Chương 3. Một Cuộc Chạy Trốn

CHAPTER THREE. EscapeChương 3. Một Cuộc Chạy Trốn
WHEN I DISROBED and left the temple, there was no question in my mind where I was headed: home.   Khi cởi bỏ y áo rời chùa, trong đầu tôi chỉ có một ý nghĩ: về nhà.
First, though, I stopped at my sister’s house.     Tuy nhiên, trước hết, tôi ghé qua nhà chị gái.
My brother-in-law seemed only mildly surprised to see me.  Anh rể tôi hình như chỉ hơi ngạc nhiên khi thấy tôi.
He had heard of my struggles and, smiling, he said, “It’s good that you left that place. Anh đã nghe kể về những khó khăn của tôi, nên anh mỉm cười nói: “Em rời chỗ đó là đúng rồi.
Stay here awhile, and I’ll find you another temple.” But I was afraid that if I stayed there, Venerable Sonuttara would come looking for me. Cứ ở đây một lúc, anh sẽ tìm cho em một ngôi chùa khác.” Nhưng tôi lo sợ rằng nếu tôi ở đó, đại đức Sonuttara sẽ đến tìm tôi.
So I ran home to my parents’ house. Vì thế tôi chạy về nhà cha mẹ tôi.
My mother was shocked to see me.   Mẹ tôi bị sốc khi nhìn thấy tôi.
She asked why I had left the temple, so I told her what had happened.  Bà hỏi tại sao tôi bỏ chùa, vì thế tôi kể cho mẹ nghe những gì đã xảy ra.
She didn’t say much, just started to cry. Bà không nói gì nhiều, chỉ bắt đầu khóc.
In the evening my father came home from working in the rice paddy.   Buổi tối cha tôi từ ngoài ruộng lúa trở về nhà.
I told him about the abuse I had endured at the temple. Tôi kể với ông về những sự ngược đãi mà tôi đã phải chịu đựng ở chùa.
I could see from the expression on his face that he didn’t believe me, but he stayed calm. Nhìn nét mặt cha, tôi biết rằng ông không tin tôi, nhưng ông vẫn giữ bình tĩnh.
My brother and sisters all seemed glad to see me, but no one had much to say. Các anh chị em tôi, tất cả đều rất vui được gặp lại tôi, nhưng không ai nói gì nhiều.
They simply accepted my being there. Họ chỉ chấp nhận sự có mặt của tôi ở đó.
We all seemed to know it couldn’t last, though.   Tuy nhiên, tất cả chúng tôi dường như đều biết rằng việc này không thể kéo dài lâu hơn.
It was taboo for a monk to disrobe. Việc nhà sư cởi bỏ y áo là điều cấm kỵ.
It brought bad luck, even disgrace, to the whole family.  Nó sẽ mang lại những điều bất hạnh, hay ngay cả sự tủi nhục, cho cả gia đình.
The next afternoon my teacher arrived at the house.   Ngay chiều hôm sau, thầy tôi đã có mặt ở nhà tôi.
My parents, out of respect for the monk, didn’t ask him to explain why I had run away from him. Cha mẹ tôi, vì lòng kính trọng đối với tăng sĩ, đã không đòi ông giải thích tại sao tôi phải chạy trốn khỏi chùa.
They pretended not to know anything about what had happened. Họ giả vờ như không biết bất cứ điều gì đã xảy ra.
After a few minutes of casual conversation, Venerable Sonuttara asked me to return to the temple with him.   Sau vài phút chuyện trò xã giao, sư Sonuttara yêu cầu tôi trở về chùa với ông.
I looked at my parents, silently pleading for their help, hoping they would rise to my defense and say they wanted me to stay with them. Tôi nhìn cha mẹ, cầu khẩn trong im lặng sự giúp đỡ của họ, hy vọng rằng họ sẽ đứng lên để bảo vệ tôi, và nói rằng họ muốn tôi ở nhà với họ.
For a minute or two, no one said anything.   Nhưng không ai nói gì trong những giây phút đó.
There was complete silence. Hoàn toàn im lặng.
My parents seemed unable to look at me. Cha mẹ hình như không dám nhìn tôi.
Then my teacher repeated his request. Sau đó thầy tôi lặp lại yêu cầu của ông.
My father nodded his head and said quietly, “Yes, you must go with him.”   Cha tôi gật đầu, nói nhỏ, “Con phải đi theo Thầy.”
My heart sank.   Tim tôi chùn xuống.
I knew that if I stayed, my father would simply force me to return to the temple the next day, or the day after that. Tôi biết rằng nếu tôi cố ở lại, thì cha tôi cũng sẽ dùng sức mạnh để bắt tôi về chùa ngày hôm sau, hay ngày hôm sau nữa.
And I didn’t want to bring disgrace on my family. Và tôi không muốn mang lại sự tủi nhục cho gia đình.
So I left with Venerable Sonuttara.   Vì thế tôi ra đi theo sư Sonuttara.
As soon as we got back to the temple, he ordained me again, in a ceremony much less elaborate than the first one. Ngay khi chúng tôi trở lại chùa, Sư lại làm lễ xuất gia cho tôi lần nữa, trong một buổi lễ kém quan trọng hơn lần đầu rất nhiều.
For the second time in my life, I put on orange robes. Lần thứ hai trong cuộc đời, tôi lại mặc lên mình bộ y vàng.
I could only hope it would go better this time. Tôi chỉ có thể hy vọng rằng lần  này nó sẽ tốt hơn.
My teacher, as a member of the monks’ council, a governing body of our sect, had to spend the month between the full moon of June and the full moon of July in Kandy.   Sư Sonuttara, thầy tôi, là một thành viên của hội đồng Tăng già, bộ  phận quản lý tông phái của chúng tôi, phải trải qua một tháng giữa rằm tháng sáu và rằm tháng bảy ở Kandy.
During that month, the council held higher ordination ceremonies for novice monks, sometimes conferring full monkhood on as many as thirty young men a day. Trong tháng đó, hội đồng Tăng già tổ chức các buổi lễ thọ đại giới cho các sadi, đôi khi truyền giới tỳ kheo cho đến ba mươi vị trong một ngày.
During my teacher’s absence I was to serve as head of the temple, even though I was barely thirteen years old and still a novice. Trong lúc thầy tôi vắng mặt, tôi đảm nhiệm việc quản lý chùa, dầu rằng tôi chỉ mới mười  ba tuổi và hãy còn là một Sadi.
One day, while my teacher was gone and I was in charge, a man came to the temple asking for oranges.   Một ngày kia, khi thầy tôi vắng mặt, và tôi coi sóc chùa, có một người đàn ông đã đến chùa xin cam.
We had two orange trees on the premises, so whenever villagers needed oranges they came to us. Chúng tôi có hai cây cam trong khuôn viên chùa, vì thế khi nào dân làng cần cam, họ đến xin chúng tôi.
He gave me a little less than one rupee, the equivalent of about twenty-five cents. Anh ta trả cho tôi khoảng gần  một rupee, tương đương với khoảng hai mươi lăm xu tiền Mỹ.
One of the temple boys had gone to Kandy with Venerable Sonuttara, so only the other boy, named Hinnimahattaya, was there with me.   Một trong những đứa trẻ ở chùa đã đi Kandy với sư Sonuttara, vì thế chỉ còn một đứa ở lại với tôi, tên là Hinnimahattaya.
