Nguyên văn từ The sacred magick of Abramelin the Mage
Được Thượng Đế giao cho Moses, Aaron, David, Solomon,
và những vị thánh, nhà tiên tri, giáo chủ khác, truyền dạy
trí tuệ thần thánh chân chính.
Dịch từ tiếng Do Thái
1458
QUYỂN THỨ NHẤT CỦA PHÉP THÁNH
Mặc dù quyển một giống như lời mở đầu hơn là những quy tắc thật sự để đạt được pháp thuật thần thánh; tuy nhiên, con trai ta Lamech, con sẽ tìm thấy được những ví dụ nhất định và những vấn đề khác trong đó mà không cái nào là không hữu dụng và có lợi ích cho con hơn điều luật mà ta sẽ cho con trong quyển hai và quyển ba. Do đó, con không được phép lơ đểnh nghiên cứu quyển một này, sẽ giúp cho con phần giới thiệu đến phép thánh thật sự và thực hành những việc của ta ABRAHAM, CON TRAI CỦA SIMON, đã học được từ cha của ta một phần, và một phần từ những người trí tuệ và khả tín, và những sự thật ta tìm thấy, đã được kiểm chứng và thực nghiệm. Và chính tay ta tự viết những dòng này, ta đặt nó trong hộp, khóa kỹ, như bảo vật quý giá nhất, để phòng khi con đến tuổi trưởng thành, con có thể nhìn nhận, khâm phục và vui hưởng điều kỳ diệu của Thiên Chúa (Thượng Đế); cũng như của anh trai con Joseph, đứa con trưởng đã nhận được truyền thống thần thánh của Qabalah.
Lamech, nếu con muốn biết lý do vì sao ta đưa cho con quyển này, là vì nếu con biết điều kiện của con, đữa được sinh ra là con út, do đó con sẽ biết đó là số phận của con; và ta có lẻ phạm sai lầm lớn nếu ta tước đi đặc ân của con mà Thượng Đế ban cho ta sự giàu có và lòng khoan hồng. Ta sẽ cố gắng hết sức để tránh những từ ngữ rườm rà trong quyển một này; cô độc trong cái nhìn cổ xưa của môn khoa học không thể nghi nhờ và đáng kính này. Và nhìn thấy sự thật đó không cần khải thị và giải thích, nó đơn giản và thật thà, chỉ cần con ngoan ngoãn theo lời ta nói, tự hài lòng bản thân với sự đơn giản, con sẽ thiện lành và ngay thẳng, và con sẽ được giàu có hơn những gì ta có thể hứa với con. Cầu mong Chúa Thánh Khiết và Duy nhất ban cho con tất cả điều này, ân sủng cần thiết để có thể hiểu được và thâm nhập những bí ẩn tối cao của Qabala và Định Luật; nhưng chúng nên tự hài lòng với những gì Chúa đã ban cho chúng; giả như nếu chúng chống lại ý muốn của Đấng Thánh Thần, họ cũng sẽ bay cao hơn thậm chí như Lucifer, nhưng việc này làm họ xấu hổ và thất bại đau đớn hơn. Do đó, cần phải cực kỳ thận trọng và xem xét Ý ĐỊNH ta mô tả phương pháp hoạt động này; bởi vì xét thấy tuổi trẻ tuyệt vời của con mà ta không muốn làm gì khác hơn khuyến khích con nghiên cứu về thánh thuật này. Nhưng phương pháp đạt được sẽ đến sau, hoàn hảo mọi mặt, và vào đúng thời điểm nhất; vì chúng sẽ được dạy bởi những vị thầy giỏi hơn ta, điều đó có nghĩa là, chính những Thiên Thần của Chúa. Không ai sanh ra trong thế giới này đã làm Thầy, vì lý do ấy chúng buộc phải học. Vì vậy kẻ dấn thân vào đường học vấn, nghiên cứu; và người đó có thể không có mang tiếng ác và xấu xa và hơn một người không biết gì.
Do đó, ta thú thật rằng ta khi sanh ra cũng không phải là một vị Thầy; cũng như không phải ta tự phát minh ra môn khoa học này dù ta sở hữu khả năng thiên tài; nhưng ta đã học nó từ những người khác mà sau đây ta sẽ kể cho con nghe sự thật.
Cha ta, SIMON, chẳng bao lâu sau khi ông qua đời, đã cho ta một số dấu hiệu và chỉ cho ta những phương pháp cần thiết để đạt được Qabalah Thần Thánh; tuy nhiên sự thật rằng ông ta đã không thể nhập vào Bí Ẩn Thiêng Liêng bằng con đường thậy sự, và ta không thể làm thế nào hiểu được đầy đủ và trọn vẹn như được yêu cầu. Cha ta luôn hài lòng và thỏa mãn với phương pháp hiểu như thế, ông ta không tìm kiếm thêm Khoa Học Xác Thực và Môn Pháp thuật, mà ta đảm nhận việc dạy lại và cắt nghĩa cho con.
