Human overshoot
Overconsumption – Tiêu thụ quá mức
Xem bài chi tiết – Tiêu thụ quá mức
Overconsumption is a situation where resource use has outpaced the sustainable capacity of the ecosystem. It can be measured by the ecological footprint, a resource accounting approach which compares human demand on ecosystems with the amount of planet matter ecosystems can renew. Estimates indicate that humanity’s current demand is 70% higher than the regeneration rate of all of the planet’s ecosystems combined. A prolonged pattern of overconsumption leads to environmental degradation and the eventual loss of resource bases.
Tiêu dùng quá mức là khi sử dụng tài nguyên đã vượt qua khả năng bền vững của hệ sinh thái. Nó có thể được đo lường bằng dấu chân sinh thái, một phương pháp đánh giá tài nguyên so sánh nhu cầu của con người đối với hệ sinh thái với lượng hệ sinh thái vật chất có thể làm mới. Ước tính chỉ ra rằng nhu cầu hiện tại của nhân loại cao hơn 70% so với tốc độ tái sinh của tất cả các hệ sinh thái của hành tinh cộng lại. Một mô hình quá mức của việc tiêu thụ quá mức dẫn đến suy thoái môi trường và cuối cùng là các cơ sở tài nguyên sẽ biến mất.
Humanity’s overall impact on the planet is affected by many factors, not just the raw number of people. Their lifestyle (including overall affluence and resource use) and the pollution they generate (including carbon footprint) are equally important. In 2008, The New York Times stated that the inhabitants of the developed nations of the world consume resources like oil and metals at a rate almost 32 times greater than those of the developing world, who make up the majority of the human population.
Tác động chung của nhân loại đối với hành tinh ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, không phải là số lượng con người mà cả lối sống (bao gồm sự ảnh hưởng tổng thể và việc sử dụng tài nguyên) và ô nhiễm mà con người tạo ra (bao gồm cả vết carbon) đều quan trọng như nhau. Năm 2008, Thời báo New York tuyên bố rằng cư dân của các quốc gia phát triển trên thế giới tiêu thụ tài nguyên như dầu mỏ và kim loại với tốc độ gấp 32 lần so với cư dân của những nước đang phát triển, chiếm phần lớn dân số loài người.
Human civilization has caused the loss of 83% of all wild mammals and half of plants. The world’s chickens are triple the weight of all the wild birds, while domesticated cattle and pigs outweigh all wild mammals by 14 to 1. Global meat consumption is projected to more than double by 2050, perhaps as much as 76%, as the global population rises to more than 9 billion, which will be a significant driver of further biodiversity loss and increased Greenhouse gas emissions.
Nền văn minh nhân loại đã làm mất đi 83% số lượng động vật có vú hoang dã và phân nửa số thực vật. Gà trên thế giới tăng gấp ba lần khối lượng so với tất cả các loài chim hoang dã, trong khi gia súc và lợn thuần hóa nặng hơn tất cả các loài động vật có vú hoang dã tỷ lệ 14:1. Thịt được tiêu thụ trên toàn cầu được dự đoán sẽ tăng thêm gấp đôi vào năm 2050, có thể lên tới 76%, khi dân số toàn cầu tăng lên hơn 9 tỷ người, đây sẽ là nguyên nhân chính dẫn đến mất đa dạng sinh học hơn nữa và tăng lượng khí thải nhà kính.
Population growth and size – Tăng trưởng và quy mô dân số
Some scholars, environmentalists and advocates have linked human population growth or population size as a driver of environmental issues, including some suggesting this indicates an overpopulation scenario. In 2017, over 15,000 scientists around the world issued a second warning to humanity which asserted that rapid human population growth is the “primary driver behind many ecological and even societal threats.” According to the Global Assessment Report on Biodiversity and Ecosystem Services, released by the United Nations’ Intergovernmental Science-Policy Platform on Biodiversity and Ecosystem Services in 2019, human population growth is a significant factor in contemporary biodiversity loss.[33] A 2021 report in Frontiers in Conservation Science proposed that population size and growth are significant factors in biodiversity loss, soil degradation and pollution.
Một số học giả, nhà bảo vệ môi trường và những người ủng hộ đã liên kết sự gia tăng dân số hoặc quy mô dân số là nguyên nhân thúc đẩy các vấn đề môi trường, trong đó có một số gợi ý rằng điều này cho thấy một kịch bản quá tải dân số. Vào năm 2017, hơn 15.000 nhà khoa học trên khắp thế giới đã đưa ra cảnh báo thứ hai cho nhân loại, trong đó khẳng định rằng sự gia tăng dân số nhanh chóng của con người là “động lực chính đằng sau nhiều mối đe dọa sinh thái và thậm chí là xã hội.” Theo Báo cáo Đánh giá Toàn cầu về Đa dạng Sinh học và Dịch vụ Hệ sinh thái , được Nền tảng chính sách khoa học liên chính phủ của Liên hợp quốc về đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái phát hành vào năm 2019, sự gia tăng dân số của con người là một yếu tố quan trọng dẫn đến mất đa dạng sinh học đương đại. Một báo cáo năm 2021 trên Frontiers in Conservation Science đề xuất rằng quy mô và tốc độ tăng dân số là những yếu tố quan trọng dẫn đến mất đa dạng sinh học, suy thoái đất và ô nhiễm.
Some scientists and environmentalists, including Pentti Linkola, Jared Diamond and E. O. Wilson, posit that human population growth is devastating to biodiversity. Wilson for example, has expressed concern when Homo sapiens reached a population of six billion their biomass exceeded that of any other large land dwelling animal species that had ever existed by over 100 times.
