Chương 4. Xuất Gia Lần Nữa

HIỆN TẠI TOÀN BỘ AUDIO SẼ KO THỂ KHÔI PHỤC TỰ ĐỘNG. Mọi người hãy yêu cầu ở đây, ad sẽ ưu tiên xử lý trước.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.
CHAPTER FOUR. A Monk Once Again Chương 4. Xuất Gia Lần Nữa
FOR AN HOUR after Gunawardhena had abruptly left me by the roadside, I just sat there, alone and confused.    Sau khi Gunawardhena bỏ đi đột ngột, tôi chỉ ngồi đó, cô đơn và bối rối.
What had started out as the great adventure of running away from our temple had turned into a frightening ordeal. Những gì đã bắt đầu như một cuộc phiêu lưu kỳ thú, từ việc bỏ trốn khỏi chùa đã biến thành một thử thách đáng sợ.
I had a leg badly swollen from snakebite, I was hungry, and my traveling companion was gone forever, for all I knew. Chiếc chân bị rắn cắn đã sưng lên dữ dội, tôi lại đói khát và người bạn đồng hành đã mất hút.
I had never felt so low in my life.  Hoàn cảnh lúc đó của tôi là như thế!  Chưa bao giờ trong cuộc đời, tôi cảm thấy chán nản như thế.
Eventually, though, something inside me commanded me to get up.   Tuy nhiên, dần dần một điều gì đó bên trong thôi thúc khiến tôi đứng dậy:
“Keep moving,” the voice seemed to say.Hãy đi tới, hình như đó là tiếng nói bên trong tôi.
So I got to my feet and started limping along the deserted road.   Vì thế tôi đứng dậy và bắt đầu lết dọc theo con đường vắng vẻ.
I walked for several hours until finally I came upon a girl sitting in the shade of a tree. Tôi đi như thế hàng giờ, cho đến khi cuối cùng tôi gặp một cô gái ngồi dưới bóng cây.
She was selling fruits, nuts, bread, tea, and vegetables. Cô đang bán trái cây, đậu, bánh mì, trà và rau quả.
I sat down on a rough bench.   Tôi ngồi xuống trên một chiếc ghế đẩu.
“Why are you limping?” she asked me.   "Tại sao anh lê lết như thế?" cô hỏi tôi.
I explained that a snake had bitten my leg the night before.   Tôi giải thích rằng một con rắn đã cắn chân tôi đêm hôm trước đó.
The girl asked me more questions: what my name was, where I came from, and why I was traveling alone.   Cô gái lại hỏi tôi thêm nhiều điều nữa: tên tôi là gì, tôi từ đâu đến, và tại sao tôi đi chỉ một mình.
I told her my whole story. Tôi đã kể cho cô nghe tất cả câu chuyện.
She gave me a piece of bread with lentil curry, and a good cup of hot tea.   Cô cho tôi một miếng bánh mì với cà ri rau cải, và một ly trà nóng hổi thật ngon.
Gratefully, I accepted the meal.  Tôi tiếp nhận bữa ăn với lòng vô cùng biết ơn.
She went inside her tiny hut and came out with a piece of lemon.   Cô đi vào căn lều nhỏ bé của mình và mang ra một miếng chanh.
She rubbed the lemon on the wound in my thigh, then massaged some oil into it. Cô chà chanh lên vết thương ở đùi tôi, rồi xát ít dầu lên đó.
She asked me to stay there until her father came home from work, but I said that I needed to get to Lovamahapaya to meet my friend. Cô bảo tôi ở lại đó cho đến khi cha cô trở về nhà, nhưng tôi bảo rằng tôi phải đến Lovamahapaya để gặp bạn tôi.
I was hoping Gunawardhena might indeed be waiting for me there. Tôi vẫn hy vọng Gunawardhena thật sự đang chờ đợi tôi ở đó.
I started down the road again, still limping.   Tôi lại tiếp tục lên đường, với cái chân lết.
