Chương 5. Tiếng kêu trong hành lang

HIỆN TẠI TOÀN BỘ AUDIO SẼ KO THỂ KHÔI PHỤC TỰ ĐỘNG. Mọi người hãy yêu cầu ở đây, ad sẽ ưu tiên xử lý trước.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.

5. The Cry in the CorridorChương 5. Tiếng kêu trong hành lang
At first each day which passed by for Mary Lennox was exactly like the others.Thoạt đầu, mỗi ngày trôi qua với Mary Lennox cũng giống như mọi ngày khác.
Every morning she awoke in her tapestried room and found Martha kneeling upon the hearth building her fire; every morning she ate her breakfast in the nursery which had nothing amusing in it; Mỗi sáng thức dậy trong căn phòng có tường treo thảm của mình, nó lại thấy Martha đang quỳ trước lò sưởi để nhóm lửa; và sáng nào cũng vậy, nó ngồi ăn bữa sáng trong phòng trẻ chẳng có gì thú vị đó.
and after each breakfast she gazed out of the window across to the huge moor which seemed to spread out on all sides and climb up to the sky, and after she had stared for a while she realized that if she did not go out she would have to stay in and do nothing—and so she went out. Sau bữa sáng, nó lại đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn khắp cánh đồng hoang vô tận đang trải rộng tứ bề như dâng tới tận bầu trời. Chỉ sau khi đã nhìn đăm đắm hồi lâu, nó mới nhận ra rằng nếu không ra khỏi nhà thì chỉ còn biết ngồi lì mà chẳng làm gì hết – và thế là nó ra ngoài.
She did not know that this was the best thing she could have done, and she did not know that, when she began to walk quickly or even run along the paths and down the avenue, she was stirring her slow blood and making herself stronger by fighting with the wind which swept down from the moor. Nó không hề biết rằng đó là điều tốt nhất mà nó có thể làm, và rằng mỗi khi nó bước nhanh hay chạy dọc theo những con đường mòn rồi xuôi ra đường cái, thì nó đang làm cho khí huyết lưu thông, cơ thể khỏe mạnh hơn bằng cách chống chọi với ngọn gió đang thổi đến từ cánh đồng hoang.
She ran only to make herself warm, and she hated the wind which rushed at her face and roared and held her back as if it were some giant she could not see. Nó chạy chỉ để cho nóng người lên, nó thấy ghét ngọn gió cứ phả thốc vào mặt, gầm rú và tóm lấy lưng nó tựa hồ một gã khổng lồ vô hình.
But the big breaths of rough fresh air blown over the heather filled her lungs with something which was good for her whole thin body and whipped some red color into her cheeks and brightened her dull eyes when she did not know anything about it. Nhưng khi hít một hơi thật sâu làn hương tươi mát trong trẻo từ bụi thạch thảo cho đầy hai lá phổi, một điều gì đó thật tốt lành tràn ngập cơ thể gầy gò của nó, khiến hai má nó hồng lên, đôi mắt rầu rĩ của nó trở nên long lanh mà nó không hề hay biết.
But after a few days spent almost entirely out of doors she wakened one morning knowing what it was to be hungry, and when she sat down to her breakfast she did not glance disdainfully at her porridge and push it away, but took up her spoon and began to eat it and went on eating it until her bowl was empty.Sau mấy ngày hầu như toàn ở ngoài trời, một sáng nọ thức dậy nó mới hiểu thế nào là đói, và khi ngồi bên bữa điểm tâm nó không còn liếc nhìn món cháo với vẻ khinh khi rồi đẩy đi, mà cầm lấy thìa xúc ăn ngay, cho đến khi sạch nhẵn.
“Tha’ got on well enough with that this mornin‘, didn’t tha’?” said Martha.- Sáng nay cô ăn ngon miệng đấy chứ, phải không cô? – Martha hỏi.
“It tastes nice today,” said Mary, feeling a little surprised herself.- Hôm nay ăn ngon quá, - Mary đáp, tự nó cũng cảm thấy hơi ngạc nhiên.
“It’s th’ air of th’ moor that’s’ givin’ thee stomach for tha’ victuals,” answered Martha.- Chính khí trời ngoài đồng làm cô thấy đói bụng đấy, - Martha trả lời.
“It’s lucky for thee that tha’s got victuals as well as appetite. – Thực may mắn là cô đã thấy thèm ăn.
There’s been twelve in our cottage as had th’ stomach an’ nothin’ to put in it. Mười hai người trong túp nhà gianh của chúng tôi chẳng lúc nào được đầy bụng.