Một số nhà khoa học và nhà bảo vệ môi trường, bao gồm Pentti Linkola, Jared Diamond và E. O. Wilson, cho rằng sự gia tăng dân số đang tàn phá đa dạng sinh học. Chẳng hạn, Wilson đã bày tỏ lo ngại khi người Homo sapiens đạt đến dân số sáu tỷ người, sinh khối của họ vượt quá sinh khối của bất kỳ loài động vật trên cạn nào khác đã từng tồn tại hơn 100 lần.
However, attributing overpopulation as a cause of environmental issues is controversial. Demographic projections indicate that population growth is slowing and world population will peak in the 21st century,[30] and many experts believe that global resources can meet this increased demand, suggesting a global overpopulation scenario is unlikely.
Tuy nhiên, việc quy kết dân số quá đông là nguyên nhân gây ra các vấn đề môi trường đang gây tranh cãi. Các dự báo nhân khẩu học chỉ ra rằng tốc độ tăng dân số đang chậm lại và dân số thế giới sẽ đạt đỉnh vào thế kỷ 21, và nhiều chuyên gia tin rằng các nguồn lực toàn cầu có thể đáp ứng nhu cầu gia tăng này, cho thấy kịch bản quá tải dân số toàn cầu khó xảy ra.
Other projections have the population continuing to grow into the next century. While some studies, including the British government’s 2021 Economics of Biodiversity review, posit that population growth and overconsumption are interdependent, critics suggest blaming overpopulation for environmental issues can unduly blame poor populations in the Global South or oversimplify more complex drivers, leading some to treat overconsumption as a separate issue.
Các dự đoán khác cho rằng dân số sẽ tiếp tục tăng trong thế kỷ tiếp theo. Trong khi một số nghiên cứu, bao gồm cả đánh giá Kinh tế đa dạng sinh học năm 2021 của chính phủ Anh, thừa nhận rằng sự gia tăng dân số và mức tiêu thụ quá mức phụ thuộc lẫn nhau, các nhà phê bình cho rằng đổ lỗi cho dân số quá mức về các vấn đề môi trường có thể đổ lỗi cho dân số nghèo ở Nam bán cầu hoặc đơn giản hóa quá mức những nguyên nhân thúc đẩy phức tạp khác, khiến một số người coi việc tiêu thụ quá mức là một vấn đề riêng biệt.
Advocates for further reducing fertility rates, among them Rodolfo Dirzo and Paul R. Ehrlich, argue that this reduction should primarily affect the “overconsuming wealthy and middle classes,” with the ultimate goal being to shrink “the scale of the human enterprise” and reverse the “growthmania” which they say threatens biodiversity and the “life-support systems of humanity.”
Những người ủng hộ việc tiếp tục giảm tỷ lệ sinh, trong số đó có Rodolfo Dirzo và Paul R. Ehrlich, lập luận rằng giảm tỷ lệ sinh chủ yếu ảnh hưởng đến “tầng lớp trung lưu và giàu có”, với mục tiêu cuối cùng là thu hẹp “quy mô doanh nghiệp của con người” và đảo ngược “cơn cuồng tăng trưởng” mà họ cho là đe dọa đa dạng sinh học và “các hệ thống hỗ trợ sự sống của nhân loại.”
Fishing and farming – Đánh cá và trồng trọt
The environmental impact of agriculture involves a variety of factors from the soil, to water, the air, animal and soil diversity, plants, and the food itself. Some of the environmental issues that are related to agriculture are climate change, deforestation, genetic engineering, irrigation problems, pollutants, soil degradation, and waste.
Tác động môi trường của nông nghiệp liên quan đến nhiều yếu tố từ đất, nước, không khí, động vật, sự đa dạng của đất, thực vật và chính thực phẩm. Một số vấn đề về môi trường liên quan đến nông nghiệp là biến đổi khí hậu, phá rừng, kỹ thuật di truyền, các vấn đề về thủy lợi, chất gây ô nhiễm, suy thoái đất và chất thải.
Fishing – Đánh cá
The environmental impact of fishing can be divided into issues that involve the availability of fish to be caught, such as overfishing, sustainable fisheries, and fisheries management; and issues that involve the impact of fishing on other elements of the environment, such as by-catch and destruction of habitat such as coral reefs. According to the 2019 Intergovernmental Science-Policy Platform on Biodiversity and Ecosystem Services report, overfishing is the main driver of mass species extinction in the oceans.
Tác động môi trường của việc đánh bắt cá có thể được chia thành các vấn đề liên quan đến cá có sẵn trong thiên nhiên để đánh bắt, chẳng hạn như đánh bắt quá mức, nghề cá bền vững và quản lý nghề cá; và các vấn đề liên quan đến tác động của việc đánh bắt cá đối với các yếu tố khác của môi trường, chẳng hạn như đánh bắt nhầm và phá hủy môi trường sống như rạn san hô. Theo báo cáo Nền tảng chính sách khoa học liên chính phủ về đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái năm 2019, đánh bắt quá mức là nguyên nhân chính của sự tuyệt chủng hàng loạt loài trong các đại dương.
These conservation issues are part of marine conservation, and are addressed in fisheries science programs. There is a growing gap between how many fish are available to be caught and humanity’s desire to catch them, a problem that gets worse as the world population grows
Những vấn đề bảo tồn này là một phần của chương trình bảo tồn thiên nhiên và được giải quyết trong các chương trình khoa học về ngư nghiệp. Khoảng cách ngày càng lớn giữa số lượng cá có sẵn và mong muốn đánh bắt cá của nhân loại, và vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi dân số thế giới tăng lên.