Sau khi ông chết, lúc đó ta hai mươi tuổi, ta có niềm đam mê mãnh liệt tìm hiểu về Bí Ẩn Thật Sự của Thượng Đế, nhưng với khả năng của bản thân ta không thể nào đi đến cuối con đường mà ya dự định.
Ta biết ở Mayence có vị giáo sĩ là bậc hiền thánh, và có người đồn rằng ông sở hữu trí tuệ thiêng liêng. Niềm ao ước được đi học khiến ta đi tìm ông ấy. Nhưng ông ta cũng là người xấu vì ông không nhận được quà tặng từ Thượng Đế, hồng ân trọn vẹn, bởi vì ông ta tự buộc bản thân hiển lộ cho ta xem một vài bí ẩn của Qabala, bằng cách nào đó mà ông ta đạt được mục đích và pháp thuật của ông ta không phải đến từ Trí Tuệ của Thượng Đế thay vào đó nó xuất phát từ một số môn mê tín của những quốc gia không tín ngưỡng sùng bái tà thần, một phần có nguồn gốc từ Hy Lạp, một phần từ người Medes và người Ba Tư (tên cũ của Iran), cùng với thảo dược của Người Ả Rập và sức mạnh của những vì sao hợp thành; và cuối cùng ông ta học từ mỗi dân tộc và mỗi quốc gia, thậm chí từ Thiên Chúa giáo và một số môn của Tà giáo. Và các tà thần đã che mắt ông ấy đến mức như vậy, ông ta tin rằng sự mù quáng và sai lầm của ông ta là Pháp Thuật thật sự và do đó ông ấy đã không nghiên cứu thêm về thánh thuật thật sự. Ta cũng học được kinh nghiệm hoang phí của ông ta, trong mười năm ta chôn mình trong lỗi lầm, sau mười năm đó ta đến căn nhà của vị Cổ Thánh ở Hy Lạp, ông ta tên là ABRAMELIN, người đã đặt ta lên trên con đường Thật Sự và hướng dẫn giáo lý cho ta hay hơn tất cả những người khác, mà ta sẽ kể cho con nghe sau đây; nhưng đặc ân này do Đấng Cha Lành và Quyền Năng của vạn vật ban cho ta, nghĩa là Đấng Thượng Đế tối cao, từng chút từng chút một soi sáng cho ta hiểu và khai thị cho ta để ta thấy biết, chiêm nghiệm và tìm kiếm Trí Tuệ Thiêng Liêng của Ngài, theo cách ấy ta có thể hiểu thêm càng ngày càng nhiều Bí Ẩn Thiêng Liêng khi ta đã nhập vào kiến thức của các Thánh Thiên Thần, tận tưởng hình ảnh và trò chuyện của họ, sau này ta nhận được nền tảng của Pháp Thuật Thật Sự từ các Đấng ấy, như làm thế nào để ra lệnh và sai khiến các quỷ thần. Để kết thúc chương này ta không thể nói khác rằng ta nhận sử chỉ dạy chân thật từ Abramelin và ta nhận được pháp thuật bất hoại và chân thật từ các thánh thiên thần của Thượng Đế.
Ta đã nói trong chương trước rằng chẳng bao lâu sau cái chết của cha ta, ta buộc bản thân phải nghiên cứu Trí Tuệ Thật Sư và Bí Ẩn của Thượng Đế. Giờ trong chương này, ta sẽ đề cập ngắn gọn những nơi và quốc gia mà ta đã đi qua trong những nổ lực học hỏi những điều tốt. Và ta làm thế để có thể giúp con có nguyên tắc và ví dụ để con không phải lãng phí tuổi trẻ để theo đuổi những thứ vô ích và tầm thường như những bé gái ngồi quanh lò sưởi. Bởi vì không có gì đau thương và vô dụng hơn đối với người đàn ông thấy mình ngu dốt mọi mặt. Y đã làm, đi học nhiều và y không biết cách nào để điều khiển bản thân khi rời xa quê hương, lại sẽ càng biết ít hơn khi ở trong căn nhà của chính mình. Ta ở đó, sau khi cha chết, cùng với các anh chị em, ta đã cẩn thận học cách làm thế nào có lợi nhất với những gì cha truyền lại cho ta sau khi ông chết; và nhận thấy rằng ta không đủ khả năng duy trì các chi phí mà ta buộc phải có, sau khi sắp xếp chuyện cá nhân và công việc cũng như sức khỏe cho phép; ta lên đường đến Vormatia rồi đi Mayence, để tìm vị giáo sĩ có tuổi tên Moses, với hy vọng rằng tìm thì sẽ gặp. Như ta đã nói trong chương trước, khoa học của ông ấy không có nền tảng như Trí Tuệ Thiêng Liêng Thật Sự. Ta đã ở với ông ấy hết bốn năm, thật đau khổ khi lãng phí ngần ấy thời gian ở đó, ta tự thuyết phục bản thân rằng ta đã học tất cả những gì ta muốn biết và ta nghĩ đến việc trở về nhà cha, khi đó ta gặp người nam trẻ tuổi cùng môn phái, tên SAMUEL, người xứ Bohemia, phong cách và lối sống của y cho ta thấy y muốn sống, và chết trong con đường của Chúa và theo pháp luật của Chúa; ta cảm thấy có mối liên kết mạnh mẽ với y mà ta cho y biết tất cả ý định của bản thân. Y muốn đi về Constaninople để hội họp với một người anh em khác và sau đó tiến vào vùng đất Thánh nơi tổ tiên chúng ta đã từng sống, vì những hành động sai trái và lỗi lầm to lớn mà chúng ta bị Thượng Đế đuổi khỏi vùng đất ấy.