Normally we shared everything, like partners. Thường thì chúng tôi chia sẻ với nhau mọi thứ, giống như cặp bài trùng.
So as soon as the villager left with his sack of oranges, Hinnimahattaya asked me for his share of the proceeds. Vì thế ngay khi người đó đã ra đi với một bao cam, Hinnimahattaya đòi tôi phải chia phần cho hắn.
“He only gave me twenty-five cents,” I told Hinnimahattaya, “and out of that we have to buy sugar, tea, and some kerosene for the lamps for tonight.”   "Ông ta chỉ đưa cho tôi hai mươi lăm xu," tôi nói với Hinnimahattaya, "mà trong đó chúng ta phải mua đường, trà, và một ít dầu cho đèn tối nay."
Hinnimahattaya got very upset and let loose a string of filthy words. I beat him up.  Hắn xổ ra một tràng chửi rủa tục tĩu, nên tôi đánh hắn một trận.   Hinnimahattaya rất bực mình.
Another time, we had run out of matches to light the kerosene lamps.   Một lần khác, chúng tôi không còn diêm để đốt đèn dầu.
I asked Hinnimahattaya to run to a neighbor’s house and bring back a burning stick. Tôi bảo Hinnimahattaya chạy qua nhà hàng xóm mượn đốm lửa.
That was very common in those days, to “borrow” fire from your neighbor. Đó là việc rất thường vào thời ấy, ‘đi mượn’ lửa từ nhà hàng xóm.
But Hinnimahattaya refused to go.   Nhưng Hinnimahattaya từ chối không đi.
So I threatened him: If he wouldn’t go get the burning stick, I wouldn’t give him half of my next cigarette.  Nên tôi đe dọa hắn: nếu hắn không đi lấy lửa, tôi sẽ không chia cho hắn nửa điếu thuốc của tôi.
(Normally we shared cigarettes; I would smoke one half, then give him the other half.) (Thường thì chúng tôi chia nhau thuốc hút; tôi sẽ hút một nửa rồi đưa cho hắn một nửa.)
But Hinnimahattaya was unpersuaded.Nhưng Hinnimahattaya không nghe.
He was willing to give up his half of a smoke in return for not running the errand. Nó thà là không có nửa điếu thuốc hơn là phải chạy đi công việc.
So I went myself, and when I came back with the burning stick, I used it to light a cigarette.   Vì thế tôi phải tự đi, và khi tôi trở lại với cây lửa, tôi đốt một điếu thuốc.
Eagerly Hinnimahattaya watched me. Hinnimahattaya nhìn tôi nôn nóng.
As soon as half of the cigarette was gone, he asked me for the second half.  Khi điếu thuốc vừa hết một nửa, nó đòi tôi chia phân  nửa còn laị.
“Forget it,” I said.   "Hãy quên đi," tôi nói.
“A deal is a deal.  "Luật là luật.
I ran the errand, and so you don’t get the cigarette.” Tao đã phải chạy đi lấy lửa, thì mầy đừng hòng được hút chút thuốc nào.’
Hinnimahattaya started to curse me.   Hinnimahattaya bắt đầu chửi rủa tôi.
Enraged, I pushed him up against the wall, held him there, and used the cigarette to burn both corners of his mouth. Quá tức giận, tôi đẩy nó vào tường, rồi dí thuốc vào hai khóe miệng của nó.
It also happened that, during the Venerable’s trip to Kandy, several teenage boys from the village came to the temple and stayed with us.   Cũng có chuyện xảy ra nữa là, trong lúc Thầy tôi đi Kandy, có vài thiếu niên trong làng lên chùa ở với chúng tôi.
We played lots of games. Chúng tôi bày ra nhiều trò chơi.
Of course, as a novice monk I wasn’t supposed to be entertaining myself with games, but who cares when the teacher is not around? Dĩ nhiên là một sadi, đáng lý ra tôi không được tham dự những trò chơi này, nhưng ai mà biết được khi thầy không có ở nhà?
One of our favorite games was called panca ganahava, which means “play with five.”    Một trong những trò chơi mà chúng tôi rất thích, được gọi là panca ganahava, có nghĩa là ‘trò chơi năm số’.
It involved tossing small seashells onto the floor and earning points based on whether the shells landed right-side up or not. Chúng tôi thấy các vỏ sò trên sàn nhà và tính điểm tuỳ thuộc vào số vỏ sò lật úp hay ngửa.
One day our next-door neighbor came over and said that he wanted to teach us a card game.   Một ngày kia người hàng xóm kế bên đến, bảo rằng anh ta muốn dạy chúng tôi chơi đánh bài.
He showed us a game and got us interested. Anh ta chỉ cách chơi, và tất cả chúng tôi đều thích.
 He made sure we won several games in a row, then he said, “If you have money, you can bet on this game. Anh ta cho chúng tôi thắng liên tiếp mấy ván, rồi nói, "Nếu mấy em có tiền, thì đặt cược trong ván bài này.
Today is your lucky day. Hôm nay là ngày may mắn của mấy em.
You seem to be winning.” Mấy em chắc sẽ thắng."
I told him I only had one rupee.   Tôi nói rằng tôi chỉ có một rupee.
He said, “That’s good. Anh ta nói, "Tốt.
Let’s play for money.”  Hãy chơi bằng tiền."
I bet my one rupee and immediately won two more! I was hooked.   Tôi cá đồng rupee của mình và lập tức ăn được thêm hai cái nữa! Tôi khoái quá.
He encouraged me to play again.  Anh ta khuyến khích tôi chơi nữa.
Of course, that time I lost. Dĩ nhiên, sau đó tôi thua.
The neighbor pocketed the three rupees and left, smiling. Người hàng xóm bỏ túi ba đồng rupee rồi ra về, mỉm cười.
That was the end of my short gambling career and one lesson I learned in just a single try.   Vậy là kết thúc sự nghiệp cờ bạc ngắn ngủi của tôi, và tôi đã được một bài học chỉ trong lần thử duy nhất đó.
On the afternoon my teacher returned from Kandy, the very first thing he did was examine the bowl we used for offering food to the Buddha statue in the shrine room.  Chiều hôm đó thầy tôi từ Kandy trở về, việc đầu tiên sư làm là xem xét cái tô chúng tôi dùng đựng thức ăn cúng Phật trong chánh điện.
Our instructions had been to empty it each day before noon. Chúng tôi đã được dặn là phải rửa sạch nó mỗi ngày trước ngọ.
That day, the Venerable found it still full at one o’clock.   Ngày hôm đó, sư Sonuttara thấy là nó vẫn còn đầy thức ăn lúc một giờ trưa.
I was in the kitchen at the time, preparing tea for him. Lúc đó tôi đang ở trong bếp, chuẩn bị trà cho sư.
He called me and I came out of the kitchen and started down the steps into the main building. Sư gọi tôi và tôi bước ra khỏi nhà bếp, bắt đầu bước xuống những bậc thềm để vào gian nhà chính.