Similar to other environmental issues, there can be conflict between the fishermen who depend on fishing for their livelihoods and fishery scientists who realize that if future fish populations are to be sustainable then some fisheries must reduce or even close.
Tương tự như các vấn đề khác về môi trường, giữa ngư dân, những người phụ thuộc vào đánh bắt cá để kiếm sống và các nhà khoa học ngư nghiệp có thể xảy ra xung đột. Các nhà khoa học nhận ra rằng nếu muốn các quần thể cá bền vững trong tương lai thì một số nghề đánh bắt cá phải giảm hoặc thậm chí phải “giải nghệ”.
The journal Science published a four-year study in November 2006, which predicted that, at prevailing trends, the world would run out of wild-caught seafood in 2048. The scientists stated that the decline was a result of overfishing, pollution and other environmental factors that were reducing the population of fisheries at the same time as their ecosystems were being degraded.
Tạp chí Science đã công bố một nghiên cứu kéo dài 4 năm vào tháng 11 năm 2006, dự đoán rằng, theo xu hướng phổ biến, thế giới sẽ cạn kiệt hải sản đánh bắt tự nhiên vào năm 2048. Các nhà khoa học tuyên bố rằng sự suy giảm là kết quả của việc đánh bắt quá mức, ô nhiễm và các yếu tố môi trường khác đang làm giảm quần thể cá đồng thời với việc hệ sinh thái của chúng bị suy thoái.
Yet again the analysis has met criticism as being fundamentally flawed, and many fishery management officials, industry representatives and scientists challenge the findings, although the debate continues. Many countries, such as Tonga, the United States, Australia and New Zealand, and international management bodies have taken steps to appropriately manage marine resources.
Tuy nhiên, một lần nữa, phân tích đã vấp phải sự chỉ trích là thiếu sót cơ bản, và nhiều quan chức quản lý thủy sản, đại diện ngành và các nhà khoa học đã thách thức những phát hiện này, mặc dù cuộc tranh luận vẫn tiếp tục. Nhiều quốc gia, chẳng hạn như Tonga, Hoa Kỳ, Úc và New Zealand, và các cơ quan quản lý quốc tế đã thực hiện các bước để quản lý tài nguyên biển một cách thích hợp.
The UN’s Food and Agriculture Organization (FAO) released their biennial State of World Fisheries and Aquaculture in 2018 noting that capture fishery production has remained constant for the last two decades but unsustainable overfishing has increased to 33% of the world’s fisheries. They also noted that aquaculture, the production of farmed fish, has increased from 120 million tonnes per year in 1990 to over 170 million tonnes in 2018.
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO) đã công bố Tình trạng Nghề Đánh cá và Nuôi trồng Thủy sản Thế giới hai năm một lần vào năm 2018 lưu ý rằng sản lượng đánh bắt thủy sản không đổi trong hai thập kỷ qua nhưng tình trạng đánh bắt quá mức không bền vững đã tăng lên 33% tổng sản lượng khai thác thủy sản của thế giới. Họ cũng lưu ý rằng nuôi trồng thủy sản, sản lượng cá nuôi, đã tăng từ 120 triệu tấn mỗi năm vào năm 1990 lên hơn 170 triệu tấn vào năm 2018.
Populations of oceanic sharks and rays have been reduced by 71% since 1970, largely due to overfishing. More than three-quarters of the species comprising this group are now threatened with extinction.
Quần thể cá mập và cá đuối đại dương đã giảm 71% kể từ năm 1970, phần lớn là do đánh bắt quá mức. Hơn ba phần tư các loài thuộc nhóm này hiện đang bị đe dọa tuyệt chủng.
Irrigation – Thủy lợi
The environmental impact of irrigation includes the changes in quantity and quality of soil and water as a result of irrigation and the ensuing effects on natural and social conditions at the tail-end and downstream of the irrigation scheme.
Tác động môi trường của việc tưới tiêu bao gồm những thay đổi về số lượng và chất lượng của đất và nước do tưới tiêu và các tác động tiếp theo đối với các điều kiện tự nhiên và xã hội ở cuối và hạ lưu của hệ thống tưới tiêu.
The impacts stem from the changed hydrological conditions owing to the installation and operation of the scheme.
Các tác động bắt nguồn từ việc thay đổi điều kiện thủy văn do lắp đặt và vận hành công trình.
An irrigation scheme often draws water from the river and distributes it over the irrigated area. As a hydrological result it is found that:
Một hệ thống thủy lợi thường lấy nước từ sông và phân phối nước trên khu vực được tưới tiêu. Theo kết quả thủy văn, người ta thấy rằng:
the downstream river discharge is reduced
the evaporation in the scheme is increased
the groundwater recharge in the scheme is increased
the level of the water table rises
the drainage flow is increased.
These may be called direct effects.
lưu lượng sông ở hạ lưu giảm
nước bay hơi trong dự án tăng lên
việc bù lại nước ngầm trong dự án tăng lên
mực nước ngầm tăng lên
lưu lượng thất thoát tăng lên.
Đây có thể được gọi là hiệu ứng trực tiếp.
Effects on soil and water quality are indirect and complex, and subsequent impacts on natural, ecological and socio-economic conditions are intricate. In some, but not all instances, water logging and soil salinization can result. However, irrigation can also be used, together with soil drainage, to overcome soil salinization by leaching excess salts from the vicinity of the root zone.
