalantly down the sidewalk. From within cars, unfettered by physical barriers, I could see the glow and form of beings around the occupants. I saw joggers with flutters of light streaking behind them as their spirit kept pace. As people entered and left buildings, light beings followed. The view before me was filled with brilliant, white light.

Những linh hồn đi theo những người đi bộ thờ ơ trên vỉa hè. Từ trong xe, không bị rào cản vật lý hạn chế, tôi có thể nhìn thấy ánh sáng và hình dáng các Đấng xung quanh những người dân. Tôi thấy những người chạy bộ với những vệt sáng đằng sau họ khi linh hồn của họ cố đuổi theo. Khi người ta ra vào các tòa nhà, các đấng ánh sáng theo sau. Cảnh tưởng trước mắt đầy ánh sáng sáng chói.

From the limited understanding of my human mind, I struggled to comprehend the meaning of what I saw. I knew the lights were connected to the individual people, although more of them, than with them, almost as if they were an extension of their existence – a light connection to an aspect of their Higher Self.

Với những hiểu biết hạn hẹp của đầu óc phàm tục, tôi cố hiểu ra ý nghĩa thật sự những gì tôi thấy. Tôi biết ánh sáng kết nối với từng cá nhân, mặc dù có người nhiều hơn nhưng hầu hết dường như đó là phần mở rộng sự tồn tại của họ – dạng kết nối ánh sáng với một bản ngã cao hơn.

The lights, a connection to the humans, which were glinting off the beings were so bright and expansive, they interconnected, forming a sort of light grid. I remembered reports in books on the near-death experience of people seeing grids on the other side that they didn’t know how to explain.

Ánh sáng, kết nối với con người, phản chiếu lại các Đấng thật sáng chói và mở rộng, chúng liên kết với nhau, tạo thành lưới ánh sáng. Tôi nhớ các báo cáo trong sách về trải nghiệm cận tử của những người nhìn thấy lưới ánh sáng ở phía bên kia thế giới mà họ không biết giải thích làm sao.

As I looked at the network of light before me, I felt the immense outpouring of love coming from the beings. I realized the connection of human beings to the Beings of Light was through love and that the love itself was connected through this grid.

Khi tôi nhìn thấy mạng lưới ánh sáng trước mặt tôi, tôi cảm nhận được tình yêu tràn đầy từ các Đấng. Tôi biết được sự kết nối của con người với Đấng Ánh Sáng thông qua tình yêu và tình yêu tự nó kết nối thông qua mạng lưới này.

The metaphor represented by the image I saw and perceived was absolutely clear and I was overwhelmed with the knowledge that WE ARE ALL ONE. I comprehended that our oneness is interconnected by love and is an available, much higher level and means of communication than we normally use but to which we have access.

Phép ẩn dụ cho hình ảnh tôi thấy và cảm nhận là hoàn toàn rõ ràng và tôi vô cùng choáng ngợp vì rằng TẤT CẢ CHÚNG TA LÀ MỘT. Tôi hiểu ra rằng cái một được lòng vào nhau bằng tình yêu và mãi luôn như vậy, cao cấp hơn phương pháp giao tiếp thông thường mà chúng ta sử dụng nhưng chúng ta có quyền tiếp cận.

This love is available to anyone who is willing to do the hard spiritual work that will allow us to open our hearts and minds and eyes to Spirit. I remembered the love I had felt in the presence of God and experienced a total sense of love for all existence as an interconnected oneness and a manifestation of God.

Tình yêu này luôn dành cho bất kỳ ai sẵn lòng làm công việc tâm linh tích cực nó giúp chúng ta khai tâm, khai trí, và khai nhãn cho linh hồn. Tôi nhớ tình yêu tôi cảm nhận được khi có sự hiện diện của Thượng Đế và kinh nghiệm này hoàn toàn là tình yêu dành cho vạn linh bởi vì tất cả đều kết nối với cái Một và sự hiển lộ của Thượng Đế.

Repeatedly this single truth was driven home to me. Only God exists, God is everything. All that I gaze upon is a representation of God, not the physical mirage but rather, the shining brilliance behind the mask.

Sự thật duy nhất này đã nhiều lần cùng với tôi trở về nhà. Chỉ có Thượng Đế tồn tại và Thượng Đế là mọi thứ. Tất cả những gì tôi nhìn nãy giờ đều là sự hiển lộ của Thượng Đế, không phải ảo ảnh thế gian mà là ánh sáng chói lọi đằng sau cái mặt nạ.

I was startled back to everyday awareness by the blasting of a horn. I looked down at my speedometer and realized I was barely creeping forward in the car.