You go on playin’ you out o’ doors every day an’ you’ll get some flesh on your bones an’ you won’t be so yeller.” Hằng ngày cứ chơi đùa chạy nhảy ngoài trời thì rồi cô sẽ có da có thịt lên đấy, và cô sẽ không còn cái kiểu la lối như vậy nữa.
“I don’t play,” said Mary.- Tôi đâu có chơi.
“I have nothing to play with.” Tôi chẳng có gì để chơi cả.
“Nothin’ to play with!” exclaimed Martha.- Không có gì để chơi ấy à! – Martha thốt lên.
“Our children plays with sticks and stones. – Bọn trẻ nhà tôi có mỗi gậy gộc và đá để chơi thôi.
They just runs about an’ shouts an’ looks at things.” Chúng chỉ biết chạy nhảy, hò hét và nhìn ngắm mọi thứ nơi đây.
Mary did not shout, but she looked at things.Mary không thích hò hét, nhưng nó thích ngắm nhìn cảnh vật.
There was nothing else to do. Vả lại cũng chẳng biết làm gì hơn.
She walked round and round the gardens and wandered about the paths in the park. Nó đi quanh quẩn qua các khu vườn rồi tha thẩn trên những con đường mòn trong vườn.
Sometimes she looked for Ben Weatherstaff, but though several times she saw him at work he was too busy to look at her or was too surly. Thảng hoặc có lúc nó đưa mắt tìm lão Ben Weatherstaff, đã mấy lần nó nhìn thấy lão hì hục làm việc đến nỗi không thèm ngước lên nhìn nó hay lại làm bộ mặt lầm lì.
Once when she was walking toward him he picked up his spade and turned away as if he did it on purpose. Một lần khi nó đang tiến lại phía lão, lão liền nhặt ngay cái mai lên và quay đi, như thể cố ý làm vậy.
One place she went to oftener than to any other.Có một nơi mà nó thường hay lui tới hơn những nơi khác.
It was the long walk outside the gardens with the walls round them. Đó là lối đi dạo dài dằng dặc bên ngoài các khu vườn có tường bao quanh.
There were bare flowerbeds on either side of it and against the walls ivy grew thickly. Hai bên đường là những thảm hoa trơ trụi, dây thường xuân bám dày đặc trên mấy bức tường.
There was one part of the wall where the creeping dark green leaves were more bushy than elsewhere. It seemed as if for a long time that part had been neglected. Có một mảng tường nơi lá cây xanh thẫm rập rạp hơn chỗ khác và dường như bị bỏ quên lâu lắm.
The rest of it had been clipped and made to look neat, but at this lower end of the walk it had not been trimmed at all. Phần còn lại được xén tỉa gọn ghẽ hơn, nhưng ở phía cuối lối đi thì lại không hề được xén tỉa.
A few days after she had talked to Ben Weatherstaff, Mary stopped to notice this and wondered why it was so.Sau hôm nói chuyện với lão Ben độ mấy ngày, Mary cũng chẳng buồn để ý tới điều này và tự hỏi không biết tại sao.
She had just paused and was looking up at a long spray of ivy swinging in the wind when she saw a gleam of scarlet and heard a brilliant chirp, and there, on the top of the wall, perched Ben Weatherstaff’s robin redbreast, tilting forward to look at her with his small head on one side. Vừa lúc ngừng bước ngước nhìn một nhành thường xuân đang đung đưa trước gió, nó thoáng thấy một ánh đỏ tươi cùng tiếng kêu chiếp chiếp trong trẻo, và kìa, con chim ức đỏ của lão Ben Weatherstaff đang đậu ngay trên bờ tường, nghiêng nghiêng cái đầu bé xíu sang bên nhìn con bé.
“Oh!” she cried out, “is it you—is it you?” And it did not seem at all queer to her that she spoke to him as if she were sure that he would understand and answer her.- Ô kìa, - Mary kêu to, - mày đấy ư, mày đấy ư? – Đối với con bé việc nó nói chuyện với chim ức đỏ, như thể con chim sẽ hiểu và đáp lại lời nó không còn kì lạ nữa.
He did answer.Con chim đáp lại.
He twittered and chirped and hopped along the wall as if he were telling her all sorts of things. Nó kêu líu ríu và nhảy dọc bờ tường như đang kể lể cho con bé đủ thứ chuyện trên đời.