Các tác động đối với chất lượng đất và nước là gián tiếp và phức tạp, và các tác động tiếp theo đối với các điều kiện tự nhiên, sinh thái và kinh tế xã hội cũng rất phức tạp. Trong một số trường hợp, nhưng không phải tất cả các trường hợp, có thể xảy ra tình trạng ngập úng và nhiễm mặn đất. Tuy nhiên, tưới tiêu cũng có thể được sử dụng, cùng với thoát nước cho đất, để khắc phục tình trạng nhiễm mặn của đất bằng cách lọc lượng muối dư thừa từ vùng lân cận của vùng rễ.
Irrigation can also be done extracting groundwater by (tube)wells. As a hydrological result it is found that the level of the water descends. The effects may be water mining, land/soil subsidence, and, along the coast, saltwater intrusion.
Việc tưới tiêu cũng có thể được thực hiện bằng cách khai thác nước ngầm bằng (ống) giếng. Theo kết quả thủy văn, người ta thấy rằng mực nước hạ xuống. Các tác động có thể là khai thác nước, sụt lún đất và xâm nhập mặn dọc theo bờ biển.
Irrigation projects can have large benefits, but the negative side effects are often overlooked.
Các dự án thủy lợi có thể mang lại nhiều lợi ích nhưng những tác động tiêu cực thường bị bỏ qua.
Agricultural irrigation technologies such as high powered water pumps, dams, and pipelines are responsible for the large-scale depletion of fresh water resources such as aquifers, lakes, and rivers. As a result of this massive diversion of freshwater, lakes, rivers, and creeks are running dry, severely altering or stressing surrounding ecosystems, and contributing to the extinction of many aquatic species.
Các công nghệ tưới tiêu nông nghiệp như máy bơm nước công suất cao, đập và đường ống là nguyên nhân gây ra sự cạn kiệt quy mô lớn các nguồn nước ngọt như tầng ngậm nước, hồ và sông. Do sự chuyển hướng ồ ạt nước ngọt này, hồ, sông và lạch đang cạn kiệt, làm thay đổi nghiêm trọng hoặc gây căng thẳng cho các hệ sinh thái xung quanh và góp phần vào sự tuyệt chủng của nhiều loài thủy sinh.
Agricultural land loss – Mất đất nông nghiệp
Lal and Stewart estimated global loss of agricultural land by degradation and abandonment at 12 million hectares per year.[62] In contrast, according to Scherr, GLASOD (Global Assessment of Human-Induced Soil Degradation, under the UN Environment Programme) estimated that 6 million hectares of agricultural land per year had been lost to soil degradation since the mid-1940s, and she noted that this magnitude is similar to earlier estimates by Dudal and by Rozanov et al.[63] Such losses are attributable not only to soil erosion, but also to salinization, loss of nutrients and organic matter, acidification, compaction, water logging and subsidence.
Lal và Stewart ước tính diện tích đất nông nghiệp bị mất do suy thoái và bị bỏ hoang trên toàn cầu là 12 triệu ha mỗi năm.[62] Ngược lại, theo Scherr, GLASOD (Đánh giá toàn cầu về suy thoái đất do con người gây ra, thuộc Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc) ước tính rằng 6 triệu ha đất nông nghiệp mỗi năm bị mất do suy thoái đất kể từ giữa những năm 1940, và bà lưu ý rằng cường độ này tương tự như ước tính trước đó của Dudal và Rozanov et al.[63] Những tổn thất như vậy không chỉ do xói mòn đất mà còn do xâm nhập mặn, mất chất dinh dưỡng và chất hữu cơ, axit hóa, nén chặt, ngập úng và sụt lún.
Human-induced land degradation tends to be particularly serious in dry regions. Focusing on soil properties, Oldeman estimated that about 19 million square kilometers of global land area had been degraded; Dregne and Chou, who included degradation of vegetation cover as well as soil, estimated about 36 million square kilometers degraded in the world’s dry regions.[65] Despite estimated losses of agricultural land, the amount of arable land used in crop production globally increased by about 9% from 1961 to 2012, and is estimated to have been 1.396 billion hectares in 2012.
Suy thoái đất do con người gây ra có xu hướng đặc biệt nghiêm trọng ở các vùng khô hạn. Tập trung vào tính chất của đất, Oldeman ước tính rằng khoảng 19 triệu km2 diện tích đất toàn cầu đã bị suy thoái; Dregne và Chou, người đã tính đến sự xuống cấp của lớp phủ thực vật cũng như đất, ước tính khoảng 36 triệu km2 bị suy thoái ở các vùng khô hạn trên thế giới.[65] Mặc dù có những ước tính thiệt hại về đất nông nghiệp, tuy nhiên diện tích đất canh tác sử dụng trong sản xuất cây trồng trên toàn cầu đã tăng khoảng 9% từ năm 1961 đến năm 2012 và ước tính đạt 1,396 tỷ ha vào năm 2012.[66]
Global average soil erosion rates are thought to be high, and erosion rates on conventional cropland generally exceed estimates of soil production rates, usually by more than an order of magnitude.[67] In the US, sampling for erosion estimates by the US NRCS (Natural Resources Conservation Service) is statistically based, and estimation uses the Universal Soil Loss Equation and Wind Erosion Equation. For 2010, annual average soil loss by sheet, rill and wind erosion on non-federal US land was estimated to be 10.7 t/ha on cropland and 1.9 t/ha on pasture land; the average soil erosion rate on US cropland had been reduced by about 34% since 1982.