Ý muốn của y rất mãnh liệt, ta thấy được trong khoảng khắc y muốn ta làm quen với kế hoạch của y, ta cảm thấy rất muốn theo y trong chuyến hành trình và ta tin rằng Đấng Thượng Đế Toàn Năng muốn thức tỉnh ta bằng cách này, vì ta không thể dựa lưng cho đến khi có lời hứa của người còn lại rằng sẽ đi cùng nhau.
Vào ngày 13 tháng 02, vào năm 1397, bọn ta bắt đầu cuộc hành trình, vượt qua Đức, Bohemia, Áo và sau đó Hungary và Hy lạp, vào Constaninople, bọn ta ở lại đó hai năm và nếu Samuel không bị chết do cơn bạo bệnh thì ta cũng sẽ không bỏ đi. Thấy mình cô đơn, nỗi ham muốn đi chu du lại chiếm lấy ta, ta lang thang từ nơi này đến nơi khác, cho đến khi ta tới Ai Cập, liên tục di chuyển theo hướng này hoặc hướng khác trong bốn năm, ta càng luyện pháp thuật của RABBIN MOSES, thì ta càng cảm thấy không hài lòng. Chuyến hành trình dẫn ta đến đất nước cổ xưa của chúng ta, ta ở lại đó một năm, nơi đó không nghe thấy gì ngoài đau khổ, bất hạnh, và thiên tai. Sau một khoảng thời gian ở đó ta tìm thấy một người Thiên chúa giáo cũng đang đi tìm thứ ta đang tìm. Thế là bọn ta thỏa thuận với nhau, sẽ đi vào khu vực sa mạc của Ả rập để tìm kiếm những gì mà chúng ta ước muốn mãnh liệt; cảm thấy an tâm vì có người nói rằng, nơi đó có những người học rộng hiểu nhiều, đang sống trong đó để nghiên cứu mà không bị quấy rầy, để dâng hiến bản thân cho môn pháp thuật mà chính chúng ta đang tìm kiếm; nhưng khi bọn ta đến đó không tìm thấy thứ gì đáng để chú ý ngoài rắc rối, lúc ấy trong đầu tư nảy ra tư tưởng không muốn tiến sâu hơn nữa mà trở về nhà mình. Ta nói ý định của mình cho người bạn đi cùng biết nhưng phần anh ta vẫn đi tìm vì muốn theo đuổi sự nghiệp và tìm kiếm tương lai tốt cho mình; thế là ta chuẩn bị trở về.
Trên đường trở về ta bắt đầu suy nghĩ lại khoảng thời gian mà ta đánh mất trong hành trình và cái giá to lớn mà ta gánh chịu, không học được bất kỳ thứ gì ta yêu thích thứ khiến ta bỏ công để ra đi. Tuy nhiên, ta tìm được giải pháp khi trở về nhà, rời khỏi sa mạc Ả Rập bằng đường Palestine, đi vào Ai Cập; ta đi trong sáu tháng. Cuối cùng, đến thị trấn nhỏ tên là ARACHI, nằm trên bờ sông Nile, nơi ta tá túc cùng với ông lão Do Thái tên AARON, ta từng ở nơi đây trước khi đi; ta nói với ông ấy về cảm xúc của mình. Ông ta ta hỏi ta thành công như thế nào và ta có tìm được thứ ta cần tìm chưa. Ta trả lời trong sầu não ta hoàn toàn không làm được gì rồi ta thuật lại những sự vất vả và khó khăn ta đã chịu, ta không thể cầm được nước mắt khi kể lại những ngày đó vì thế ông lão rủ lòng thương và an ủi ta, ông kể cho ta nghe trong sa mạc cách thị trấn ARACHI không xa có người đàn ông sùng đạo, học rộng tên là ABRAMELINO và ông lão khích lệ ta vì ta đã làm rất nhiều việc vậy hãy đi tìm gặp ông ấy thử xem, có lẽ Thượng Đế lòng lành đã soi xét đến ta và cho ta đạt được điều ước, dường như ta đang nghe tiếng nói nhưng không phải của con người mà là của một vị thánh, ta cảm nhận được niềm hạnh phúc trong tim mà không thể diễn tả bằng lời. Ta đi liên tục không nghỉ ngơi cho đến khi ARRON tìm được người khác dẫn ta đi đến con đường gần nhất, đi trên các mịn suốt ba ngày rưỡi mà không nhìn thấy bóng người cuối cùng ta cũng đến chân ngọn đồi thấp, được bao quanh toàn cây. Người dẫn đường nói rằng: – “Trong khu rừng nhỏ này là người mà ông muốn tìm;” và chỉ ta