Suddenly I saw an object flying toward me — the alms bowl from the shrine room! My teacher was so upset that he had thrown the bowl at me before even asking why it was still full.   Bỗng nhiên tôi thấy một vật đang bay về phía mình -cái tô đựng thực phẩm trong chánh điện! Thầy tôi quá giận đến nỗi ông đã liệng cái tô về phía tôi ngay trước khi hỏi tại sao nó vẫn còn đầy.
The bowl hit me square in the forehead, hard, and I fell to the ground, bleeding. Cái tô trúng ngay trán tôi, rất mạnh, và tôi ngã xuống đất, chảy máu đầu.
I still have a scar on my forehead, to this day.   Cho đến ngày nay tôi vẫn còn vết thẹo trên trán.
Our teacher also noticed the burn marks around Hinnimahattaya’s mouth.   Thầy chúng tôi cũng thấy vết bỏng quanh  miệng của Hinnimahattaya.
“How did this happen?” the Venerable asked me.   "Đã xảy ra chuyện gì?" Sư hỏi tôi.
I had warned Hinnimahattaya not to tell our teacher about the incident with the cigarette.   Tôi đã dặn Hinnimahattaya không được nói với thầy về vụ hút thuốc.
If he did, we would both be in trouble for smoking. Nếu nó nói, cả hai chúng tôi sẽ bị phạt vì đã hút thuốc.
Fortunately, Hinnimahattaya said nothing. May mắn thay, Hinnimahattaya đã không nói gì.
I told Venerable Sonuttara that the temple boy had cursed me, so I burned his mouth as punishment.  Tôi thưa với sư Sonuttara rằng thằng bé đã chửi tôi, vì thế tôi châm lửa vào miệng hắn để phạt.
Curiously, he seemed to accept that story and said nothing more about it. Ngạc nhiên thay, hình như Sư đã tin như thế, nên không nói gì thêm nữa.
That was one of the rare times when I got away with something, though.   Tuy nhiên, đó chỉ là một trong những trường hợp hiếm hoi mà tôi có thể trốn tránh tội mình.
My teacher’s temper was uncontrollable and the beatings continued, often for the slightest infraction of the rules. Tánh thầy tôi nóng nảy, ít khi kiềm chế được, và việc đánh đập vẫn tiếp diễn, đôi khi chỉ vì những sự vi phạm luật lệ nhỏ nhặt nhất.
He was the dictator, and we had to accept his every command without question or discussion. Sư là một nhà độc tài, và chúng tôi phải thi hành tất cả mệnh lệnh của sư mà không được thắc mắc hay bàn cãi.
Yet for all that, Venerable Sonuttara did have a kind streak.   Ngoài tính độc đoán và nóng nảy, sư Sonuttara thật sự cũng có những điều tử tế.
He had a real soft spot for animals; that’s why he fed all the stray dogs and cats in the area.  Đặc biệt, sư rất thương thú vật; đó là lý do tại sao sư cho tất cả đám mèo chó hoang trong vùng được ăn.
And if sick people came to the temple seeking help, he gave them free herbal medicines. Và nếu có những  người bệnh tìm đến chùa để nhờ giúp đỡ, sư cũng cho họ thuốc, miễn phí.
Occasionally one of the temple boys would run away, taking something of value with him, such as a brass oil lamp or even one of the Buddha statues. Thỉnh thoảng có những đứa trẻ trong chùa chạy trốn, đem theo một vật gì đó có giá trị, như là một cây đèn dầu bằng đồng hay ngay cả một trong những bức tượng Phật.
“Let him go,” my teacher would say.   "Hãy tha cho nó," thầy tôi sẽ nói.
“He is poor. "Nó cũng nghèo.
He can sell those things and get a little money.  Nó có thể bán những thứ đó để kiếm chút tiền.
We can replace whatever he stole.” Chúng ta có thể mua cái khác để thay cho cái đã bị lấy đi."
In reflecting now upon my teacher’s behavior, I think that Venerable Sonuttara really did want to see me become a good monk and not be led astray by my natural adolescent urges for independence.   Giờ xét lại những hành động của sư Sonuttara, tôi nghĩ rằng sư thực sự chỉ muốn tôi trở thành một người tu sĩ tốt, không bị lôi cuốn theo các bản năng của tuổi trẻ, chỉ muốn được tự do, độc lập.
And he “encouraged” good behavior by using the normal form of punishment in those days: physical beatings. Và sư ‘khuyến khích’ thiện tánh bằng cách dùng những hình thức trừng phạt phổ biến thời đó: sự đánh đập.
Of course, I couldn’t see it that way until later, when I was an adult.   Dĩ nhiên, tôi không thể hiểu được như thế cho đến mãi sau này, khi tôi đã trưởng thành.
At the time I lived in his temple as a novice, I was miserable. Còn lúc tôi là sadi, sống ở chùa của sư, thì tôi rất khổ đau.
I chafed continually under his dominance. Tôi luôn bị hành hạ dưới sự cai quản của sư.
At one point, I began to talk to one of the temple boys about leaving.    Đến một lúc, tôi bắt đầu bàn với một trong những đứa trẻ ở chùa về việc bỏ trốn.
He was very unhappy, too. Nó cũng rất bất mãn.
Both of us were saving up money and hoarding candles, and we planned to run away some night. Cả hai chúng tôi đều để dành tiền, và tích trữ đèn cầy, chúng tôi dự định đêm nào đó sẽ bỏ trốn.
One day we agreed to escape that night. Một ngày kia cả hai chúng tôi đồng ý sẽ trốn đi đêm đó.
We both worked harder than usual that day, in order to please our teacher so that he wouldn’t suspect anything. Ngày hôm đó cả hai chúng tôi đều làm việc chăm chỉ hơn ngày thường, cố gắng làm vừa lòng sư để ông không nghi ngờ gì.
That night, after everyone in the temple went to bed, I removed my robes and put on a sarong and shirt.   Đêm đó, sau khi mọi người trong chùa đã đi ngủ, tôi cởi y ra, mặc trở lại áo sơmi và xà rong.
My accomplice and I sneaked out the back door. Tôi và người bạn đồng lõa lén lút ra đi bằng cửa sau.
First we had to go through a cemetery, which unnerved both of us.   Trước hết chúng tôi phải đi qua một nghĩa trang, là việc cả hai đều rất  sợ.
Then we found ourselves on a wooden bridge over a small creek. Rồi chúng tôi đi trên một chiếc cầu gỗ bắc qua một con suối nhỏ.
We had heard the local stories that this was a place where wicked demons and goblins grabbed people. Chúng tôi đã nghe nhiều câu chuyện từ dân địa phương, rằng đây là nơi mà những con quỷ dữ và chằng tinh thường ăn thịt người.
The legend also said that the first sign of their appearance would be a big black dog. Truyền thuyết cũng nói rằng dấu hiệu đầu tiên về sự có mặt của chúng, sẽ là một con chó đen to lớn.
Normally, if people had to pass over that bridge they would go in a large group, everyone talking loudly and carrying bright torches to scare away the demons.   Thông thường, nếu người ta phải đi qua chiếc cầu đó, họ sẽ đi thành từng nhóm, mọi người sẽ nói lớn tiếng, và cầm những bó đuốc cháy bùng để xua đuổi lũ quỷ.
But because we were running away, we had to be quiet and we couldn’t even light the candles we had brought with us, for fear someone would see us. Nhưng vì  đang chạy trốn, chúng tôi phải im lặng và không thể đốt đèn cầy mà chúng tôi đã mang theo mình, vì sợ rằng ai đó sẽ phát hiện ra chúng tôi.