Tốc độ xói mòn đất trên toàn cầu được cho là cao, và tốc độ xói mòn trên đất trồng trọt vượt quá ước tính về tốc độ sản xuất đất, thường là nhiều hơn một cấp số lượng.[67] Tại Hoa Kỳ, việc lấy mẫu để ước tính xói mòn của NRCS Hoa Kỳ (Dịch vụ bảo tồn tài nguyên thiên nhiên) dựa trên thống kê và ước tính sử dụng Phương trình tổn thất đất phổ quát và Phương trình xói mòn do gió. Đối với năm 2010, lượng đất bị mất trung bình hàng năm do xói mòn theo phiến, gợn sóng và gió trên đất không thuộc liên bang của Hoa Kỳ được ước tính là 10,7 tấn/ha trên đất trồng trọt và 1,9 tấn/ha trên đồng cỏ; tỷ lệ xói mòn đất trung bình trên đất trồng trọt của Hoa Kỳ đã giảm khoảng 34% kể từ năm 1982.
No-till and low-till practices have become increasingly common on North American cropland used for production of grains such as wheat and barley. On uncultivated cropland, the recent average total soil loss has been 2.2 t/ha per year. In comparison with agriculture using conventional cultivation, it has been suggested that, because no-till agriculture produces erosion rates much closer to soil production rates, it could provide a foundation for sustainable agriculture.
Các phương pháp không làm đất và làm đất thấp ngày càng trở nên phổ biến trên đất trồng trọt ở Bắc Mỹ được sử dụng để sản xuất các loại ngũ cốc như lúa mì và lúa mạch. Trên đất trồng trọt bỏ hoang, gần đây tổng lượng đất trung bình bị mất là 2,2 tấn/ha mỗi năm. Có ý kiến cho rằng, so với nông nghiệp sử dụng phương pháp canh tác thông thường, vì nông nghiệp không làm đất tạo ra tốc độ xói mòn gần với tốc độ sản xuất đất hơn, nên nó có thể tạo nền tảng cho nông nghiệp bền vững.
Land degradation is a process in which the value of the biophysical environment is affected by a combination of human-induced processes acting upon the land. It is viewed as any change or disturbance to the land perceived to be deleterious or undesirable. Natural hazards are excluded as a cause; however human activities can indirectly affect phenomena such as floods and bush fires. This is considered to be an important topic of the 21st century due to the implications land degradation has upon agronomic productivity, the environment, and its effects on food security. It is estimated that up to 40% of the world’s agricultural land is seriously degraded.
Suy thoái đất là một quá trình mà trong đó giá trị của môi trường lý sinh bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của các quá trình do con người gây ra tác động lên đất. Bất kỳ sự thay đổi hoặc xáo trộn nào đối với vùng đất đều được coi là có hại hoặc không thích nghi. Các hiểm họa tự nhiên không được xem là nguyên nhân; tuy nhiên các hoạt động của con người có thể ảnh hưởng gián tiếp đến các hiện tượng như lũ lụt và cháy rừng. Đây được coi là một chủ đề quan trọng của thế kỷ 21 do những tác động của suy thoái đất đối với năng suất nông nghiệp, môi trường và những tác động của nó đối với an ninh lương thực. Ước tính có tới 40% diện tích đất nông nghiệp trên thế giới bị thoái hóa nghiêm trọng.
Meat production – Sản xuất thịt
Environmental impacts associated with meat production include use of fossil energy, water and land resources, greenhouse gas emissions, and in some instances, rainforest clearing, water pollution and species endangerment, among other adverse effects. Steinfeld et al. of the FAO estimated that 18% of global anthropogenic GHG (greenhouse gas) emissions (estimated as 100-year carbon dioxide equivalents) are associated in some way with livestock production. FAO data indicate that meat accounted for 26% of global livestock product tonnage in 2011.
Các tác động môi trường liên quan đến sản xuất thịt bao gồm sử dụng năng lượng hóa thạch, tài nguyên nước, đất, phát thải khí nhà kính và trong một số trường hợp, phá rừng nhiệt đới, ô nhiễm nước và nguy cơ tuyệt chủng loài, cùng các tác động bất lợi khác. Steinfeld và cộng sự của FAO ước tính rằng 18% lượng khí thải KNK (khí nhà kính) do con người tạo ra trên toàn cầu (ước tính tương đương với carbon dioxide trong 100 năm) có liên quan tới sản xuất chăn nuôi. Dữ liệu của FAO chỉ ra rằng thịt chiếm 26% tổng sản phẩm chăn nuôi toàn cầu trong năm 2011.
Globally, enteric fermentation (mostly in ruminant livestock) accounts for about 27% of anthropogenic methane emissions, Despite methane’s 100-year global warming potential, recently estimated at 28 without and 34 with climate-carbon feedbacks, methane emission is currently contributing relatively little to global warming. Although reduction of methane emissions would have a rapid effect on warming, the expected effect would be small.
Trên toàn cầu, quá trình lên men trong ruột (chủ yếu ở gia súc nhai lại) chiếm khoảng 27% lượng khí thải mêtan do con người tạo ra, Mặc dù tiềm năng nóng lên toàn cầu của khí mêtan trong 100 năm, ước tính gần đây là 28 khi không có phản hồi khí hậu-cacbon và 34 khi có, phát thải khí mêtan hiện đang góp phần tương đối ít vào sự nóng lên toàn cầu. Mặc dù việc giảm phát thải khí mê-tan sẽ có tác dụng nhanh chóng đối với sự nóng lên, nhưng dự kiến tác động sẽ rất nhỏ.
Other anthropogenic GHG emissions associated with livestock production include carbon dioxide from fossil fuel consumption (mostly for production, harvesting and transport of feed), and nitrous oxide emissions associated with the use of nitrogenous fertilizers, growing of nitrogen-fixing legume vegetation and manure management. Management practices that can mitigate GHG emissions from production of livestock and feed have been identified.
