Thánh thuật của pháp sư Abramelin – Giới thiệu

Cuốn sách này đã được S.L.M. Mathers dịch từ một bản thảo bằng tiếng Pháp vào thế kỷ 15. Quyển sách này có ảnh hưởng rất lớn đến nghi thức phép thuật hiện đại, và được trích dẫn như ảnh hưởng chính đối với Aleister Crowley. Abraham của Würzburg, một nhà sử thi và là một học giả về phép thuật, đã mô tả một cuộc tìm kiếm những giáo lý bí mật đã đi đến tận Ai Cập, nơi ông đã gặp được nhà ảo thuật Abramelin, người đã dạy ông chi tiết về hệ thống phép thuật của mình. Phương pháp này mất nhiều tháng để thanh lọc, tiếp theo là việc triệu thỉnh các linh hồn thiện và ác để đạt được một số mục đích trần tục, bao gồm việc truy tìm kho báu, tình yêu, đằng vân, độn thủy, và phép sái đậu thành binh (nguyên văn là biến không khí thành quân đội). Ngoài ra con có nuôi xác, thay hình đổi dạng, ẩn thân hoặc kêu mưa gọi gió. Chìa khóa để làm điều này là một tập hợp các ô vuông ma thuật đặc biệt, gồm các ký tự huyền bí mà trong hầu hết các trường hợp có thể được đọc theo nhiều hướng. Tất nhiên, những sơ đồ này được cho là không có hiệu lực trừ khi được sử dụng trong bối cảnh nghi lễ thích hợp bởi một đồng tu. Mathers đã phân tích các từ này trong một tập hợp các ghi chú và cung cấp các dẫn chứng từ tiếng Hebrew (Do Thái), tiếng Hy Lạp và các ngôn ngữ khác.

S. L. MAC GREGOR MATHERS Giới thiệu

Có lẽ do hoàn cảnh “Bædecker” không thể thiếu chỉ chấp nhận ba hoặc bốn dòng chú ý đến “Bibliothèque de l’Arsenal”; Nhưng một vài du khách người Anh hay Mỹ đến Paris đã quen với tên, tình huống hoặc nội dung của nó, mặc dù gần như tất cả đều biết đến “Bibliothèque Nationale” và “Bibliothèque Mazarin”.

“Thư viện của Arsenal”, như nó được gọi, được thành lập như một bộ sưu tập cá nhân của Antoine René Voyer D’Argenson, Marquis de Paulny; Và lần đầu tiên được mở cửa cho công chúng vào Floréal thứ 9, vào năm thứ năm của nước Cộng hòa Pháp (có nghĩa là vào ngày 28 tháng 4 năm 1797), hoặc chỉ một thế kỷ trước. Marquis de Paulny này được sinh ra vào năm 1722, qua đời vào năm 1787, và từng là Bộ trưởng Bộ chiến tranh, và Đại sứ Thụy Sĩ, Ba Lan và Cộng hòa Venice. Những năm cuối đời của ông đã dành cho việc thành lập Thư viện này, được cho là một trong những bộ sưu tập cá nhân đồ sộ nhất từng được biết đến. Nó được Comte D’Artois mua lại vào năm 1785, và ngày nay thuộc về Nhà nước. Nó nằm ở bờ phải của sông Seine, tại Rue de Sully, gần sông, và không xa Place de la Bastille, và được biết đến như là “Bibliothèque de l’Arsenal”. Theo vòng số liệu hiện nay có 700.000 cuốn sách in, và khoảng 8000 bản thảo, trong số đó có nhiều bản có giá trị đáng kể.

Trong số những sách sau đây là Cuốn thánh thuật của pháp sư Abra-Melin, Abraham người Jew truyền lại cho Lamech, con của ông, Mà bây giờ tôi đưa ra công chúng dưới hình thức bản in lần đầu tiên.

Nhiều năm trước, tôi nghe có nghe nói về bản thảo này của một nhà huyền bí học nổi tiếng đã mất từ lâu; Và gần đây người bạn thân thiết của tôi, nhà văn và nhà thơ nổi tiếng người Pháp Jules Bois đã chuyển sang nghiên cứu đề tài huyền bí – đã gợi lại sự chú ý của tôi. Người đưa tin mà tôi đề cập lần đầu tiên đã kể với tôi rằng mọi người đều biết cả Bulwer Lytton lẫn Éliphas Lévi, dựa trên phần mô tả của Sage Rosicrucian Mejnour của Abra-Melin,