Pretty soon I arrived in the town of Anuradhapura. Chẳng bao lâu tôi đến một thành phố tên là Anuradhapura.
One of the first places I saw was a restaurant called the Siyasiri Hotel (restaurants were called hotels in those days). Một trong những nơi đầu tiên tôi đến là một quán ăn gọi là khách sạn Siyasiri (thời đó người ta gọi quán ăn là khách sạn).
The manager greeted me, then asked why I was limping. Vị quản lý chào đón tôi, rồi hỏi tại sao tôi đi cà nhắc.
I told him about the snakebite. Tôi kể với ông về chuyện rắn cắn.
He asked why I was alone. Ông hỏi tại sao tôi chỉ có một mình.
I told him how I couldn’t keep up with my traveling friend, so he had gone on ahead to Lovamahapaya. Tôi bảo với ông là tôi không theo kịp người bạn đồng hành, vì thế anh ta đã đi trước đến Lovamahapaya.
“Everybody who passes through here comes to this hotel,” the manager said.   "Ai đi qua đây cũng ghé vào quán này," người chủ quán nói.
“Stay here.  "Hãy ở lại đây.
If they come through this town, when they arrive you’ll see them.” Nếu họ đi ngang qua thành phố này, em sẽ gặp họ."
I agreed, and sat down to wait.   Tôi đồng ý, và ngồi xuống đợi.
By 11 P.M., my head was nodding. Tới khoảng mười một  giờ đêm, tôi bắt đầu ngủ gục.
The manager could see I was very tired.  Người quản lý có thể thấy là tôi rất mệt mỏi.
“You should stay overnight,” he said.   Ông nói: "Em hãy ở lại đêm nay." 
He gave me a straw mat to sleep on.Rồi ông đưa cho tôi một chiếc chiếu để ngủ.
And that was the last thing I knew until eight o’clock the next morning.   Và đó là điều cuối cùng tôi nhớ cho đến tám giờ sáng hôm sau.
As soon as I woke up, I asked the manager if Gunawardhena had arrived.   Ngay khi vừa thức dậy, tôi đã hỏi người quản lý rằng Gunawardhena đã đến chưa?
“No,” he said, shaking his head.   "Không," ông lắc đầu nói.
“Nobody came looking for you. "Không có ai đến tìm em cả.
But you stay here, I can give you a little job.” Nhưng thôi em hãy ở lại đây, tôi sẽ cho em một công việc làm."
I didn’t know what else to do, or where else to go, so I accepted his offer.   Tôi không biết phải làm gì khác hay đi đâu nữa, nên tôi chấp nhận lời đề nghị của ông.
And thus I became a waiter at the Siyasiri Hotel in Anuradhapura.   Và thế là tôi trở thành một người bồi bàn ở khách sạn Siyasiri ở Anuradhapura.
It was a pleasant enough job. Công việc cũng khá nhàn hạ.
Several other young people worked at the restaurant, and we all got along well. Có một số thanh niên khác làm ở quán, và chúng tôi hòa hợp vui vẻ với nhau.
I waited on customers, cleaned tables, and washed dishes. Tôi phục vụ khách hàng, lau dọn bàn ghế, và rửa chén.
One day, several weeks later, I came down with a malarial fever and felt too sick to work.   Một ngày kia, khoảng vài tuần sau đó, tôi lại bị sốt rét và cảm thấy quá mệt mỏi không thể làm việc.
While resting, I wrote my mother a letter to let her know where I was. Trong khi nghỉ ngơi, tôi viết cho mẹ một lá thư để báo cho bà biết tôi đang ở đâu.
I felt guilty, knowing that she probably had heard the news of my running away from the temple, and that she must be worried sick about me. Tôi cảm thấy hối hận, biết rằng bà có lẽ đã nghe được tin tôi trốn khỏi chùa, và mẹ tôi chắc hẳn đang rất lo rầu về tôi.
A few days later, when I was back at work, I went to the nearby well to draw water for the restaurant.   Vài ngày sau đó, khi tôi trở lại làm việc, tôi ra giếng gần đó để lấy nước cho quán ăn.