We crossed the bridge at exactly midnight.   Chúng tôi đi qua cầu đúng lúc giữa đêm.
We were trembling, dry-mouthed. Chúng tôi run rẩy, miệng khô đắng.
Our hair stood on end. Tóc dựng đứng.
We didn’t utter one word to each other, just walked slowly in the pitch dark. Chúng tôi không thể nói lời nào với nhau, chỉ chầm chậm bước đi trong bóng tối dày đặc.
Suddenly, a big black dog appeared in front of us, and my heart began pounding even harder.   Thình lình, một con chó đen to lớn hiện trước mặt chúng tôi, và tim tôi bắt đầu đập mạnh hơn.
Then we were both slapped so hard in the face we nearly fell off the bridge and into the water. Rồi cả hai chúng tôi đều bị tát vào mặt, mạnh đến nỗi suýt té khỏi cầu, và rơi xuống nước.
It turned out that the big black dog was our temple dog and the slaps came from our teacher, who had heard us sneaking out the back door and followed us to the bridge.   Thì ra con chó đen to lớn đó là con chó ở chùa và những cái tát tay là của thầy chúng tôi, người đã nghe được chúng tôi lén lút trốn đi ở cửa sau, nên đã đi theo chúng tôi đến tận cây cầu.
On his orders, we followed him back to the temple, where I was immediately ordained a third time, in the middle of the night. Theo lệnh của ông, chúng tôi đành theo ông trở lại chùa, nơi tôi lập tức được thọ giới lần thứ ba, giữa đêm khuya.
None of the other temple boys ever heard about that incident, nor did the villagers.   Không có một đứa trẻ nào khác ở chùa biết về chuyện này, cả dân làng cũng thế.
The next day, back in my bhikkhu’s robes, I took the alms bowl and went into the village to collect alms as usual. Ngày hôm sau, mặc trở lại chiếc áo người tu, tôi ôm bình bát vào làng để khất thực như lệ thường.
When I was fifteen or so, I became interested in a girl from the village who was about my age.   Khi tôi được mười lăm tuổi hay khoảng đó, tôi bắt đầu để ý đến một cô gái trong làng khoảng tuổi tôi.
Every day she would stand in front of her house as I came by with the alms bowl. Mỗi ngày cô đứng trước cửa nhà khi tôi ôm bình bát đi ngang qua.
She was near my height, with long black hair. Cô cao gần bằng tôi, với mái tóc đen dài.
She had a round face like mine, with skin lighter than the normal Sinhalese complexion, and a perfect set of teeth that showed whenever she smiled. Cô cũng có khuôn mặt tròn như tôi, với màu da trắng hơn da của người Sinhala bình thường, và một hàm răng hoàn hảo được phô bày mỗi khi cô cười.
I thought she was beautiful. Theo tôi cô rất đẹp.
One day, as she ladled rice into my bowl, we had a very brief, whispered ­conversation — very much against the monastic rules. Một ngày kia, khi cô bỏ gạo vào bình bát của tôi, chúng tôi thầm thì trao đổi vài lời ngắn ngủi -một điều rất trái với giới luật người tu.
That evening, when I went to our well to take a bath, I deliberately banged the bucket against the sides of the well to make a noise loud enough for her to hear at her house.   Tối hôm đó, khi ra giếng tắm, tôi cố ý va mạnh chiếc thùng vào thành giếng để gây tiếng động đủ lớn cho cô có thể nghe thấy từ nhà.
That was the signal we had agreed on. Đó là tín hiệu mà chúng tôi đã đồng ý với nhau.
Within moments she ran to the well, carrying a pot as if she needed to fill it with water.   Chỉ  một lúc sau cô đã chạy ra giếng, mang theo một chiếc bình như thể cô cần lấy thêm nước.
I was thrilled to see her coming. Tôi rất sung sướng thấy cô đến.
For about ten days, that was our routine.   Chuyện như thế kéo dài khoảng mười ngày.
I would bang the bucket in the well; she would grab a pot in her house and, if it was full of water, pour it out so that she had an excuse to come to the well. Tôi sẽ va thùng vào giếng; cô ta sẽ chụp lấy bất cứ bình nước nào trong nhà và nếu nó còn đầy nước thì cô sẽ đổ nước đi để có lý do ra giếng.
Even though we were too shy to share our budding feelings for each other, we had long, lovely conversations, and each time, they got longer and longer. Dầu còn e dè chưa dám bày tỏ tình cảm thân thiết dành cho nhau, nhưng chúng tôi cũng có những buổi chuyện trò rất lâu, rất dễ thương, và càng ngày chúng càng dài hơn.
I told her that temple life was like a prison. Tôi kể với cô rằng cuộc sống ở chùa giống như ở tù.
We gossiped about other people in the village. Chúng tôi cũng nói chuyện người khác trong làng.
She told me about her life at home. Cô kể cho tôi nghe về cuộc sống ở nhà cô.
Eventually my teacher began to wonder why I was taking so long at my bath, and one day he came to check on me and caught us there, talking and laughing.   Dần dần thầy tôi cũng bắt đầu thắc mắc tại sao tôi tắm quá lâu, và một ngày ông ra đó xem, bắt gặp chúng tôi đang nói chuyện và cười đùa.
Of course he was upset.   Dĩ nhiên là ông rất giận.
Monks of any age are not supposed to have close contact with females. Tăng sĩ ở bất cứ độ tuổi nào cũng không được tiếp xúc thân mật với nữ giới.
He ordered the girl not to come to the well when I was there.  Ông cấm cô gái không được ra giếng khi tôi ở đó.
Back at the temple, he reprimanded me in very strong language and ordered me to take my baths later at night, at a time he thought would be too late for her to come to the well. Trở về chùa, ông nặng lời rầy la tôi, và ra lệnh cho tôi phải đi tắm trễ hơn, vào lúc mà ông nghĩ rằng sẽ quá trễ cho cô gái ra giếng.
Actually, that suited me fine because I knew we would have even more privacy to talk after dark, when no one would see us together.   Thực ra, điều đó còn tốt hơn vì tôi biết rằng chúng tôi sẽ được trò chuyện kín đáo lúc đêm khuya, khi không ai có thể thấy chúng tôi bên nhau.
So we continued our clandestine meetings. Vì thế chúng tôi tiếp tục những cuộc gặp gỡ thầm lén này.
Inevitably, my teacher caught us again, and this time his rebuke was even harsher.   Dĩ nhiên, thầy tôi lại bắt gặp chúng tôi lần nữa, và lần này sự phản kháng của ông còn mạnh mẽ hơn.
He told the girl never to come to the well again. Ông cấm cô gái không bao giờ được ra giếng nữa.
He said that he was going to report her behavior to her parents. Ông dọa rằng ông sẽ báo cho cha mẹ cô biết về những hành động của cô.
She cried and begged him not to tell her parents.   Cô gái khóc, van xin ông đừng nói cho cha mẹ cô biết.
She promised not to go to the well anymore, and she didn’t. Cô hứa không ra giếng nữa và cô đã giữ lời.
I never saw her again. Tôi chẳng bao giờ gặp lại cô nữa.