hướng đi vì cậu ấy không muốn đi theo ta nữa, cậu ấy để ta ở lại và trở về cùng với con la chở lượng thực cho bọn ta, bằng con đường đã đi qua. Thấy mình trong tình trạng này, ta không nghĩ ra cách nào khác hơn cầu xin sự dẫn dắt của Thượng Đế bằng cách kêu thánh danh của Người, sau đó Người đã ban cho ta hồng ân, chỉ lối cho ta đi về phía trước, ta nhìn thấy người đàn ông đạo mạo tiến về phía ta, chào ta bằng ngôn ngữ Chaldea một cách yêu thương, mời ta theo ông vào nhà; ta chấp nhận lời mời một cách lịch sự cùng với niềm vui sướng khôn cùng, nhận ra trong khoảng khác đó thật vĩ đại biết bao về sự dẫn dắt của Thượng Đế. Lão ông rất lịch sự và cư xử với ta rất tử tế, trong suốt nhiều ngày ông không bao giờ nói điều gì khác với ta ngoài chuyện hãy kính sợ Chúa, khích lệ ta phải làm chủ cuộc sống tốt, và thỉnh thoảng bảo cho ta biết những sai lầm nhất định mà con người yếu ớt sẽ phạm phải, hơn nữa ông giúp ta hiểu rằng ông ấy là người không thích tích trữ của cải vật chất theo cách mà chúng ta thường làm đối với xã hội như cho vay nặng lãi làm hại đến xóm làng. Ông ấy yêu cầu ta hứa một cách long trọng để thay đổi lối sống, không sống theo những đạo lý giả dối mà sống trong con đường và luật pháp của Thượng Đế. Lời hứa ấy ta tuân thủ không vi phạm, và sau này sống giữa những người bà con và Do Thái khác, ta đã vượt qua những kẻ xấu và ngu muội; ta tự nói với chính mình: “Hãy để ý muốn của Thượng Đế được hoàn thành, và đừng tôn trọng kẻ quay lưng với chúng ta từ con đường đúng đắn, để nhìn thấy được người đó là kẻ dối trá”.
Như trước đó đã nói ABRAMELIN biết rõ niềm ao ước học tập của ta, ông đưa ta hai quyển sách viết tay, hình thức giống như ta sắp truyền lại cho con, LAMECH, con ta; nhưng nó rất khó hiểu; ông ấy yêu cầu ta tự sao chép lại cẩn thận, ta làm theo, và xem xét tỉ mỉ giữa hai bản. Và ông hỏi ta có tiền không, ta đáp “có”. Ông nói với ta rằng ông cần mười đồng Florin vàng, vì ông ấy phải tuân theo mệnh lệnh Thượng Đế chỉ dạy cho ông, bố thí cho hai mươi người nghèo tụng một số bài thánh thi nhất định; và để giữ lễ ngày thứ bảy, ngày lễ Sabbath, ông khởi hành đi ARACHI, bởi vì phải chính ông phân phát số tiền đó. Và ông buộc ta ăn kiêng trong ba ngày, nghĩa là ngày thứ tư, thứ năm và thứ sáu cùng với những điều sau: phải biết thỏa mãn với bữa cơm duy nhất trong ngày, dù trong ấy không có máu hay thịt; và ông cũng ra lệnh cho ta phải thực hành cho chính xác, không được thất bại dù một phần nhỏ, vì để mọi thứ được suôn sẻ ngay lúc đầu là rất cần thiết và ông dạy ta tụng bảy bài thánh vịnh của David một lần duy nhất trong ba ngày này; và không được phép làm những hành động gì hèn hạ. Ngày đến ông lên đường, mang theo số tiền mà ta đưa. Ta tín cẩn tuân lệnh ông, thực hiện từng điều mà ông buộc ta làm. Mười lăm ngày sau ông trở về, khi vừa về đến ông ra lệnh cho ta ngày hôm sau (là ngày thứ ba), trước lúc mặt trời mọc, hãy khiêm tốn và hết lòng thú tội tất cả việc làm trong đời với Thượng Đế, hãy cứng rắn, thành thật để phụng sự và kính thờ Ngài hơn cả trong quá khứ, và xin được sống chết cùng Thánh Luật của Ngài, vâng lời Ngài. Ta thực hiện thú tội với tất cả lòng thành và nghiêm ngặt nhất có thể cho đến khi mặt trời gần xế bóng; ngày hôm sau ta đến trình diện với ABRAMELIN, với nụ cười trên mặt và nói với ta: “Đó là do ta có con”.