It seemed to Mistress Mary as if she understood him, too, though he was not speaking in words. Dù không thể cất nên lời nhưng dường như Cô chủ Mary hiểu điều nó đang muốn nói:
It was as if he said: “Good morning! Isn’t the wind nice? Isn’t the sun nice? Isn’t everything nice? Let us both chirp and hop and twitter.- Chào buổi sáng tốt lành! Gió có mát không? Mặt trời có ấm không? Cảnh vật có đẹp không? Cả hai ta hãy cùng hót cùng nhảy và cùng bay liệng.
Come on! Come on!” Nào, nào!
Mary began to laugh, and as he hopped and took little flights along the wall she ran after him.Mary bắt đầu cười, khi con chim nhảy nhót và bay chuyền dọc bức tường thì con bé chạy theo nó.
Poor little thin, sallow, ugly Mary—she actually looked almost pretty for a moment. Con bé Mary vàng vọt, bé nhỏ và tội nghiệp ấy – hầu như chỉ trong phút chốc đã trở nên xinh xắn lạ thường.
“I like you! I like you!” she cried out, pattering down the walk; and she chirped and tried to whistle, which last she did not know how to do in the least.- Tao cũng yêu mày! Tao yêu mày! – Con bé kêu lên và rảo bước, nó cũng nói líu lo và cố huýt sáo, nhưng cuối cùng nó không biết huýt ra sao nữa.
But the robin seemed to be quite satisfied and chirped and whistled back at her. Hình như con chim ức đỏ đã lấy làm toại nguyện nên nó kêu lên lảnh lót để đáp lời con bé.
At last he spread his wings and made a darting flight to the top of a tree, where he perched and sang loudly. Cuối cùng, nó xòe rộng đôi cánh, bay vút lên ngọn cây cất tiếng hót vang.
That reminded Mary of the first time she had seen him. He had been swinging on a tree-top then and she had been standing in the orchard.Cảnh này khiến Mary nhớ lại buổi đầu nó nhìn thấy con chim, khi nó đang nhún nhảy trên một ngọn cây còn con bé đứng trong vườn quả.
Now she was on the other side of the orchard and standing in the path outside a wall—much lower down—and there was the same tree inside. Bây giờ thì con bé đang ở phía bên kia vườn quả và dừng chân trên con đường mòn phía ngoài bức tường thấp – trong vườn cũng có một cái cây giống hệt như vậy.
“It’s in the garden no one can go into,” she said to herself.“Nó ở trong khu vườn mà không ai có thể vào.” – Nó thầm nhủ.
“It’s the garden without a door. “Đây chính là khu vườn không có cửa.
He lives in there. Con chim sống ở trong đó.
How I wish I could see what it is like!” Ước gì mình có thể vào trong xem sao!”
She ran up the walk to the green door she had entered the first morning.Nó chạy ngược lối đi dạo tới cánh cửa màu xanh mà nó đã vào trong buổi sáng đầu tiên.
Then she ran down the path through the other door and then into the orchard, and when she stood and looked up there was the tree on the other side of the wall, and there was the robin just finishing his song and beginning to preen his feathers with his beak. Đoạn nó chạy tới con đường mòn dẫn thông qua cánh cửa phía bên kia tường, vào vườn quả. Vừa dừng chân và ngước nhìn lên, nó bắt gặp cái cây bên kia tường, nơi con chim ức đỏ vừa ngưng tiếng hót và bắt đầu rỉa lông.
“It is the garden,” she said.- Khu vườn này đây.
“I am sure it is.” Mình chắc thế.
She walked round and looked closely at that side of the orchard wall, but she only found what she had found before—that there was no door in it.Nó dạo quanh và quan sát gần hơn phía bên này bức tường khu vườn quả, nhưng chỉ phát hiện ra những điều đã thấy bữa trước: đó là không có cánh cửa nào để vào trong đó.
Then she ran through the kitchen-gardens again and out into the walk outside the long ivy-covered wall, and she walked to the end of it and looked at it, but there was no door; and then she walked to the other end, looking again, but there was no door. Nó lại chạy qua vườn rau nhà bếp lần nữa, rồi đi dạo ra bên ngoài bức tường dài phủ đầy cây thường xuân. Nó đến phía cuối tường để quan sát, vẫn không thấy cánh cửa nào hết, nó lại đi về phía cuối một bức tường khác, nhìn ngó, nhưng cũng chẳng gặp một cánh cửa nào.
“It’s very queer,” she said.- Thật hết sức kỳ quặc, - nó thầm nhủ.