When I look back on that incident now, after years of Dhamma study and practice, I see it as evidence that boys perhaps should not be ordained so young, as was customary in my childhood.   Giờ khi nhìn lại sự việc đó, sau nhiều năm học và thực hành pháp, tôi thấy rõ ràng là người ta không nên xuất gia quá sớm, như thường xảy ra vào thời của tôi.
They should first receive a secular education and be allowed to enjoy games, sports, friends, and parties — all the things that young people crave. Trước hết họ cần được học thế học, được phép chơi thể thao, trò chơi, bạn bè và hội hè - tất cả những thứ mà người trẻ thường ham thích.
Then, when they have grown into adults, they can make a mature decision about whether to be ordained. Rồi khi đã trưởng thành, họ có thể chọn lựa một cách chín chắn về việc có nên xuất gia hay không.
Joining the Sangha is a serious commitment, and I don’t think a very young person is prepared to make an informed choice about it. Gia nhập Tăng đoàn là một việc rất nghiêm trọng, và tôi không nghĩ rằng một người còn nhỏ tuổi có thể sẵn sàng chọn lựa một cách đúng đắn.
And it would be a rare boy who was emotionally ready to cope with the rigors and restrictions of monastic life. Và cũng ít có đứa trẻ nào có thể chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng chấp nhận những gian khổ và trói buộc của đời sống xuất gia.
The traditional thinking in my country was that boys, with their vigorous young minds, could memorize sacred texts more easily than adults.   Cách suy nghĩ cũ xưa ở xứ tôi là các chú bé, với tâm nhạy bén trẻ trung, có thể học thuộc các thánh điển dễ dàng hơn là người lớn.
Their personalities could be shaped and molded early into the peaceful demeanor of a contemplative monk. Cá tính của chúng cũng có thể được uốn nắn và rèn luyện để có được phong thái tự tại của một tăng sĩ thiền định.
But now I’m not so sure that’s true.  Nhưng giờ tôi cũng không dám chắc rằng điều đó là đúng.
I have seen plenty of men who became monks in middle or old age, after being married and having raised children, and they make fine bhikkhus. Tôi cũng đã thấy rất nhiều người trưởng thành xuất gia ở tuổi trung niên hay lớn hơn thế nữa, sau khi đã lập gia đình, có con cái, và họ cũng là những tỳ kheo xuất sắc.
And I’ve seen too many monks, on the other hand, who were ordained before puberty, continue to behave like children. Ngược lại, tôi cũng đã thấy rất nhiều vị tu sĩ xuất gia trước tuổi trưởng thành, vẫn tiếp tục cư xử như trẻ con.
After Venerable Sonuttara cut off my budding romance with the girl at the well, my dissatisfaction with temple life deepened.   Sau khi sư Sonuttara cắt đứt sự lãng mạn thân thiết  của tôi với cô gái bên giếng, thì sự bất mãn với đời sống ở chùa trong tôi càng sâu nặng hơn.
I was a teenager, with a mind of my own and a desire for a more formal education than this teacher could offer me. Tôi là một thiếu niên, với tâm tính bướng bỉnh và ước muốn được giáo dục một cách chính thống hơn là những gì mà thầy tôi có thể mang đến cho tôi.
I wanted to remain a monk, but not under the yoke of this particular Venerable. Tôi vẫn muốn làm người tu sĩ nhưng không phải dưới sự cai quản của vị thầy này.
I could think of no solution except to run away again, but where to? I knew I could no longer go home. Tôi không thể tìm ra giải pháp nào ngoại trừ lại chạy trốn lần nữa, nhưng đi đâu chứ? Tôi biết rằng tôi không còn thể nào trở lại nhà được nữa.
My parents would be heartbroken if I disrobed again. Cha mẹ tôi sẽ rất đau lòng nếu tôi lại hoàn tục.
I couldn’t bring them into this shameful plan.  Tôi không thể mang lại sự tủi nhục cho họ nữa.
About that time, a father and son came to live at the temple.   Vào khoảng thời gian đó, có hai cha con người kia đến sống ở chùa.
The son’s name was Gunawardhena, and he and I became very good friends. Đứa con trai tên là Gunawardhena, và tôi với nó trở thành bạn tốt của nhau.
He kept telling me that he knew another place that was better than this temple, so we hatched a plan to run away together.  Nó luôn nói với tôi rằng nó biết một nơi tốt hơn là chùa này, vì thế chúng tôi lại rấp tâm chuẩn bị chạy trốn với nhau.
This time, I intended to do it right. Lần này, tôi quyết định phải làm cho chắc ăn.
I would run away so that no one would ever find me. Tôi phải chạy trốn làm sao mà không ai có thể tìm được tôi.
On the chosen day I had the village barber shave my head as usual.   Vào ngày đã định, tôi nhờ người thợ hớt tóc trong làng cạo tóc cho tôi như thường lệ.
The whole day I was in a fever of anticipation; so was Gunawardhena. Cả ngày hôm đó tôi luôn ở trong tình trạng phấn chấn với những dự tính của mình; và Gunawardhena cũng thế.
At eleven o’clock that night, I went to the outhouse, and when I came back I left the front door slightly open.  Mười một giờ đêm hôm đó, tôi đi nhà vệ sinh, và khi trở lại tôi để cửa trước hơi hé mở.
At about twelve-thirty, we heard our teacher snoring.   Khoảng mười hai giờ rưỡi khuya, chúng tôi nghe tiếng sư phụ đã ngáy ngủ.
We picked up several candles and walked to the kitchen, where I slipped off my robes and, yet again, pulled on a sarong and shirt. Chúng tôi lấy một ít đèn cầy rồi xuống nhà bếp, nơi tôi lại cởi bỏ y áo và một lần nữa lại mặc vào chiếc áo sơ-mi và cái xà rong.
Leaving the temple grounds, we headed in the direction opposite the one I had used in my last getaway.   Rời khỏi khuôn viên chùa, chúng tôi đi về hướng ngược lại với hướng mà tôi đã đi trong lần chạy trốn trước.
As fast as we could, we ran through rice fields to the main road two miles away. Với tất cả sức lực, chúng tôi chạy băng qua những ruộng lúa ra con đường chánh, cách đó khoảng ba cây số.
All around us were the sounds of nocturnal birds, frogs and crickets, and dogs barking in the distance. Chung quanh chúng tôi chỉ có âm thanh của các con chim đi ăn đêm, cóc nhái, dế, và tiếng chó sủa ở đằng xa.
Once we reached the road we slowed down to a walk.   Khi ra đến đường lộ, chúng tôi bước chậm lại.
Soon we saw two people holding lanterns coming toward us. Chẳng lâu sau chúng tôi thấy hai người cầm đèn tiến về phía chúng tôi.
It was 1942, during the Second World War, and a dusk-to-dawn curfew had been imposed over all of Ceylon. Đó là năm 1942, thời thế chiến thứ hai, và luật giới nghiêm đã được áp dụng ở khắp nơi trên Ceylon.
Nervously, Gunawardhena spoke to me, using not my ordained name but my lay name.   Gunawardhena run rẩy nói với tôi, không dùng pháp danh nhưng gọi tên thế tục của tôi.
“Ukkubanda, those are policemen.  "Ukkubanda, đó là cảnh sát.