Sau đó ông dẫn ta vào căn phòng của ông, ở đó ta lấy ra hai quyển sách chép tay; ông hỏi ta có thiệt tình và không sợ, ta ao ước Khoa Học Thiêng Liêng và Pháp Thuật Thật Sự (chân pháp). Ta trả lời ông rằng đó là động cơ duy nhất và cuối cùng khiến ta chịu bao gian khổ về khó khăn để có thể nhìn thấy được hồng ân của Thượng Đế ngày hôm nay. ABRAMELIN nói “Và ta, tin vào lòng nhân từ của Thượng Đế, ta ban cho con môn Khoa Học Thiêng Liêng này, mà con phải tuân thủ những gì được viết trong hai quyển này, không dược bỏ xót bất kỳ nội dung nào trong đó dù con nghĩ là nhỏ mọn; và không được phê bình hay chú thích những gì có thể hay không thể; vì người họa sĩ tạo ra tác phẩm đó không ai khác chính là Thượng Đế từ Hư Không đã tạo ra vạn vật. Con không được phép sử dụng môn Khoa Học Thiêng Liêng này để xúc phạm đến Thượng Đế vĩ đại, và làm hại kẻ láng giềng của con; con không được phép truyền lại với bất kỳ người sống nào mà con không biết rõ họ dù đã sau nhiều lần trò chuyện và luyện tập, phải xem xét cẩn thận người đó có ý định làm việc cho cái Thiện hay cho cái Ác. Và nếu con muốn truyền cho người đó, con phải quan sát kỹ càng, người đó phải giống như con, giống như ta đã truyền lại cho con. Và nếu con không làm đúng như vậy, hắn cũng không đạt được kết quả gì từ đó. Con hãy tránh như tránh rắn độc, tránh mua bán môn khoa học này; bởi vì Hồng ân Thượng Đế chỉ ban cho chúng ta một cách tự do và không tiền bạc và chúng ta sẽ rất ngu dốt nếu làm thế. Môn khoa học xác thực này được ở với con và thế hệ của con bảy mươi hai năm, và sau đó không còn trong môn phái của chúng ta nữa. Đừng để sự tò mò của con thúc đẩy con tìm kiếm nguyên nhân chuyện này nhưng con hãy tự nghĩ rằng chúng ta tốt, môn phái của chúng ta không thể giúp đỡ được toàn thể nhân loại – vâng, thậm chí chính cả Chúa”. Khi nhận được hai quyển sách viết tay này, ta ước muốn quỳ xuống dưới chân ông nhưng ông quở rằng chúng ta chỉ nên quỳ lại trước Thượng Đế mà thôi.
Ta thề hai quyển sách này được viết chính xác, cho con, con trai ta LAMECH, có thể xem sau khi ta chết và con sẽ biết được ta thương con đến mức nào. Sự thật trước khi ta ra đi, ta đã đọc và nghiên cứu kỹ lưỡng, và nếu tìm thấy chỗ nào khó hiểu ta sẽ tìm ABRAMELIN để học hỏi, ông ta luôn sẵn lòng và kiên nhẫn giải thích cho ta. Sau khi được dạy dỗ hết tất cả, ta từ biệt ông ra đi, và nhận được lời chúc phúc của ông; một biểu tượng không những được sử dụng giữa các tín đồ công giáo mà còn là phong tục của tổ tiên chúng ta; cuối cùng ta cũng lên đường, ta theo con đường đến Constantinople như lúc ta đến thì lâm bệnh, căn bệnh kéo dài hai tháng nhưng Thượng Đế lòng lành đã giúp ta khỏi bệnh, vì thế ta lấy lại sức khỏe và tìm chuyến tàu sắp đi Venice, ta xuống tàu và đến đó nghỉ ngơi một vài ngày rồi ta khởi hành đi Trieste, khi cập bến, ta theo đường mòn băng qua Dalmatia và trở về nhà cha, nơi ta sống cùng bà con và anh em của mình.
Việc đi ra nước ngoài và tham quan qua nhiều vùng đất thì vẫn chưa đủ, nếu người ta không rút ra được kinh nghiệm gì hữu ích từ đó. Do đó để cho con một ví dụ rõ ràng, trong chương này ta sẽ kể về Bí Ẩn của môn học này mà ta đã khám phá bằng cách này hay cách khác trên đường chu du khắp thế giới, và phương pháp cũng như những hiểu biết của các môn pháp thuật khác; trong chương sáu, ta sẽ kể lại những gì ta đã thấy và học được một số giữa những người đó, thông qua phương pháp luyện tập ta biết chúng là thật hay giả. Như trước đã kể với con, người thầy đầu tiên của ta là RABBIN MOSES ở MAYENCE, thật là một người tốt bụng nhưng hoàn toàn không biết gì về Bí ẩn Thật Sự của Pháp Thuật này. Ông ấy chỉ cống hiến bản thân cho những bí mật mê tín mà ông học được từ nhiều kẻ vô tín ngưỡng, và đầy những điều vô lý và ngu muội của tà đạo và những kẻ tôn thờ hình tượng; đến mức cùng cực các Thiện Thần và Thánh Linh phán xét ông không đáng để họ đến gặp và nói chuyện; và các tà thần đã chế nhạo ông đến buồn cười. Thực sự, thỉnh thoảng, chúng cũng tự nguyện nói chuyện với ông và tuân lệnh ông về những vấn đề đê hèn, xúc phạm thần thánh, và những vấn đề vô giá trị, để đánh lừa tốt hơn, chúng cản trở ông để không thể tìm kiếm sâu xa về nền tảng của môn khoa học vĩ đại này.