Tôi giật mình nhận thức trở lại cuộc sống hàng ngày do ấn phải còi. Tôi nhìn xuống đồng hồ tốc độ tôi biết xe mình đang lết về phía trước rất chậm.

With sheets of tears streaming down my face and all but blind with emotion, I pulled to the side of the road until I could take in all that I had witnessed and regain my composure.

Những giọt nước mắt chảy dài trên mặt và với cảm xúc mù quáng, tôi tấp vào lề đường cho đến khi tôi có thể chấp nhận tất cả những gì vừa chứng kiến và lấy lại bình tĩnh.

I don’t know how long I sat, taking in the wonder of that event but I couldn’t move until the spectacular vision slowly dissipated, returning to the more familiar form of lights around the bodies of the people I watched.

Tôi không biết mình đã ngồi bao lâu, tập trung vào điều kỳ diệu nhưng tôi không thể di chuyển cho đến những cảnh ngoạn mục biến mất dần trở lại dạng ánh sáng quen thuộc xung quanh cơ thể con người mà tôi thấy.

I was reluctant to leave because I hoped the angels would return, and I called them angels because I didn’t know what else to say. But when I gathered my senses enough to drive, I made my way home.

Tôi miễn cưỡng không đi bởi vì tôi hy vọng những thiên thần trở lại, tôi gọi họ là thiên thần bởi vì tôi không biết từ nào để nói. Khi tôi đủ thu lại can đảm, tôi đã lái xe về nha.

Anxious to tell my husband, still, I wondered what he would think. Would he think I was hallucinating, getting sick again, or perhaps, even losing my mind? Much to his credit, he listened with open ears to my tale.

Tôi vẫn lo lắng khi kể với chồng, phân vân ảnh sẽ nghĩ gì. Liệu anh ta có nghĩ tôi sanh ảo giác, bị bệnh lại hay có lẽ bị mất trí? Tôi tin vào anh ấy, ảnh sẽ vểnh tai lên mà nghe chuyện thần thoại của tôi.

In fact, after I told my story, his response was, ‘Can you see anything around me?’ Looking deeply into the lights around him, I discovered that by focusing on the glinting lights, a form emerged, taking the appearance of a beautiful spirit. When I described his spirit attendant, he was thrilled.

Thật tế sau khi tôi kể câu chuyện, ảnh trả lời, “Em có nhìn thấy gì quanh anh không?” Nhìn kỹ vào ánh sáng quanh anh ta, tôi khám phá ra rằng nếu tập trung vào ánh sáng lấp lánh, một hình dáng sẽ hiện ra, lấy ngoại hình của một linh hồn xinh đẹp. Khi tôi tả lại linh hồn bên cạnh, ảnh rùng mình.

Encouraged by Ed’s response, I told my story to my children and friends and they related the information to their friends. That initiated the sometimes timid and skeptical, but always curious inquiries from the friends. They too, asked if I would mind telling them if they had beings around them.

Được Ed khích lệ, tôi kể câu chuyện của mình cho bạn bè và các con và họ truyền thông tin lại cho bạn bè của họ. Điều đó khởi xướng những câu hỏi đôi khi rụt rè và hoài nghi, nhưng luôn tò mò từ bạn bè. Họ cũng hỏi tôi có phiền khi nói với họ có Đấng nào xung quanh họ không.

Would I mind? It was my joy to share the love I felt coming from the exquisite inhabitants of a dimension where love reigns. Eagerly, I shared with anyone who wanted to know if they, too, had angels around them.

Tôi có phiền không? Đó là niềm vui của tôi khi chia sẻ tình yêu mà tôi cảm nhận từ những cư dân tinh tế của một chiều không gian nơi tình yêu ngự trị. Tôi háo hức chia sẻ với bất cứ ai muốn biết và họ cũng có thiên thần xung quanh họ.

Eventually, news of my ability to see the angelic realm spread via a newspaper article, television appearances, college lectures and, most significantly, word-of-mouth. Today, I devote my time to readings, counseling and lectures. As I talked to more and more people, I garnered new insights.

Cuối cùng, tin tức về khả năng nhìn thấy cõi thiên thần của tôi lan truyền qua báo chí, xuất hiện trên truyền hình, bài giảng đại học và, đáng kể nhất là truyền miệng. Hôm nay, tôi dành thời gian để đọc, tư vấn và giảng dạy. Khi tôi nói chuyện với nhiều người hơn, tôi đã thu được những kiến thức mới.

In the beginning I called what I saw angels because I didn’t have any other word to explain what I saw. The beings were always loving, luminous and had an other-worldly presence and beauty.