They’re going to ask us all kinds of questions. Họ sắp tra vấn chúng ta với đủ các câu hỏi đây.
What shall we tell them?” Chúng ta phải nói với họ làm sao?"
In a flash I made up an entirely fictitious story: “Tell them my mother died yesterday, and that somebody came to the temple to give us the message.   Trong chớp mắt, tôi đã nghĩ ra một câu chuyện hoàn toàn tưởng tượng: "Hãy nói rằng mẹ tôi chết hôm qua, và đã sai người đến chùa nhắn tin với chúng ta.
We missed the bus to go to her funeral, so now we’re walking along the road, and are hoping to catch another bus in the morning.” Chúng ta trễ chuyến xe buýt đi dự đám tang của bà, nên giờ chúng ta phải đi dọc theo đường, hy vọng sáng nay sẽ có thể bắt được chuyến xe buýt khác."
The policemen reached us and eyed me suspiciously.   Mấy người cảnh sát đến gần, nhìn tôi một cách nghi ngờ.
I had a handkerchief tied around my shaved head, and another tied around my neck. Tôi đã dùng một khăn tay cột quanh cái đầu không tóc của mình, và một cái nữa cột chung quanh cổ.
Because I had no belt, I was wearing another handkerchief around my waist to hold up my sarong. Vì không có dây nịt, nên tôi lại dùng một cái khăn nữa cột ngang thắt lưng để giữ chiếc xà rong.
The bundle of candles in my hand, too, was wrapped in a handkerchief. Số đèn cầy trong tay tôi cũng được gói trong một chiếc khăn tay.
“Look at this rascal,” one of the policemen said.   "Hãy nhìn thằng quỷ này," một người cảnh sát nói.
“He has ­handkerchiefs all over him.” "Cả người nó đầy khăn mùi xoa."
They separated me from Gunawardhena and took us about ten yards apart, then asked each of us the same question: Where were we going in the middle of the night?   Họ tách tôi ra khỏi Gunawardhena và dẫn chúng tôi ra xa nhau khoảng mười thước, rồi hỏi mỗi đứa chúng tôi cùng một câu hỏi: Chúng tôi đi đâu giữa đêm hôm khuya khắt thế này?
Both of us told the same story, so the policemen let us go, not even mentioning the curfew.   Cả hai chúng tôi đều nói giống nhau, nên hai người cảnh sát để chúng tôi đi, không đá động gì đến chuyện giới nghiêm.
All they said was to be sure to use a candle as we walked. Họ chỉ nói là khi đi chúng tôi cần phải đốt đèn cầy lên.
Within two hours we arrived at Kurunegala, about eleven miles from the temple.   Hai tiếng sau chúng tôi đến Kurunegala, cách chùa khoảng hơn mười lăm cây số.
Now we felt safer and were pretty sure Venerable Sonuttara wouldn’t follow us this far.  Giờ thì chúng tôi cảm thấy an toàn hơn, vì chắc chắn rằng sư Sonuttara không thể nào đi theo chúng tôi xa đến vậy.
Just as it was starting to get light, we came upon a roadside shelter, one of many typical structures known as pilgrims’ rest houses.   Khi trời bắt đầu sáng, chúng tôi tìm được một nơi trú ẩn bên đường, một trong những hình thức thường được biết đến như là những nhà nghỉ dành cho người hành hương.
The hut had low walls, a straw roof, and a dirt floor upon which people rolled out straw mats to lie down on. Căn lều có tường thấp, mái tranh, nền đất mà người ta trải chiếu nằm lên đó.
Most of the time, these primitive, open-air huts were occupied by travelers resting in the shade and beggars cooking whatever food they had scrounged. Phần lớn, những căn lều thô sơ, trống trải này được người lữ hành sử dụng để tránh nắng mưa và mấy gã ăn mày dùng làm nơi nấu nướng bất cứ thứ gì mà họ đã cuỗm được.
Gunawardhena and I were lucky.   Gunawardhena và tôi thật may mắn.
This particular shelter was unoccupied that morning. Buổi sáng đó không có ai ở trong căn lều nọ.
Gratefully, we sank to the ground and were asleep almost immediately.  Mừng rỡ, chúng tôi nhào xuống đất và đánh một giấc ngay tức thì.
Several hours later, we woke up and washed our faces with cold water from a well.   Vài giờ sau, chúng tôi thức dậy rửa mặt với nước giếng lạnh.
We started walking again, not knowing exactly where we were going. Chúng tôi lại bắt đầu đi tiếp, không rõ mình sẽ đi về đâu.
We just walked.  Chúng tôi chỉ đi tới.
The scenery changed constantly.   Cảnh vật chuyển đổi không ngừng.
We passed coconut groves, rubber and tea estates, terraced rice paddies, banana plantations, and small vegetable gardens outside one-room huts. Chúng tôi đi qua những hàng dừa, những đồn điền cao su và trà, những thửa ruộng lúa, vườn chuối và các khu vườn trồng rau nhỏ bên ngoài những túp lều một gian.
There seemed to be stray dogs everywhere, many of which had completely lost their fur, and more with numerous wounds from bites of other dogs or beatings by humans. Hình như ở đâu cũng có chó hoang, nhiều con đã hoàn toàn rụng hết lông, và cũng lắm con mình đầy thương tích, vì bị chó khác cắn hay bị người ta đánh.
Often we saw wild monkeys swinging in the trees or running on the ground. Chúng tôi cũng thường thấy khỉ rừng đong đưa trên cây hay chạy rong dưới đất.
In the distance, every so often, we could hear elephants trumpeting. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe từ xa xa tiếng voi rống.
There were occasional cars, trucks, buses, motorcycles, and rickshaws, all honking their horns to warn pedestrians and people sitting in the road.   Đôi khi cũng có xe hơi, xe hàng, xe buýt, xe máy và xe kéo, tất cả đều nhấn kèn để cảnh báo cho người đi bộ và người bên đường.
But most of the traffic was human.   Nhưng phần lớn lưu thông trên đường là người đi bộ.
We passed men, women, and children simply walking or herding cows and chickens. Chúng tôi đã đi qua bao người đàn ông, phụ nữ, và trẻ em đi trên đường hay chăn bò, đuổi gà.
Some rode in primitive wooden carts pulled by oxen. Có người đánh những chiếc xe bò bằng gỗ thô sơ.
Along the roadsides were small mud huts that functioned as shops.   Dọc theo đường có những căn nhà nhỏ làm bằng bùn là những tiệm buôn bán.
People sat in front of them, chewing betel nuts and drinking tea and gossiping. Người ta ngồi trước các cửa tiệm này, nhai trầu, uống trà và tán gẫu.
Travelers could stop and buy tea, small loaves of bread, areca nuts, dried fish, ropes made of coconut fiber, and occasionally staples such as sugar, salt, rice, lentils, and kerosene. Khách qua đường có thể dừng chân mua trà, bánh mì, cau ăn trầu, khô, dây thừng làm từ các sợi dây dừa và lương thực như đường, muối, gạo, đậu, và dầu lửa.
Most everyone smoked.
People would buy one or two cigarettes at a time, or maybe a bidi, the poor man’s smoke that only cost about one-fifth of a cent.
It was basically just a dry leaf filled with a pinch of tobacco — meager, but serviceable.