Ở ARGENTINE ta biết một người công giáo tên JAMES, nổi tiếng là người học rộng và khéo léo; nhưng pháp thuật của y là môn lừa đảo hay chỉ là trò đánh bông vụ; không phải của pháp sư.
Ở thành phố PRAGUE, ta gặp người đàn ông mưu mẹo tên ANTONY, hai mươi lăm tuổi, cho ta xem màn biểu diễn siêu nhiên tuyệt vời thật sự, nhưng cầu mong Thượng Đế giữ con khỏi xa vào tội lỗi to lớn, kẻ khổ sở tai tiếng kia đã thề với ta rằng y đã giao ước quỷ, và đã dâng hiến cả bản thân lẫn linh hồn cho quỷ dữ, vì thế y đã từ bỏ Thượng Đế và các Thánh; mặt khác, trong khi đó con quỷ giả dối LEVIATHAN hứa rằng y có bốn mươi năm để làm những điều mình thích. Anh ta cố gắng hết sức để lôi kéo ta vào con đường tội lỗi cùng chịu nỗi đau như y bởi vì y buộc phải làm theo khế ước với quỷ; lúc đầu ta cố gắng lẫn tránh anh ta, cuối cùng ta bỏ trốn. Cho đến hôm nay, người ta vẫn còn hát trên đường về kết cục bi thảm xảy đến với y, cầu mong Thượng Đế lòng lành bảo vệ chúng con khỏi những điều bất hạnh như thế. Việc này làm gương cho chúng ta hãy thận trọng tránh xa mọi điều xấu xa từ sự tò mò nguy hiểm.
Ở Áo, ta gặp vô số người nhưng tất cả đều không biết gì cả hoặc giống như người ở Bohemian.
Ở vương quốc Hungary ta gặp nhiều người không biết gì về Thượng Đế hay quỷ dữ họ còn tệ hơn thú dữ.
Ở HY LẠP, ta gặp nhiều người thông thái và trí tuệ tuy nhiên tất cả họ đều vô đạo, khoảng ba người trong số họ sống trong sa mạc, cho ta xem những thứ vĩ đại, như làm thế nào tạo ra bão tố trong phút chốc, làm thế nào để mặt trời hiện ra trong đêm tối, làm thế nào để ngăn dòng chảy của con sông, làm thế nào để biến đêm tối thành giữa ban ngày; toàn bộ pháp thuật của họ đều áp dụng nghi lễ mê tín.
Gần CONSTINTINOPLE, ở vùng đất gọi là EPHIHA, có một người đàn ông, thay vì sử dụng bùa phép, nhưng lại sử dụng một số con số nhất định rồi viết lên đất, bằng cách này ông ta tạo ra một số hình ảnh đáng sợ xuất hiện; nhưng tất cả những môn này đều không thực tế, chỉ đánh mất thể xác và linh hồn; bởi vì tất những trò này chỉ hoạt động do có khế ước với quỷ, chúng không có nền tảng thật sự; và tất cả những môn này đòi hỏi không gian thời gian rất lâu và khi những người này thực hiện không thành công thì họ sẽ có hàng ngàn lời xin lỗi dối trá, và họ là những kẻ giả dối.
Ở cùng thánh phố CONSTANTINOPLE ta gặp hai người đồng đạo, tên là SIMON và RABBIN ABRAHAME, chúng ta có thể nói họ cùng lớp với RABBIN MOSES, người MAYENCE.
Ở Ai Cập, lần đầu tiên ta gặp năm người đức cao vọng trọng và nổi tiếng là thông thái, trong số bốn người là HORAY, ABIMECH, ALCAON, và ORILACH, thực hiện biểu diễn phương pháp liên quan đến các vì tinh tú, cộng với phép hiệu triệu ma quỷ, những bài kinh xúc phạm thánh thần, vô tín ngưỡng, buổi biểu diễn thật vô số khó khăn. Người thứ năm, tên ABIMELU, thực hiện phép màu nhờ sự trợ giúp của quỷ dữ, ông ta chuẩn bị nhiều tượng và làm lễ hiến tế, do đó bọn chúng phục vụ ông ta bằng bộ môn ghê tởm của chúng.
Ở Ả Rập, họ sử dụng thực vật, thảo dược, và đá quý cũng như đá thường. Thánh Ân đã đưa ta ra khỏi mọi thứ này và dẫn ta đến ABRAMELIN, người đã cho Bí mật và mở ra cho ta suối nguồn của Bí Mật Thiêng Liêng của môn Pháp thuật cổ xưa, chính Thượng Đế đã trao cho tổ phụ chúng ta.