“Ben Weatherstaff said there was no door and there is no door. – Ông Ben Weatherstaff đã nói là không có cửa và đúng là không có cửa thật.
But there must have been one ten years ago, because Mr. Craven buried the key.” Nhưng mười năm về trước thì có, bởi vì ông Craven đã chôn giấu chìa khóa kia mà.
This gave her so much to think of that she began to be quite interested and feel that she was not sorry that she had come to Misselthwaite Manor.Điều đó khiến nó suy nghĩ rất lung, đến độ nó bắt đầu thấy hứng thú và thôi không hối tiếc vì đã đến Trang viên Misselthwaite.
In India she had always felt hot and too languid to care much about anything. Hồi ở Ấn Độ, lúc nào nó cũng thấy nóng nực và uể oải nên chẳng mất quan tâm đến gì khác.
The fact was that the fresh wind from the moor had begun to blow the cobwebs out of her young brain and to waken her up a little. Sự thực là làn gió trong lành ngoài đồng hoang đã bắt đầu thổi tung tấm màng bao phủ bộ não non nớt của nó, làm thức tỉnh con bé đôi chút.
She stayed out of doors nearly all day, and when she sat down to her supper at night she felt hungry and drowsy and comfortable.Con bé ở ngoài trời gần như cả ngày, nên khi ngồi vào bàn dùng bữa tối thì nó cảm thấy đói ngấu, lơ mơ buồn ngủ và vô cùng dễ chịu.
She did not feel cross when Martha chattered away. She felt as if she rather liked to hear her, and at last she thought she would ask her a question. Nó không thấy bực khi Martha tán gẫu, nó còn thích nghe chị nói đằng khác, cuối cùng nó nghĩ cần phải hỏi chị một việc cho ra nhẽ.
She asked it after she had finished her supper and had sat down on the hearth-rug before the fire. Sau khi đã ăn uống xong xuôi, lại ngồi trên tấm thảm trải trước lò sưởi, nó mới lên tiếng.
“Why did Mr. Craven hate the garden?” she said.- Tại sao ông Craven lại ghét khu vườn ấy hả chị?
She had made Martha stay with her and Martha had not objected at all.Nó đã bảo Martha ở lại với nó, Martha cũng không phản đối.
She was very young, and used to a crowded cottage full of brothers and sisters, and she found it dull in the great servants’ hall downstairs where the footman and upper-housemaids made fun of her Yorkshire speech and looked upon her as a common little thing, and sat and whispered among themselves. Chị còn rất trẻ, đã quen với túp lều gianh chật ních em trai em gái của mình, chị cảm thấy buồn tẻ nơi căn phòng lớn dành cho gia nhân ở tầng trệt, nơi có bọn hầu trai và hầu gái thường xuyên giễu cợt lối nói nặng âm giọng Yorshire của chị, coi chị như một thứ vặt vãnh, tầm thường rồi thì thào đàm tiếu với nhau.
Martha liked to talk, and the strange child who had lived in India, and been waited upon by “blacks,” was novelty enough to attract her. Martha hay chuyện, và đứa trẻ kỳ cục từng sống ở Ấn Độ và được những người “da đen” phục dịch kia chính là sự mới lạ đầy cuốn hút với chị.
She sat down on the hearth herself without waiting to be asked.Không đợi phải bảo thêm, chị ngồi xuống bên lò sưởi.
“Art tha’ thinkin’ about that garden yet?” she said.- Cô đang suy nghĩ về khu vườn chứ gì? – Chị hỏi.
“I knew tha’ would. – Tôi biết cô đang nghĩ về nó mà.
That was just the way with me when I first heard about it.” Lần đầu tiên nghe nói về nó, tôi cũng vậy.
“Why did he hate it?” Mary persisted.- Tại sao ông ấy lại ghét khu vườn? – Mary gặng hỏi.
Martha tucked her feet under her and made herself quite comfortable.Martha thu chân và ngồi lại cho thoải mái.
“Listen to th’ wind wutherin’ round the house,” she said.- Hãy lắng nghe tiếng gió hú ào ào quanh nhà, - chị nói.
“You could bare stand up on the moor if you was out on it tonight.” – Liệu cô có thể phơi mình ngoài cánh đồng hoang nếu cô ra ngoài đêm nay?
Mary did not know what “wutherin’ ” meant until she listened, and then she understood.Mary không biết “hú” có nghĩa là gì, cho tới khi nó gióng tai lên nghe và hiểu ra.