Các phát thải KNK nhân tạo khác liên quan đến chăn nuôi bao gồm carbon dioxide từ tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch (chủ yếu để sản xuất, thu hoạch và vận chuyển thức ăn) và phát thải oxit nitơ liên quan đến việc sử dụng phân bón nitơ, trồng cây họ đậu cố định đạm và quản lý phân bón. Các biện pháp quản lý có thể giảm thiểu phát thải khí nhà kính từ sản xuất gia súc và thức ăn chăn nuôi đã được xác định.
Considerable water use is associated with meat production, mostly because of water used in production of vegetation that provides feed. There are several published estimates of water use associated with livestock and meat production, but the amount of water use assignable to such production is seldom estimated. For example, “green water” use is evapotranspirational use of soil water that has been provided directly by precipitation; and “green water” has been estimated to account for 94% of global beef cattle production’s “water footprint”, and on rangeland, as much as 99.5% of the water use associated with beef production is “green water”.
Việc sử dụng nhiều nước đều có liên quan đến sản xuất thịt, chủ yếu là do sử dụng nước trong sản xuất thực vật cung cấp thức ăn. Có một số ước tính được công bố về việc sử dụng nước liên quan đến chăn nuôi và sản xuất thịt, nhưng lượng nước sử dụng cho sản xuất như vậy hiếm khi được ước tính. Ví dụ, sử dụng “nước xanh” là sử dụng việc thoát hơi nước trong đất và cung cấp trực tiếp trở lại bằng lượng mưa; và “nước xanh” được ước tính chiếm 94% “dấu chân nước” trong sản xuất thịt bò toàn cầu, và trên đất chăn nuôi, có tới 99,5% lượng nước sử dụng liên quan đến sản xuất thịt bò là “nước xanh”.
Impairment of water quality by manure and other substances in runoff and infiltrating water is a concern, especially where intensive livestock production is carried out. In the US, in a comparison of 32 industries, the livestock industry was found to have a relatively good record of compliance with environmental regulations pursuant to the Clean Water Act and Clean Air Act,[86] but pollution issues from large livestock operations can sometimes be serious where violations occur. Various measures have been suggested by the US Environmental Protection Agency, among others, which can help reduce livestock damage to streamwater quality and riparian environments.
Suy giảm chất lượng nước do phân và các chất khác trong dòng chảy mặt và ngấm vào dòng nước là một vấn đề đáng lo ngại, đặc biệt là ở những nơi tiến hành chăn nuôi thâm canh. Tại Hoa Kỳ, khi so sánh 32 ngành công nghiệp, ngành chăn nuôi được cho là có thành tích tuân thủ tương đối tốt các quy định về môi trường theo Đạo luật Nước sạch và Đạo luật Không khí Sạch, nhưng các vấn đề ô nhiễm từ các hoạt động chăn nuôi quy mô lớn đôi khi xảy ra sẽ gây hậu quả nghiêm trọng. Nhiều biện pháp đã được Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ đề xuất, trong số những biện pháp khác, nhằm giúp giảm thiệt hại do chăn nuôi gây ra đối với chất lượng nước suối và môi trường ven sông.
Changes in livestock production practices influence the environmental impact of meat production, as illustrated by some beef data. In the US beef production system, practices prevailing in 2007 are estimated to have involved 8.6% less fossil fuel use, 16% less greenhouse gas emissions (estimated as 100-year carbon dioxide equivalents), 12% less withdrawn water use and 33% less land use, per unit mass of beef produced, than in 1977. From 1980 to 2012 in the US, while population increased by 38%, the small ruminant inventory decreased by 42%, the cattle-and-calves inventory decreased by 17%, and methane emissions from livestock decreased by 18%;[66] yet despite the reduction in cattle numbers, US beef production increased over that period.
Những thay đổi trong phương pháp sản xuất trong chăn nuôi ảnh hưởng đến tác động môi trường của sản xuất thịt, như được minh họa bằng một số dữ liệu về thịt bò. Trong hệ thống sản xuất thịt bò của Hoa Kỳ, các phương pháp phổ biến trong năm 2007 được ước tính là đã sử dụng ít nhiên liệu hóa thạch hơn 8,6%, ít thải khí nhà kính hơn 16% (ước tính tương đương với carbon dioxide trong 100 năm), sử dụng ít nước hơn 12% và ít đất hơn 33%, so với năm 1977, trên một đơn vị khối lượng thịt bò được sản xuất. Từ năm 1980 đến năm 2012 tại Hoa Kỳ, trong khi dân số tăng 38%, số lượng động vật nhai lại nhỏ giảm 42%, số lượng gia súc và bê giảm 17% và lượng khí thải mêtan từ chăn nuôi giảm 18%; mặc dù số lượng gia súc giảm, nhưng sản lượng thịt bò của Hoa Kỳ vẫn tăng trong thời kỳ đó.
Conversely, according to some studies appearing in peer-reviewed journals, the growing demand for meat is contributing to significant biodiversity loss as it is a significant driver of deforestation and habitat destruction. Moreover, the 2019 Global Assessment Report on Biodiversity and Ecosystem Services by IPBES also warns that ever increasing land use for meat production plays a significant role in biodiversity loss.[97][98] A 2006 Food and Agriculture Organization report, Livestock’s Long Shadow, found that around 26% of the planet’s terrestrial surface is devoted to livestock grazing.