Another boy was there, too. Có một cậu bé cũng đang ở đó.
I borrowed his bucket and used it to draw some water and pour it in my bucket. Tôi mượn cái gàu của nó để dùng kéo nước đổ vào thùng của tôi.
As I handed his bucket back to him, the boy dropped it into the well, rope and all. Khi tôi đưa trở lại cho cậu bé cái thùng, nó làm rớt tất cả xuống giếng kể cả dây thừng.
He started to cry, knowing how much trouble he would be in for losing the bucket. Nó bắt đầu khóc, vì đã đánh mất cái thùng thì nó sẽ gặp rắc rối.
But I had customers in the restaurant waiting for fresh water for their tea.   Nhưng khách hàng ở quán ăn đang đợi nước nấu trà.
I had to hurry. Tôi phải trở về đó ngay.
I told the boy that I would take my bucket of water to the restaurant, then I would come right back and help him fish his bucket out of the well.  Tôi bảo với cậu bé rằng tôi xách nước về quán rồi tôi sẽ trở lại ngay để giúp nó kéo chiếc thùng lên khỏi giếng.
But when I walked into the restaurant carrying a full bucket of water, my eldest brother, Tikiribanda, was standing at the entrance.   Nhưng khi tôi bước vào quán với chiếc thùng đầy nước thì anh cả của tôi, Tikiribanda, đang đứng ở cửa quán.
As soon as he caught sight of me, he demanded that I come home with him. Ngay khi vừa thấy tôi, anh bắt tôi phải về nhà với anh.
Mother was crying nonstop, he said, ever since she had heard the news of my escape from the temple. Mẹ đã khóc suốt, anh nói, kể từ khi bà nghe tin tôi chạy trốn khỏi chùa.
My brother was almost as intimidating as my father.   Anh tôi cũng đáng sợ gần như cha tôi.
I dared not disobey his command. Tôi không dám cãi lệnh của anh.
I forgot all about the poor boy waiting at the well for me to come and help him retrieve his bucket.   Tôi hoàn toàn quên mất cậu bé đáng thương đang chờ đợi tôi ngoài giếng, để giúp nó vớt cái thùng ra khỏi giếng.
I forgot about the kind restaurant manager who had given me a chance to start a new life. Tôi cũng quên người quản lý quán tử tế đã giúp tôi có cơ hội bắt đầu một cuộc đời mới.
“I have opened a small shop,” my brother told me.   "Anh đã mở được một tiệm buôn nhỏ," anh tôi nói.
“You can come and help me run it.”  "Em có thể về giúp anh buôn bán."
Later I found out that the day after Gunawardhena and I left the temple, Venerable Sonuttara had reported our disappearance to the police.   Sau này tôi được biết rằng sau ngày Gunawardhena và tôi rời chùa, sư Sonuttara đã báo với cảnh sát về sự ra đi của chúng tôi.
My father went to the temple and demanded my teacher find me and return me home. Cha tôi đã đến chùa và yêu cầu thầy tôi phải tìm tôi trở về nhà.
By then, Father realized that Venerable Sonuttara was an angry, cruel man, and that my problems at the temple were not just due to my misbehavior. Tới lúc đó, cha tôi mới nhận thức được rằng sư Sonuttara là người nóng tánh, tàn nhẫn, và những vấn đề ở chùa không phải chỉ là do tôi hành động sai trái.
My father knew that my stories of being abused at the hands of my teacher were not lies, but by then, of course, it was too late. Cha tôi biết  những câu chuyện về việc đối xử thô bạo của thầy tôi là sự thật, nhưng dĩ nhiên, lúc đó đã quá trễ.
I had left the temple, and that time, I didn’t run home. Tôi đã bỏ trốn khỏi chùa, và lần đó, tôi đã không chạy về nhà.
Meanwhile, police officers were combing the countryside for me.   Trong lúc đó, các nhân viên cảnh sát lùng sục khắp nơi để tìm tôi.