It must mean that hollow shuddering sort of roar which rushed round and round the house as if the giant no one could see were buffeting it and beating at the walls and windows to try to break in. Đó nghĩa là một thứ tiếng gầm rú ghê rợn ầm ào cuộn quanh nhà, tưởng như có gã khổng lồ vô hình đang quật mạnh vào ngôi nhà, vào các bức tường và cửa sổ, cố xông vào trong.
But one knew he could not get in, and somehow it made one feel very safe and warm inside a room with a red coal fire. Nhưng ta thừa biết gã không thể vào được, và điều đó khiến ta cảm thấy an toàn, ấm áp lúc đang ngồi trong phòng bên ngọn lửa hồng.
“But why did he hate it so?” she asked, after she had listened.- Nhưng tại sao ông ấy lại ghét nó đến thế? – Con bé hỏi lại sau khi đã lắng nghe.
She intended to know if Martha did. Nó muốn biết nếu Martha chịu nói.
Then Martha gave up her store of knowledge. Martha thấy vậy bèn phô luôn cả một mớ hiểu biết.
“Mind,” she said, “Mrs. Medlock said it’s not to be talked about.- Xin cô nhớ cho kỹ, - chị nói, - bà Medlock đã dặn chuyện này không được kể lung tung.
There’s lots o’ things in this place that’s not to be talked over. Nhiều chuyện ở đây không được bàn tán xì xào.
That’s Mr. Craven’s orders. Đó là lệnh của ông Craven.
His troubles are none servants’ business, he says. Ông ấy bảo những vấn đề của ông không phải là việc của gia nhân.
But for th’ garden he wouldn’t be like he is. Còn đối với khu vườn thì ông cũng không ưa nốt.
It was Mrs. Craven’s garden that she had made when first they were married an’ she just loved it, an’ they used to ‘tend the flowers themselves. Đó là khu vườn của bà Craven mà bà đã gây dựng từ hồi họ mới cưới. Bà yêu nó lắm, và họ thường tự tay chăm sóc hoa trong đó.
An’ none o’ th’ gardeners was ever let to go in. Vả lại cũng chẳng người làm vườn nào được phép vào đó.
Him an’ her used to go in an’ shut th’ door an’ stay there hours an’ hours, readin’ and talkin’. Hai ông bà thường đến thăm vườn, họ đóng cửa và ở đó giờ này sang giờ khác, hết đọc sách lại chuyện trò.
Bấy giờ bà mới đương tuổi thanh xuân.
An’ she was just a bit of a girl an’ there was an old tree with a branch bent like a seat on it. An’ she made roses grow over it an’ she used to sit there. Sẵn có cái cây già ngả cành nom tựa một chỗ ngồi, bà bèn vắt mấy nhánh hồng cho leo lên cái cành ấy, và thường ngồi ở đấy chơi.
But one day when she was sittin’ there th’ branch broke an’ she fell on th’ ground an’ was hurt so bad that next day she died. Rồi một ngày khi bà đang ngồi thì cành cây gẫy và bà ngã vật xuống đất, bị thương nặng đến nỗi hôm sau thì qua đời.
Th’ doctors thought he’d go out o’ his mind an’ die, too. Các bác sĩ đều nghĩ ông sẽ loạn óc và cũng chết theo.
That’s why he hates it. Đấy là lý do khiến ông căm ghét khu vườn.
No one’s never gone in since, an’ he won’t let any one talk about it.” Từ bấy đến nay, không một ai bước chân vào đó nữa, và ông cũng không cho phép ai được nói về nó.
Mary did not ask any more questions.Mary không hỏi gì thêm.
She looked at the red fire and listened to the wind “wutherin’” Nó nhìn ngọn lửa cháy rừng rực, lắng nghe tiếng gió “hú”.
It seemed to be “wutherin’ louder than ever. Hình như gió đang “hú” to hơn bao giờ hết.
At that moment a very good thing was happening to her.Chính lúc đó, một điều tuyệt vời xảy đến với nó.
Four good things had happened to her, in fact, since she came to Misselthwaite Manor. She had felt as if she had understood a robin and that he had understood her; she had run in the wind until her blood had grown warm; she had been healthily hungry for the first time in her life; and she had found out what it was to be sorry for some one.Sự thực, từ ngày nó đặt chân đến Trang viên Misselthwaite, có bốn điều làm nó thấy dễ chịu: nó cảm thấy nó rất hiểu con chim ức đỏ và con vật cũng hiểu nó; nó được chạy nhảy giữa làn gió lộng, khí huyết lưu thông, thân thể khỏe mạnh; lần đầu tiên trong đời nó biết thế nào là đói; và rồi nó còn khám phá ra cái cảm giác thương cảm cho một người khác là như thế nào.