Gunawardhena and I had a little money we had stolen from Venerable Sonuttara’s room before leaving the temple, so we bought a couple of loaves of bread.   Gunawardhena và tôi đã lấy cắp được ít tiền trong phòng của sư Sonuttara trước khi rời chùa, nên chúng tôi có tiền mua ít ổ bánh mì.
On somebody’s land next to the road we saw a heap of coconuts.  Chúng tôi thấy một trong đống dừa trong vườn nhà ai đó cạnh bên đường.
We stole one and broke it open by smashing it against the ground.  Chúng tôi ăn cắp một trái, đập xuống đất cho đến khi bể ra.
The flesh of that coconut, and the bread, was our first meal on our journey.  Thịt dừa, cùng với bánh mì, là bữa ăn đầu tiên của chúng tôi trong cuộc hành trình này.
We walked twenty-five miles that day.   Ngày hôm đó chúng tôi đã đi ba mươi lăm cây số.
Late in the evening we arrived at a town called Dambulla.  Chiều tối chúng tôi đến một thành phố gọi là Dambulla.
We found another empty pilgrims’ rest house, spread some palm fronds on the floor, and lay down. Chúng tôi lại tìm được một nhà nghỉ cho người hành hương còn trống nữa. Chúng tôi trải vài tàu lá dừa trên sàn nhà, và nằm xuống.
We were exhausted. Chúng tôi hoàn toàn kiệt sức.
The next morning we woke to find ourselves covered with ticks and sand flies.   Sáng hôm sau thức dậy chúng tôi thấy cả người đầy rận và ruồi đất.
We went to a nearby well, and there, we broke sticks from a bush and started to brush our teeth with their fibrous ends. Chúng tôi ra một giếng gần bên, bẻ vài cọng cây trong bụi rậm và bắt đầu đánh răng bằng cọng cây đầy sơ.
A monk approached us, eyeing me carefully.   Một tăng sĩ tiến lại phía chúng tôi, nhìn tôi lom lom.
I tried to ignore him.  Tôi cố gắng phớt lờ ông.
“Have you been a monk?” he asked, looking at my hairless head.   "Con là tu sĩ?" ông hỏi, nhìn cái đầu không tóc của tôi.
“No,” I lied easily.    "Không," tôi nói dối một cách dễ dàng.
“I’ve been sick. "Tôi bị bệnh.
I just got out of the hospital yesterday.” Tôi vừa ra viện hôm qua."
“You don’t look like you’ve been sick,” he said.     "Con trông không giống người bệnh," vị tăng nói.
“I think you’re a monk.  "Sư nghĩ con là tu sĩ.
Come with me.  Hãy theo sư.
I’ll ordain you again, at my temple.”  Sư sẽ truyền giới lại cho con, ở chùa của sư."
I considered his offer.   Tôi suy nghĩ về điều đó.
I still had a desire to be a monk, deep inside me. Tự đáy lòng, tôi vẫn còn muốn làm người tu.
I had only disrobed because Venerable Sonuttara had been so cruel. Tôi chỉ cởi bỏ y áo vì thầy tôi quá ác độc.
This monk seemed kinder. Vị sư này có vẻ tử tế hơn.
But of course, I couldn’t go without consulting my friend. Nhưng dĩ nhiên là tôi không thể đi mà không bàn với bạn tôi.
I turned to Gunawardhena.   Tôi quay qua Gunawardhena.
“What do you think?” I asked him.   "Bạn nghĩ sao?" tôi hỏi nó.
“I really don’t want to disrobe.  "Tôi thật sự không muốn hoàn tục.
Here is a chance for me to be a monk again.”  Đây là cơ hội để tôi được trở về làm người tu sĩ."
“Are you crazy?” Gunawardhena said.   "Bạn điên à?" Gunawardhena nói.
“Don’t you remember what our teacher did to us? All these monks are alike. "Bạn không nhớ thầy mình đã làm gì chúng ta à? Tất cả các thầy đều giống nhau.
They have no heart. Họ không có trái tim.
They only think about their rules and regulations. Họ chỉ nghĩ về luật lệ và giới cấm.
Don’t be a fool, let’s go.” Đừng có điên, hãy đi thôi."
The monk sweetened his offer.   Vị tăng sĩ càng dỗ ngọt.
He said that he knew some British officers at a nearby military airport. Ông bảo rằng ông quen biết vài viên chức người Anh ở một phi trường quân sự cạnh bên.
He could get Gunawardhena a job there, he promised. Ông hứa sẽ tìm cho Gunawardhena một việc làm ở đó.
We could both live at the temple, and I could be a monk while Gunawardhena worked at the airport.  Cả hai chúng tôi đều có thể sống ở chùa, tôi có thể là tu sĩ trong khi Gunawardhena làm việc ở phi trường.
Gunawardhena would hear none of it, and I didn’t want to abandon my friend.   Gunawardhena không muốn nghe bất cứ điều gì, và tôi không muốn bỏ rơi bạn mình.
So we left the monk and started walking again. Vì thế chúng tôi từ giã vị sư và bắt đầu đi tiếp.
The next day we ran into a man who said that he worked for a civilian contractor.   Ngày hôm sau chúng tôi gặp một người đàn ông, làm việc cho một nhà thầu xây dựng nhân sự.
“If you want to work, come with me,” the man told us. "Nếu muốn kiếm việc làm thì hãy đi theo tôi," hắn nói với chúng tôi.
“We have plenty of jobs available.” "Chúng tôi có rất nhiều việc cần người làm."
We agreed.   Chúng tôi đồng ý.
Our job turned out to be hard manual labor.   Công việc của chúng tôi thật ra là công việc lao động tay chân nặng nề.
We were given two shovels and two bamboo baskets and told to collect sand from a creek bed, then pile it in large heaps for collection. Họ trao hai cái xẻng và hai cái cần xé cho chúng tôi, rồi bảo chúng tôi đi xúc cát dưới suối, đổ thành đống lớn.
For several months we worked there, part of a crew of about twenty young men. We worked from 7 A.M. to 7 P.M.   Nhiều tháng qua, chúng tôi đã làm việc ở đó trong một nhóm khoảng hai mươi thanh niên, từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối.
 Our pay was 1.2 rupees a day, the equivalent of about fifty cents. Lương là một chấm hai rubi một ngày, tương đương với khoảng năm mươi xu.
Out of that salary, the boss deducted about twenty-five cents for our meals. Từ số lương đó, chủ còn trừ hai mươi lăm xu ăn uống.
Breakfast was a cup of tea with sugar, and dinner was rice with lentils.  Mặc dù, điểm tâm là một ly trà với đường, và buổi tối là cơm với súp.
We slept in hammocks made by tying a gunny sack between two trees. Chúng tôi ngủ trong những chiếc võng được làm bằng cách cột một bao tải giữa hai thân cây.
The jungle was alive with mosquitoes.   Rừng đầy muỗi.
They bit us night and day, and sure enough, before long, Gunawardhena came down with malaria. Chúng tôi bị chúng cắn ngày đêm và không lâu sau đó thì Gunawardhena bị sốt rét.
He had a high fever and could not work. Nó bị sốt cao và không thể làm việc.
I asked our boss for two days off, so I could take care of my friend.   Tôi xin ông chủ hai ngày phép, để tôi có thể chăm sóc bạn mình.