Người cung cấp thông tin đầu tiên của tôi nói với tôi rằng cả Bulwer Lytton và Éliphas Lévi đều biết rằng người trước đây đã dựa vào mô tả của ông về Sage Rosicrucian Mejnour trên của Abra-Melin, trong khi tài khoản của cái gọi là Quan sát của Sir Philip Derval trong “Câu chuyện lạ lùng” đã được sao chép từ và được đề xuất bởi cuốn Magical Oratory and Terrace, được đưa ra trong Chương mười một của Cuốn sách thứ hai của tác phẩm này. Chắc chắn cũng là cách giảng dạy mà Mejnour áp dụng trong “Zanoni” đối với Glyndon Neophyte, cùng với việc thử nghiệm để anh ta ở lại một mình trong một cuộc hành trình ngắn và sau đó trở lại bất ngờ, gần giống như của Abra-Melin Với Abraham, với sự khác biệt này, rằng nó đã vượt qua thành công qua thử nghiệm đó, trong khi Glyndon thất bại. Nó cũng sẽ là những thí nghiệm đặc biệt như những gì được mô tả trong Chiều Thứ ba, tác giả của “Câu chuyện lạ lùng” đã được xem xét khi ông làm Sir Philip Derval trong MS. Lịch sử cuộc đời của ông nói về một số móc móc mô tả các thí nghiệm huyền bí, một số trong đó ông đã cố gắng và sự ngạc nhiên của ông đã thành công.

Bản thảo hiếm hoi và độc đáo của Sacred Magic của Abra-Melin, từ tác phẩm hiện tại được dịch ra, là một bản dịch tiếng Pháp từ bản Do Thái gốc của Abraham người Do thái. Đó là theo phong cách kịch bản thường thấy vào khoảng cuối của mười bảy và đầu của thế kỷ thứ mười tám, và dường như bằng một tay giống như một MS khác. Của Magic of Picatrix 1 cũng trong “Bibliothèque de l’Arsenal”. Tôi biết không có bản sao hiện tại hoặc bản sao của phép thuật này của Abra-Melin, thậm chí không ở Bảo tàng Anh, có bộ sưu tập khổng lồ của bản thảo tôi đã nghiên cứu kỹ lưỡng.

Tôi chưa bao giờ nghe qua báo cáo nào về sự tồn tại của bất kỳ bản sao khác. Do đó, khi phổ biến quyển sách này tôi cảm thấy mình đang trao một lợi ích thực sự về Thuyết huyền bí cho các tân sinh Anh và Mỹ, bằng cách đặt trong tầm tay của họ một tác phẩm phép thuật theo chủ nghĩa huyền bí có tầm quan trọng như vậy.

Bản thảo được chia thành ba quyển, mỗi quyển có tiêu đề riêng, được viền đơn giản, bằng mực đỏ và đen, và rõ ràng không có ý định biểu tượng hóa dù ở mức độ nhỏ, mà chỉ đơn giản là công việc của người viết tận tâm muốn tiêu đề sách hoàn chỉnh. Thứ tự chữ của các tiêu đề như sau: “Livre Premier (Thứ hai hoặc Troisième, như trường hợp cụ thể) de la Sacrée Magie que Dieu donna à Moyse, Aaron, David, Salomon et à d’autres Saints Patriarches et Prophetes qui enseigne la vraye sapience Divine laissée par Abraham à Lamech son Fils traduite de l’hébreu 1458 “. Tôi dịch tiêu đề ở phần đầu của mỗi quyển.

Trên trang bìa trắng trong bản gốc MS là những ghi chú bằng chữ viết tay vào cuối thế kỷ thứ mười tám: –

“Tác phẩm này có 3 quyển, và đây là quyển đầu tiên .– Abraham và Lamek, những người đặt câu hỏi, là người Do Thái của thế kỷ mười lăm, và nhiều người biết rằng người Do Thái trong thời kỳ bấy giờ sở hữu Cabala của Solomon được truyền lại để trở thành những Phù thủy và Chiêm tinh gia xuất sắc nhất. ” Tiếp theo sau là một đoạn viết tay khác: –

“Tác phẩm bao gồm ba phần –

Phần 1 – 102 trang
…..2 – 194 …..
…..3 – 117 …..
Tổng cộng: 413
Tháng 6 năm 1883. ”