Cứ đà này thì nó sẽ còn khá hơn nữa.
But as she was listening to the wind she began to listen to something else.Giữa tiếng gió gào rít, con bé chợt nghe thấy một tiếng gì khác lạ.
She did not know what it was, because at first she could scarcely distinguish it from the wind itself. Nó không biết đó là cái gì, bởi lẽ thoạt đầu khó lòng phân biệt được âm thanh đó với chính tiếng gió.
It was a curious sound—it seemed almost as if a child were crying somewhere. Quả là một thứ âm thanh khác thường, nghe như tiếng một đứa trẻ đang khóc đâu đây.
Sometimes the wind sounded rather like a child crying, but presently Mistress Mary felt quite sure this sound was inside the house, not outside it. Đôi lúc tiếng gió nổi lên tựa như tiếng trẻ khóc, nhưng chính lúc ấy Cô chủ Mary cảm thấy hoàn toàn chắc chắn âm thanh này phát ra từ bên trong chứ không phải bên ngoài ngôi nhà.
It was far away, but it was inside. Lúc xa, lúc gần.
She turned round and looked at Martha. Nó nhớn nhác rồi nhìn thẳng vào Martha.
“Do you hear any one crying?” she said.- Chị có nghe tiếng ai khóc không? – Nó hỏi.
Martha suddenly looked confused. Đột nhiên, Martha bối rối.
“No,” she answered.- Không, - chị đáp.
“It’s th’ wind. – Chẳng qua là tiếng gió.
Sometimes it sounds like as if some one was lost on th’ moor an’ wailin’. Thỉnh thoảng nghe như tiếng ai bị lạc trên cánh đồng hoang đang kêu gào, than khóc.
It’s got all sorts o’ sounds.” Chính gió tạo ra những âm thanh ấy đấy.
“But listen,” said Mary. “It’s in the house—down one of those long corridors.”- Nhưng nghe này, - Mary bảo, - âm thanh phát ra từ trong nhà kia, chỉ một trong các hành lang này thôi.
And at that very moment a door must have been opened somewhere downstairs; for a great rushing draft blew along the passage and the door of the room they sat in was blown open with a crash, and as they both jumped to their feet the light was blown out and the crying sound was swept down the far corridor so that it was to be heard more plainly than ever.Và ngay lúc đó, có tiếng cánh cửa bật tung đâu đó nơi tầng dưới, một luồng gió lùa ào vào thốc dọc lối đi. Cánh cửa căn phòng họ đang ngồi bật mở phát ra một tiếng khô khốc, cả hai đều bật dậy. Đèn vụ tắt, tiếng than khóc vang lên từ cuối hành lang nghe còn rõ hơn cả ban đầu.
“There!” said Mary.- Đấy! – Mary thốt lên.
“I told you so! It is some one crying—and it isn’t a grown-up person.” – Tôi đã bảo chị mà! Rõ ràng có ai đang khóc, và đó không phải tiếng của người lớn.
Martha ran and shut the door and turned the key, but before she did it they both heard the sound of a door in some far passage shutting with a bang, and then everything was quiet, for even the wind ceased “wutherin’ ” for a few moments.Martha chạy ù ra đóng cửa rồi xoay chìa khóa, nhưng trước lúc chị kịp làm việc đó thì cả hai lại nghe thấy tiếng cánh cửa ở một lối đi đầu đằng kia sập lại đánh rầm, rồi tất cả trở nên yên ắng, thậm chí tiếng gió cũng ngừng “hú” trong giây lát.
“It was th’ wind,” said Martha stubbornly.- Tiếng gió đấy mà, - Martha vẫn nói vẻ ương ngạnh.
“An’ if it wasn’t, it was little Betty Butterworth, th’ scullery-maid. – Và nếu không phải thế thì hẳn là con bé Betty Butterworth hầu gái ở phòng rửa bát thôi.
She’s had th’ toothache all day.” Con bé kêu đau răng cả ngày hôm nay.
But something troubled and awkward in her manner made Mistress Mary stare very hard at her.Nhưng vẻ mặt lo lắng và bộ dạng lúng túng của chị khiến Cô chủ Mary nhìn chị chằm chằm.
She did not believe she was speaking the truth. Nó không tin chị nói thật.