He refused. Ông ta từ chối.
“I’ve worked for you for months, seven days a week, twelve hours a day,” I said.   "Tôi đã làm cho ông hàng tháng, bảy ngày một tuần, mười hai giờ một ngày," tôi nói.
“All I want is a couple of days’ break.” "Mà tôi chỉ xin một vài ngày nghỉ."
Again, he refused.   Ông ta nhất định từ chối.
Either I had to keep working, or both Gunawardhena and I had to leave the work camp. Một là tôi phải tiếp tục làm việc, hai là cả tôi và Gunawardhena phải rời trại lao động.
“All right,” I said.   "Được rồi," tôi nói.
“Give us the rest of our salary.” "Hãy trả hết lương cho chúng tôi đi."
The boss paid us, and we left.    Ông chủ trả tiền và chúng tôi ra đi.
Thus began our life as beggars.    Thế là chúng tôi bắt đầu cuộc đời của những kẻ ăn mày.
By day we wandered along dusty roads. Ban ngày chúng tôi lang thang dọc theo những con đường bụi bặm.
By night we shared other beggars’ meager meals in the roadside huts, telling jokes, singing, and dancing to pass the time. Ban đêm chúng tôi chia phần thức ăn ít ỏi của những người ăn xin khác trong các căn lều bên đường, rồi đùa giỡn, ca hát,  nhảy múa và kể chuyện phím để giết thì giờ.
For several weeks we didn’t bathe.   Mấy tuần chúng tôi không tắm.
Our clothes were filthy and we smelled bad. Quần áo chúng tôi dơ bẩn và chúng tôi hôi thối.
Every morning the other beggars would leave for “work” and ask us which area we planned to beg in that day. Mỗi sáng những người ăn xin khác sẽ rời nhà đi "làm việc" và hỏi chúng tôi định ngày đó xin ăn ở địa điểm nào.
“We don’t know,” was always our answer.   "Không biết," luôn là câu trả lời của chúng tôi.
The truth was, we didn’t beg at all. Sự thật là, chúng tôi không đi xin chỗ nào hết.
We just ate whatever food other people were willing to share with us. Chúng tôi chỉ ăn bất cứ thứ gì mà người khác muốn chia sẻ với chúng tôi.
We were lazy beggars. Chúng tôi là những người ăn xin lười biếng.
Gradually Gunawardhena recovered from malaria and regained his strength.   Dần dần Gunawardhena khỏi bệnh sốt rét và hồi phục sức khoẻ trở lại.
But then, one morning I woke up with severe pain in my right leg. I felt feverish. Nhưng rồi, một buổi sáng kia, khi thức dậy tôi cảm thấy đau buốt ở chân phải và gây gây sốt.
Looking closely at my leg, I found a red blotch on the thigh about four inches above my knee. Quan sát kỹ, tôi thấy một vết đỏ ở trên đùi cách đầu gối khoảng mười centimet.
One of the beggars sharing our shelter peered at the wound and declared it a snakebite.  Một người ăn xin ở chung chỗ, săm soi vết thương và bảo rằng đó là vết rắn cắn.
The pain was excruciating, and I could barely lift my leg. Sự đau nhức tăng dần lên, và tôi gần như không thể nhấc nổi chân.
Gunawardhena and I stayed behind when the other beggars left.   Gunawardhena và tôi phải ở lại phía sau khi những người ăn xin khác ra đi.
After about two hours, I struggled to my feet and limped out of the hut. Khoảng hai giờ sau đó, tôi cố gắng đứng lên và đi cà nhắc ra khỏi lều.
We had barely walked ten yards when we ran into a man about twenty-five years old.   Chúng tôi chỉ mới đi được khoảng mười thước thì gặp một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuổi.
Neither of us had ever seen him before. Chúng tôi chưa từng gặp anh ta trước đó.
For some reason I couldn’t understand, he and Gunawardhena struck up an instant friendship. Nhưng vì một lý do gì đó tôi không biết, anh ta và Gunawardhena trở nên thân thiết ngay.
They started joking and laughing like old buddies. Họ bắt đầu cười đùa giống như những người bạn thân lâu ngày.
Probably Gunawardhena was feeling weighed down by me and my lame leg; he was relieved to run into someone who was more fun. Có lẽ Gunawardhena cảm thấy tôi và cái chân cà nhắc của tôi là một trở ngại cho anh; anh ta như trút được gánh nặng khi gặp một người vui vẻ hơn.
The three of us walked together, with me lagging behind.   Ba người chúng tôi đi với nhau, nhưng tôi đi chậm ở đằng sau.
Within five minutes, Gunawardhena turned to me. Khoảng chừng năm phút sau Gunawardhena quay lại nói với tôi.
“Ukkubanda, since you can’t walk very fast, why don’t I go ahead with this man? You take your time and walk as slow as you need.   "Ukkubanda, vì bạn không thể đi nhanh, tôi sẽ đi trước với anh bạn này? Còn bạn, cứ thong thả, cần đi chậm cứ đi.
We’ll wait for you in Lovamahapaya.” Chúng tôi sẽ đợi bạn ở Lovamahapaya."
I was immediately struck with fear.   Ngay lập tức tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi.
Lovamahapaya was a six- or seven-hour walk. Muốn đến Lovamahapaya phải đi bộ sáu đến bảy tiếng.
“No, don’t leave me alone,” I begged.   "Không, đừng bỏ tôi lại một mình," tôi van nài.
“I can’t walk by myself. "Tôi không thể đi một mình.
I need your help. Tôi cần bạn giúp đỡ.
Please stay with me.” Xin hãy ở lại với tôi."
Then the incomprehensible happened: Gunawardhena ignored me and simply walked away with his new friend.   Rồi thì chuyện không thể hiểu được đã xảy ra: Gunawardhena phớt lờ tôi và bước thẳng tới với người bạn mới của mình.
I sat down and started crying.   Tôi ngồi xuống và bắt đầu khóc.
My leg was throbbing. Chân tôi buốt đau.
I couldn’t believe what was happening. Tôi không thể tin điều gì đã xảy ra.
How ungrateful Gunawardhena was.   Gunawardhena thật là vô ơn.
We had planned our adventure together, weeks ahead of time, and I had given up the monkhood to run away with him. Chúng tôi đã sắp đặt cuộc hành trình này với nhau, nhiều tuần trước đó, và tôi đã từ bỏ cuộc sống tu hành để chạy trốn theo nó.
When he got sick in the jungle, I had given up the construction job. Khi nó bị bệnh trong rừng, tôi đã bỏ luôn việc làm của mình.
All these months, we had been traveling friends. Bao nhiêu ngày tháng, chúng tôi đã đi với nhau như bạn bè.
We had depended on each other. Chúng tôi đã dựa vào nhau để sống.
And now, when I needed him most, he had abandoned me. Vậy mà bây giờ, khi tôi cần nó, nó lại bỏ rơi tôi.
I had no companion, no home, no money, no food.   Tôi không có bạn bè, không nhà cửa, không tiền bạc, không lương thực.
I was at rock bottom, and I was utterly alone.  Tôi ở tận cùng vực thẳm và tôi hoàn toàn cô đơn.
What in the world was I going to do?   Bây giờ tôi phải làm sao đây?