Phong cách Tiếng Pháp trong văn bản của MS khá mơ hồ và khó hiểu, hầu hết toàn bộ văn bản đều không có chấm câu, cách sắp xếp đoạn văn thật hiếm có. Thậm chí dấu chấm ở cuối câu cũng thường bị bỏ qua, cũng như cái viết hoa đầu câu. Đoạn ví dụ bên dưới được lấy từ Quyển ba, lúc gần cuối sách: ““Cest pourquoy la premiere chose que tu dois faire principalement ates esprits familiers sera de leur commander de ne tedire jamais aucune chose deuxmemes que lorsque tu les interrogeras amoins queles fut pour tavertir des choses qui concerne ton utilite outon prejudice parceque situ ne leur limite pas leparler ils tediront tant etdesi grandes choses quils tofusquiront lentendement et tu ne scaurois aquoy tentenir desorte que dans la confusion des choses ils pourroient te faire prevariquer ettefaire tomber dans des erreurs irreparables ne te fais jamais prier en aucune chose ou tu pourras aider et seccourir tonprochain et nattends pas quil tele demande mais tache descavoir afond,” v.v… Đoạn trích này có thể nói lên công bằng về chất lượng trung bình của Tiếng Pháp. Tuy nhiên, văn phong của quyển đầu tiên thân mật hơn nhiều so với quyển hai và quyển ba, đặc biệt do Abraham truyền cho con trai Lamech, người thứ hai số ít tham gia toàn bộ quá trình. Như một số đọc giả người Anh có thể bỏ qua sự kiện, có lẻ ở đây cần lưu ý rằng tiếng Pháp từ “tu”, (bạn) chỉ được sử dụng giữa hai người bạn thân hoặc có quan hệ như giữa vợ chồng, người yêu,…trong khi “vous” (bạn), chỉ dùng trong xưng hô trang trọng nói chung. Một lần nữa, trong sách thánh, trong bảng kinh cầu nguyện,…từ “vous” được sử dụng, khi chúng tôi dùng từ “bạn” nghe có vẻ trang trong hơn từ “tu”. Do đó động từ “tutoyer” của tiếng Pháp, = “rất quen thuộc, cực kỳ thân với bất kỳ ai, thậm chí đến vô lễ“. Quyền đầu tiên chứa các lời khuyên về Pháp thuật, và những mô tả về hành trình và kinh nghiệm của Abraham, cũng như đề cập đến nhiều công việc kỳ diệu mà ông ta có thể hoàn thành được nhờ vào hệ thống Thánh thuật này. Quyển hai và quyển ba (chứa nội dung pháp thuật của Abra-Melin, và thực hành dựa trên hai MSS mà Abraham, người Do Thái tin tưởng nhưng có thêm phận bình luận phía sau) có văn phong khác với quyển đầu, cách dùng từ kì lạ và có khi mơ hồ, người thứ hai số nhiều, “vous” được sử dụng hầu hết trong sách thay cho “tu”.

Do đó, tác phẩm đại khái có thể phân loại như sau:

    Quyển một: = Lời khuyên và tự truyện; cả hai do tác giả viết cho con trai Lamech.
    Quyển hai: = Mô tả chung và hoàn thiện phương pháp đạt được quyền năng pháp thuật như ý muốn.
    Quyển ba: = Áp dụng quyền năng để tạo ra vô số kết quả pháp thuật.

Mặc dù mỗi chương trong quyển hai và quyển ba đều có đề mục đặc biệt trong văn bản gốc nhưng quyển một lại không có; do đó trong phần “Mục lục” tôi đã bổ sung lỗi này bằng cách phân tích cẩn thận mỗi chủ đề.

Hệ thống pháp thuật thần thánh (thánh thuật) của Abraham thừa nhận rằng Pháp Sư Abra-Melin là người trao truyền; và đích thân ông ta viết ra những kết quả kỳ diệu trong Quyển ba và nhiều điều khác bên cạnh đó.

Vậy Abraham người Do Thái là ai? Mặc dù không có đề cập đến trong MS., có thể ông ta là dòng dõi của Abraham người Do Thái đã viết ra tác phẩm giả kim 21 trang trên giấy papyrus nổi tiếng, sau vào tay của Nicholas Flamem, và những người hậu học cho rằng cuối cùng Nicholas cũng sở hữu được “Hòn đá trí tuệ”. Những gì còn sót lại của ông, Nhà thờ thánh Jacques de la Boucheri, tồn tại đến ngày nay và ngọn tháp gần Place Du Châtelet, mất khoảng mười phút đi bộ từ Bibliothèque de l’Arsenal; và có một con đường gần cái tháp mang tên “Rue Nicolas Flamel”, vì vậy ký ức của ông vẫn còn tồn tại ơ Paris cùng với ngôi Nhà thờ gần nơi ông sống, và sau khi đạt được Hòn Đá Triết Học, ông và vợ là Pernelle đã dựng nên hàng cột bao quanh nhà.

Theo ý kiến bản thân ông, tác giả của tác phẩm hiện tại có vẻ sinh ra vào năm 1362 SCN, và đã viết ra bản thảo này cho con trai mình, Lamech vào năm 1458, là lúc đó ông ấy 96 tuổi. Điều đó có nghĩa là, ông ấy cùng thời với Nicholas Flamel, Pernelle và nhân vật bí ẩn Christian Rosenkreutz, người sáng lập ra Rosicrucian Order (Hội Hồng Hoa Thập Tự) hay Fraternity ở Châu Âu. Ông có vẻ đạt được Kiến Thức Pháp Thuật ở tuổi rất trẻ; giống như ông ấy và Flamel, ông ta bỏ nhà đi tìm Trí Tuệ Khởi Nguyên; giống như cả hai, ông trở về nhà trở thành người kỳ diệu. Ở giai đoạn này, đại đa số hầu như tin rằng Kiến Thức Bí Mật chỉ thực sự đạt được bởi những người sẵn lòng từ bỏ gia đình và quê hương chịu đựng gian khổ và nguy hiểm để đi tìm, và ý kiến này vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Cuộc đời của Bà Blavatsky là một ví dụ điển hình.

Last added 06/28/2020

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không công bố ra bên ngoài. Hoặc bạn có thể đăng nhập bằng tài khoản mạng xã hội để bình luận mà không cần điền tên, địa chỉ mail và trả lời câu hỏi. Required fields are marked *