Lúc đầu, tôi gọi những gì tôi thấy là thiên thần là vì tôi không có từ nào khác để giải thích những gì tôi thấy. Các Đấng luôn yêu thương, tỏa sáng và có vẻ đẹp thoát trần.

Curiously, as my ability to discern spirits progressed, I began to see a different type of spirit hovering around people, and they compelled my attention. I felt responsible to describe exactly what I saw and only what I saw around the people who requested a reading, even if their spirits did not look like the stereotypical angel, which they expected.

Thật kỳ lạ, khi khả năng nhận thức linh hồn phát triển hơn, tôi bắt đầu thấy một loại linh hồn khác lơ lửng xung quanh mọi người, và chúng buộc tôi phải chú ý. Tôi cảm thấy có trách nhiệm phải mô tả chính xác những gì tôi thấy và chỉ những gì tôi thấy xung quanh những người yêu cầu, ngay cả khi linh hồn của họ không giống như thiên thần khuôn mẫu, mà họ mong đợi.

For instance: I once told a woman of an older man with ears that stuck out, wearing little round spectacles and with a goofy smile that revealed teeth that had spaces between them. The woman looked amazed and with tears in her eyes, she said, ‘Oh, my gosh, I recognize him. That’s my uncle who was killed. I’ve always wondered if he was okay.’

Chẳng hạn, có lần tôi kể cho một người phụ nữ về một ông già có đôi tai hơi vểnh, đeo kính tròn nhỏ và cười ngớ ngẩn, lộ ra hàm răng thưa thớt. Người phụ nữ ấy nhìn tôi đầy kinh ngạc, nước mắt lưng tròng nói, “Trời ơi, tôi nhận ra ông ấy rồi. Đó là người bác đã mất của tôi. Tôi luôn tự hỏi liệu ông ấy có ổn không.”

The spirit grinned and related telepathically with me. I was able to let his niece, whom he still loved, know that he was fine and had been with this unsuspecting woman all the time. The first time this sort of thing happened, I was taken by surprise.

Linh hồn ấy nhoẻn miệng cười và giao tiếp với tôi bằng thần giao cách cảm. Nhờ đó, tôi có thể cho người cháu gái của ông, người mà ông vẫn luôn yêu thương, biết rằng ông ấy vẫn ổn và đã luôn ở bên cạnh người phụ nữ ngây thơ này suốt thời gian qua. Lần đầu tiên trải qua chuyện này, tôi đã vô cùng ngạc nhiên.

Confused and with a knot of apprehension in the pit of my stomach, I thought, ‘Oh great, now I’m seeing ‘dead’ people!’ If I had not had my near-death experience, I might have thought I was going crazy. But I did have a near-death experience. I could now see angels, and evidently, I could also see the spirits of people who had died.

Bối rối và lo lắng cuộn lên trong lòng, tôi nghĩ, “Tuyệt vời, giờ thì tôi còn nhìn thấy người ‘chết’ nữa!” Nếu không có trải nghiệm cận tử, có lẽ tôi đã nghĩ mình bị điên. Nhưng tôi đã có trải nghiệm cận tử. Giờ đây tôi có thể nhìn thấy thiên thần, và hiển nhiên, tôi cũng có thể nhìn thấy linh hồn của những người đã qua đời.

There is no death, but I could report on the presences from the other realms where spirits reside after leaving their mortal existence. I also discovered I could, on occasion, see the spirit form of people who are still alive on the earth realm.

Cái chết không thực sự tồn tại. Tôi có thể cảm nhận được sự hiện diện từ các cõi khác, nơi linh hồn cư ngụ sau khi rời bỏ thế giới vật chất. Thậm chí, đôi khi tôi còn có thể nhìn thấy hình dạng linh hồn của những người vẫn đang sống trên trái đất.

I quickly resolved my apprehension about this ability when I saw the happiness and comfort it gave people to hear the encouraging stories of love beyond the grave.

Tôi nhanh chóng giải quyết nỗi sợ hãi của mình về khả năng này, tôi thấy hạnh phúc và thoải mái khi kể cho mọi người nghe những câu chuyện khích lệ về tình yêu đằng sau cái chết.

Background Information – Thông tin cơ bản:

Gender (Giới tính): Female (Nữ)
Date NDE Occurred (Ngày tháng xảy ra): Summer 1990 (Mùa hè 1990)

Nguồn NDERF

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không công bố ra bên ngoài. Hoặc bạn có thể đăng nhập bằng tài khoản mạng xã hội để bình luận mà không cần điền tên, địa chỉ mail và trả lời câu hỏi. Required fields are marked *