Cũng như ở PARIS, ta gặp người đàn ông thông thái tên JOSEPH, đã từ chối đức tin với Công giáo, tự nhận mình người Do Thái, Người đàn ông này thực sự luyện tập pháp thuật giống như của ABRAMELIN nhưng anh ta còn xa mới đến được cảnh giới hoàn hảo như thế; bởi vì THƯỢNG ĐẾ, sẽ không bao giờ ban kho báo nền móng, hoàn mỹ và chân chính cho kẻ nào đã quay lựng lại và từ chối Ngài; tuy nhiên trong suốt phần đời còn lại của họ, họ có thể là người hoàn hảo và thánh thiện nhất trên thế giới. Ta kinh ngạc khi thấy sự mù quáng của nhiều người để cho các vị Ma Chủ dẫn dắt, lấy sự vui vẻ trong giả dối, và chúng ta có thể nói rằng, y chính là ma quỷ; tự nạp thân cho hắc thuật, mỗi người mỗi loại, kết quả đánh mất linh hồn. Nhưng sự thật vĩ đại, quỷ dữ gian dối và độc ác, thế gian yếu đuối và xấu xa, ta phải thừa nhận chúng đã như vậy. Hãy để chúng ta cho họ thấy và đi theo những gì ta đặt xuống trong những chương sau; và chúng ta đừng đi trên con đường khác, dù con đường của quỷ dữ hay của con người hay của sách vở khoe khoang về pháp thuật của chúng; vì sự thật ta nói với con rằng ta gặp phải vô số vấn đề như thế đối với vô số môn pháp thuật để có thể viết ra, ngoài trừ những gì ở chỗ ABRAMELIN, sau đây ta sẽ truyền lại cho con. Tuy nhiên, sự thật chỉ có một Đấng Thượng Đế duy nhất, vì thế những sách này chỉ đáng một xu. Nhưng vẫn có những kẻ mù quáng mua chúng với giá cắt cổ, họ mất tiền, mất thời gian, đau khổ và tệ hơn đánh mất linh hồn.
Lòng kính sợ Thượng Đế là trí tuệ chân thật, và người nào không có nó thì không thể nào thâm nhập vào được Thánh Thuật Bí Mật Chân Thật (True Secret of Magick), và cũng như họ xây nhà trên cát, vì thế chúng không thể tồn tại được lâu. RABBIN MOSES khuyên ta nên có trí tuệ, trong khi chính ông ấy và những kẻ khác lại không hiểu lời nói của mình, với những biểu tượng kỳ lạ làm cho tiếng chuông ngân xa, cùng với những phép triệu hồi đáng sợ ông có thể làm kẻ trộm hiện ra trong gương, và làm cho ông già biến thành thanh niên (và việc đó chỉ kéo dài được hai giờ, không thể nào lâu hơn). Tất cả những thứ ông thực sự dạy cho ta, toàn bộ đều là hư ảo và trò lừa đạo của quỷ mị, dẫn đến kết quả không thể nào tưởng tượng được, và đánh mất linh hồn.Và khi ta có được Kiến thức xác thực của Thánh Thuật này, ta đã quên đi tất cả và từ bỏ chúng tận tâm can.
Người vô đạo Bohemian với sự trợ giúp của thế lực khác thực hiện những việc đáng kinh ngạc. Ông ấy tàn hình, bay lên trời cao, ông ấy có thể chung qua lỗ khóa để vào phòng, ông ta biết những bí mật của chúng ta và có lần ông ta bảo ta rằng chỉ Chúa mới có thể biết. Nhưng môn pháp thuật của ông khiến ông phải trả giá rất đắc con trai, vì quỷ dữ buộc ông thề độc trong khế ước rằng ông phải sử dụng tất cả những bí thuật này để phá hủy danh dự của Thượng Đế, và làm hại những người xung quanh. Cuối cùng người ta nhìn thấy xác của ông bị lôi trên đường phố, với cái đầu không có lưỡi bên trong, nằm dưới mương. Và đây là tất cả những gì ông đạt được từ Pháp Thuật Tà Ác.
Ở ÁO, ta gặp vô số pháp sư thích giết chóc và đánh đập người khác, gây bất hòa trong gia đình, khiến người khác li dị, sử dụng nút thắt phù thủy bằng cây liễu để làm người phụ nữ không có sữa cho con, và những sự độc ác tương tự như thế. Nhưng những kẻ khốn khổ này đã ký giao kèo với quỷ dữ, và trở thành nô lệ của chúng, đã tuyên thệ với chúng rằng họ sẽ làm việc không ngừng nghỉ để hủy diệt tất cả sự sống. Một số trong số chúng chỉ có hai năm (theo khế ước) để làm việc này, hoặc ba năm và sau khoảng thời gian đó, họ phải chịu số phận giống như Bohemian.
Ở LINTZ, ta gặp người thiếu nữa, đêm nọ cô ấy mời ta đi với cổ, đảm bảo sẽ không có chuyện gì rủi ro, cổ đưa ta đến một nơi mà ta luôn ước ao tìm kiếm. Ta để cô ấy thuyết phục. Cổ đưa cho ta một loại thuốc cao, để chà vào các động mạch chính ở chân và tay; cô ta cũng làm như thế; lúc đầu ta thấy mình bay trên hư không ở nơi mà ta thích, quên hẳn cô ấy.