Ngược lại, theo một số nghiên cứu xuất hiện trên các tạp chí được bình duyệt, nhu cầu thịt ngày càng tăng đang góp phần làm mất đa dạng sinh học đáng kể vì nó là nguyên nhân chính dẫn đến nạn phá rừng và hủy hoại môi trường sống. Ngoài ra, Báo cáo đánh giá toàn cầu năm 2019 về đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái của IPBES cũng cảnh báo rằng việc sử dụng đất ngày càng tăng để sản xuất thịt đóng một vai trò quan trọng trong việc mất đa dạng sinh học. Một báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp năm 2006, Livestock’s Long Shadow, cho thấy khoảng 26% bề mặt trái đất của hành tinh được dành cho việc chăn thả gia súc.
Palm oil – dầu cọ
Palm oil is a type of vegetable oil, found in oil palm trees, which are native to West and Central Africa. Initially used in foods in developing countries, palm oil is now also used in food, cosmetic and other types of products in other nations as well. Over one-third of vegetable oil consumed globally is palm oil.
Dầu cọ là một loại dầu thực vật, có trong cây cọ dầu, có nguồn gốc từ Tây và Trung Phi. Ban đầu được sử dụng trong thực phẩm ở các nước đang phát triển, dầu cọ hiện cũng được sử dụng trong thực phẩm, mỹ phẩm và các loại sản phẩm khác ở các quốc gia khác. Hơn một phần ba lượng dầu thực vật được tiêu thụ trên toàn cầu là dầu cọ.
Habitat loss – mất môi trường sống
The consumption of palm oil in food, domestic and cosmetic products all over the world means there is a high demand for it. To meet this, oil palm plantations are created, which means removing natural forests to clear space. This deforestation has taken place in Asia, Latin America and West Africa, with Malaysia and Indonesia holding 90% of global oil palm trees. These forests are home to a wide range of species, including many endangered animals, ranging from birds to rhinos and tigers.[102] Since 2000, 47% of deforestation has been for the purpose of growing oil palm plantations, with around 877,000 acres being affected per year.
Trên toàn thế giới tiêu thụ dầu cọ trong các sản phẩm thực phẩm, đồ gia dụng và mỹ phẩm đồng nghĩa người ta có nhu cầu cao về loại dầu này. Vì thế, các đồn điền cọ dầu ra đời, đồng nghĩa với việc phá bỏ rừng tự nhiên để giải phóng mặt bằng. Nạn phá rừng này đã diễn ra ở Châu Á, Châu Mỹ Latinh và Tây Phi, trong đó Malaysia và Indonesia nắm giữ 90% diện tích cây cọ dầu toàn cầu. Những khu rừng này là nơi sinh sống của nhiều loài, bao gồm nhiều loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng, từ chim đến tê giác và hổ.[102] Kể từ năm 2000, 47% diện tích rừng bị phá là vì mục đích trồng cọ dầu, với khoảng 877.000 mẫu Anh bị ảnh hưởng mỗi năm.
Impact on biodiversity – Tác động đến đa dạng sinh học
Natural forests are extremely biodiverse, with a wide range of organisms using them as their habitat. But oil palm plantations are the opposite. Studies have shown that oil palm plantations have less than 1% of the plant diversity seen in natural forests, and 47–90% less mammal diversity.[103] This is not because of the oil palm itself, but rather because the oil palm is the only habitat provided in the plantations. The plantations are therefore known as a monoculture, whereas natural forests contain a wide variety of flora and fauna, making them highly biodiverse. One of the ways palm oil could be made more sustainable (although it is still not the best option) is through agroforestry, whereby the plantations are made up of multiple types of plants used in trade – such as coffee or cocoa. While these are more biodiverse than monoculture plantations, they are still not as effective as natural forests. In addition to this, agroforestry does not bring as many economic benefits to workers, their families and the surrounding areas.
Rừng tự nhiên rất đa dạng sinh học, với nhiều loại sinh vật sống trong đó. Nhưng các đồn điền cọ dầu thì ngược lại. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các đồn điền cọ dầu về mức độ đa dạng thực vật ít hơn 1% trong rừng tự nhiên và về sự đa dạng động vật có vú ít hơn 47–90%. Điều này không phải vì bản thân cây cọ dầu, mà vì cây cọ dầu là môi trường sống duy nhất được cung cấp trong các đồn điền. Do đó, các đồn điền được gọi là độc canh, trong khi rừng tự nhiên chứa nhiều loại động thực vật, làm cho chúng có tính đa dạng sinh học cao. Một trong những cách có thể tạo ra dầu cọ bền vững hơn (mặc dù nó vẫn không phải là lựa chọn tốt nhất) là thông qua nông lâm kết hợp, theo đó nên tạo các đồn điền từ nhiều loại cây có thể sử dụng trong thương mại – chẳng hạn như cà phê hoặc ca cao. Mặc dù nó đa dạng sinh học hơn so với rừng trồng độc canh, nhưng chúng vẫn không hiệu quả bằng rừng tự nhiên. Thêm vào đó, nông lâm kết hợp không mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho người lao động, hộ gia đình họ và khu vực xung quanh.
Roundtable on Sustainable Palm Oil (RSPO) – Hội nghị về dầu cọ bền vững (RSPO)
The RSPO is a non-profit organisation that has developed criteria that its members (of which, as of 2018, there are over 4,000) must follow to produce, source and use sustainable palm oil (Certified Sustainable Palm Oil; CSPO). Currently, 19% of global palm oil is certified by the RSPO as sustainable.
RSPO là một tổ chức phi lợi nhuận đã phát triển các tiêu chí buộc các thành viên (trong đó, tính đến năm 2018, có hơn 4.000) phải tuân thủ sản xuất, tìm nguồn và sử dụng dầu cọ bền vững (Chứng nhận dầu cọ bền vững; CSPO). Hiện tại, 19% dầu cọ toàn cầu RSPO chứng nhận là bền vững.