Ta bay trong lặng lẽ với niềm ngưỡng mộ với những gì ta nhìn thấy. Tỉnh lại như vừa khỏi giấc ngủ sâu, ta cảm thấy đau đầu dữ dội và buồn rầu. Ta xoay lại thấy cô ta đang ngồi cạnh ta. Cô ta bắt đầu kể lại những gì cổ đã thấy nhưng hoàn toàn khác xa với ta. Ta rất đổi kinh ngạc bởi vì ta cảm giác mình đã đến nơi đó và thực tế nhìn thấy những việc xảy ra. Ngày nọ ta nhờ cô ta đi một mình đến chỗ người bạn ở cách ta khoảng 200 dặm và mang tin tức của y về đây. Cô ta hứa sẽ trở về trong một giờ. Cổ chà loại cao giống hôm trước vào người và thực sự muốn xem cô ta bay như thế nào; nhưng cổ đã ngã xuống đất và nằm đó khoảng ba giờ như thể bị chết vì thế ta nghĩ cổ đã chết thực sự. Cuối cùng cổ tỉnh lại như người sau giấc ngủ, cổ đứng dậy và bắt đầu kể lại cuộc viễn du của mình với niềm vui khôn xiết, rằng cổ đã đến nơi người bạn của ta và thuật lại những việc y đang làm; hoàn toàn khác xa với nghề nghiệp thật sự của y. Lúc đó ta kết luận cổ vừa kể ta nghe một giấc mơ và loại cao đó gây ra giấc mơ ảo giác; sau này cổ thú thật với ta chất cao đó do Quỷ Dữ trao cho cổ.
Tất cả pháp thuật của người Hy Lạp là bùa mê và mị lực, và quỷ dữ khiến họ bị kiềm hãm trong những lời nguyền vì thế họ không thể nào biết được Chân Pháp (True Magic) bằng không họ sẽ mạnh mẽ hơn cả quỷ dữ; và ta khẳng định ý kiến này lần nữa bởi vì bùa phép của họ hoàn toàn không thực tế, tự gây thương tích cho bản thân người luyện, và thực sự nhiều người họ đã thừa nhận rõ ràng với ta, khi đó ta đã có được Thánh Thuật Chân Thật này. Có nhiều pháp thuật họ kể rằng được truyền lại từ Những nhà tiên tri (Sibyl) cổ xưa. Có một môn pháp thuật gọi là “Trắng và Đen”; tên khác là TEATIM; mà ta phải thừa nhận rằng ta đã nhìn thấy những lời nói của họ rất mỹ miều và sâu rộng, nếu ta không biết được nộc độc ẩn giấu bên trong chúng, thì chắc ta đã theo họ từ đó. Ta kể tất cả những việc này bởi vì con người ta thường không bảo vệ bản thân khỏi những sai lầm.
Có một lão trao cho ta những ký tự viết nguệch ngoạc đầy những thần chú làm việc cho quỷ dữ. Ông ta thực hiện pháp thuật kỳ lạ bằng những con số, toàn là số lẻ, và với tỉ lệ 1/3, không giống như những cái khác, ông ta dùng những con số ấy với sự chứng kiến của ta để làm cái cây gần nhà ta đổ xuống, tất cả lá cây và trái cây đều bị biến mất trong thời gian ngắn. Ông bảo ta những con số này chứa một bí ẩn vĩ đại, bởi vì bằng phương pháp ấy ông ta có thể làm phép cho tình bạn, giàu có, danh dự và tất cả mọi thứ, tốt và xấu; ông ấy khẳng với ta là đã thử nghiệm nhưng ông ta biết rất rõ rằng ông vẫn chưa thành công. Đối với vấn đế này, ta tìm được nguyên nhân nhờ ABRAMELIN thông thái, đã kể cho ta biết nó đến từ các Đấng Thiêng Liêng (Divine Ministry), nghĩa là chúng đến từ Qabala, và không có nó thì không ai thành công. Ta chứng kiến tất cả những việc này và nhiều việc khác, nhiều người sở hữu những bí thuật này đã trao lại cho ta vì tình bạn. Ta đã đốt chúng đi ở sau nhà của ABRAMELIN, chúng là những thứ tuyệt đối cần phải xóa bỏ theo ý muốn của Thượng Đế, và ngược lại, đối với lòng nhân đạo, chúng ta nợ những người xung quanh chúng ta. Dù là người học rộng và thông thái cũng có thể vấp ngã nếu không họ không được Thiên Sứ của Thượng Đế dẫn dắc và bảo hộ, họ giúp ta, bảo vệ ta khỏi rơi vào tình trạng khốn khổ ấy, và kéo ta ra khỏi vũng lầy của bóng tối vào nơi Ánh sáng của Sự Thật. Ta biết và cảm nhận được lòng tốt của ABRAHA MELIN (27) thông thái, với ý chí tự do, trước khi ta kịp hỏi ông ấy chấp nhận ta làm đệ tử.
Đang dịch
Last update 06/30/2020
Dự án dịch series này đã bị hủy bỏ.