The CSPO criteria states that oil palm plantations cannot be grown in the place of forests or other areas with endangered species, fragile ecosystems, or those that facilitate the needs of local communities. It also calls for a reduction in pesticides and fires, along with several rules for ensuring the social wellbeing of workers and the local communities.
Các tiêu chí của CSPO nêu rõ rằng các đồn điền cọ dầu không thể được trồng ở nơi có rừng hoặc khu vực có các loài có nguy cơ tuyệt chủng, hệ sinh thái dễ bị tổn thương hoặc những nơi tạo điều kiện thuận lợi cho nhu cầu của cộng đồng địa phương. CSPO cũng kêu gọi giảm lượng thuốc trừ sâu và hỏa hoạn, cùng với một số quy tắc nhằm đảm bảo phúc lợi xã hội cho người lao động và cộng đồng địa phương.
Ecosystem impacts – Tác động đến hệ sinh thái
Environmental degradation – Suy thoái môi trường
Human activity is causing environmental degradation, which is the deterioration of the environment through depletion of resources such as air, water and soil; the destruction of ecosystems; habitat destruction; the extinction of wildlife; and pollution. It is defined as any change or disturbance to the environment perceived to be deleterious or undesirable.[70] As indicated by the I=PAT equation, environmental impact (I) or degradation is caused by the combination of an already very large and increasing human population (P), continually increasing economic growth or per capita affluence (A), and the application of resource-depleting and polluting technology (T).
Hoạt động của con người đang gây ra sự suy thoái môi trường, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên như không khí, nước và đất; phá hủy các hệ sinh thái; hủy hoại môi trường sống; sự tuyệt chủng của động vật hoang dã; và ô nhiễm. Bất kỳ thay đổi hoặc xáo trộn nào đối với môi trường đều được coi là có hại hoặc không mong muốn.[70] Như phương trình I=PAT chỉ ra tác động môi trường (I) hoặc suy thoái là do sự kết hợp của dân số loài người (P) vốn đã rất lớn và ngày càng tăng, tăng trưởng kinh tế liên tục hoặc mức giàu có bình quân đầu người (A) và việc áp dụng công nghệ làm cạn kiệt tài nguyên và gây ô nhiễm (T).
According to a 2021 study published in Frontiers in Forests and Global Change, roughly 3% of the planet’s terrestrial surface is ecologically and faunally intact, meaning areas with healthy populations of native animal species and little to no human footprint. Many of these intact ecosystems were in areas inhabited by indigenous peoples.
Theo một nghiên cứu năm 2021 được công bố trên Frontiers in Forests and Global Change, khoảng 3% bề mặt đất liền trên hành tinh còn nguyên vẹn về mặt sinh thái và hệ động vật, nghĩa là các khu vực có quần thể các loài động vật bản địa sống khỏe mạnh, và ít hoặc không có sự xuất hiện dấu chân của con người. Nhiều trong số các hệ sinh thái nguyên vẹn này nằm trong các khu vực có người bản địa sinh sống.
Habitat Fragmentation
According to a 2018 study in Nature, 87% of the oceans and 77% of land (excluding Antarctica) have been altered by anthropogenic activity, and 23% of the planet’s landmass remains as wilderness.
Theo một nghiên cứu năm 2018 trên tạp chí Nature, 87% đại dương và 77% đất đai (không bao gồm Nam Cực) đã bị biến đổi do hoạt động của con người và 23% diện tích đất của hành tinh vẫn là vùng hoang dã.
Habitat fragmentation is the reduction of large tracts of habitat leading to habitat loss. Habitat fragmentation and loss are considered as being the main cause of the loss of biodiversity and degradation of the ecosystem all over the world. Human actions are greatly responsible for habitat fragmentation, and loss as these actions alter the connectivity and quality of habitats. Understanding the consequences of habitat fragmentation is important for the preservation of biodiversity and enhancing the functioning of the ecosystem.
Phân mảnh môi trường là các vùng sinh cảnh rộng lớn bị giảm đi dẫn đến mất môi trường sống. Sự chia cắt và mất đi nơi cư trú được coi là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng mất đa dạng sinh học và suy thoái hệ sinh thái trên toàn thế giới. Các hoạt động của con người chịu trách nhiệm rất lớn đối với sự phân mảnh và mất môi trường sống vì những hành động này làm thay đổi tính kết nối và chất lượng của môi trường. Hiểu được hậu quả của sự phân mảnh môi trường sống là rất quan trọng để bảo tồn đa dạng sinh học và tăng cường chức năng của hệ sinh thái.
Both agricultural plants and animals depend on pollination for reproduction. Vegetables and fruits are an important diet for human beings and depend on pollination. Whenever there is habitat destruction, pollination is reduced and crop yield as well. Many plants also rely on animals and most especially those that eat fruit for seed dispersal. Therefore, the destruction of habitat for animal severely affects all the plant species that depend on them.
Cả thực vật và động vật nông nghiệp đều phụ thuộc vào sự thụ phấn để sinh sản. Rau và trái cây là thức ăn quan trọng đối với con người và chúng phụ thuộc vào sự thụ phấn. Bất cứ khi nào môi trường sống bị phá hủy, quá trình thụ phấn cũng như năng suất cây trồng đều giảm. Nhiều loài thực vật cũng dựa vào động vật và đặc biệt là những loài ăn quả để phát tán hạt. Do đó, việc phá hủy môi trường sống của động vật ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các loài thực vật phụ thuộc vào chúng.
https://en.wikipedia.org/wiki/Human_impact_on_the_environment#Palm_oil
Bản dịch thô