Then came my letter from Anuradhapura. Mother and Father immediately dispatched my oldest brother to fetch me.   Rồi khi lá thư của tôi đến từ Anuradhapura, mẹ và cha tôi lập tức sai anh cả đi tìm tôi.
My parents, especially my mother, were overjoyed to see me alive and well, but it was uncomfortable being in their house again.   Cha mẹ tôi, nhất là mẹ tôi quá vui mừng thấy tôi còn sống và khoẻ mạnh, nhưng tôi thật không thoải mái khi trở về nhà.
All the neighbors called me “ex-monk,” which was a great insult.  Tất cả mọi người láng giềng đều gọi tôi là "tu sĩ hoàn tục," là một sỉ nhục lớn.
My father didn’t want to have an “unlucky” son around; he asked me to reordain. Cha tôi không muốn có đứa con ‘bất hạnh' này ở gần ông; ông bắt tôi phải xuất gia trở lại.
To keep away from Father so that we didn’t have to talk much, I kept busy at a series of small jobs.   Để lảng tránh cha, để không phải nói chuyện nhiều với ông, tôi kiếm đủ chuyện lặt vặt để làm.
One of them was digging flood-control ditches on a rubber estate near our house. Một trong những công việc đó là đào kênh chống lũ, trên đồn điền cao su gần nhà chúng tôi.
This estate was run by a large company.    Đồn điền này do một công ty lớn cai quản.
They paid a meager salary, and the work was backbreaking. Họ trả lương rất tệ mà công việc rất nặng nhọc.
I would fill bucket after bucket with soil, and then women carried the buckets to a dumping ground. Tôi phải xúc từng thúng đất đầy, rồi các chị phụ nữ khiêng chúng đến chỗ đổ đất.
One time, one of those women saw the deep blisters on my hands from the shovel, and she offered to trade jobs with me. Một lần, một chị thấy các vết phồng dộp trên tay tôi vì phải cầm xuổng xúc đất, nên chị đề nghị đổi công việc với tôi.
So for a while, she dug the soil and I carried the full buckets. Vì thế chị xúc cát, còn tôi thì khiêng mấy thúng cát đầy.
After that job, I picked tea leaves.   Sau công việc đó, tôi quay qua hái trà.
That also was monotonous, hard labor. Đó cũng là một công việc cực nhọc, nhàm chán.
I would have preferred to work at my brother’s shop, of course, but he had closed it only a couple of months after opening. Dĩ nhiên là tôi thích làm việc ở tiệm của anh tôi hơn, nhưng anh đã phải đóng cửa tiệm chỉ vài tháng sau khi mở.
People in the village were too poor to support his shop. Người dân trong làng nghèo quá không thể mua gì ở tiệm của anh.
Most of them couldn’t afford to buy even the simplest staples. Phần lớn không có khả năng mua ngay cả những thứ tầm thường nhất.
I spent much of my free time at my sister’s house, the same sister who had nursed me when I was young, the woman I called my second mother.   Thời gian rảnh rỗi tôi thường đến nhà chị gái của tôi, người đã chăm sóc tôi thuở nhỏ, người mà tôi coi như người mẹ thứ hai.
Since her husband had died, there was no adult male in the house. It was only my sister, her infant son, and her one daughter, my niece, who was just five months older than me. Kể từ khi chồng chị mất, không có người đàn ông trong nhà, chỉ có chị tôi, đứa con trai nhỏ của chị và một đứa con gái, cháu tôi, chỉ lớn hơn tôi năm tháng.
They were very kind to me and I felt more at home with them than with my own parents.   Họ rất tử tế với tôi và tôi cảm thấy thoải  mái ở bên họ hơn là ở nhà cha mẹ ruột của mình.
So a few weeks after I had returned home, I moved from my parents’ house to my sister’s house. Vì thế một vài tuần sau khi trở về nhà, tôi dọn từ nhà cha mẹ đến nhà chị gái của tôi.
That was a more peaceful arrangement, but I still wasn’t really comfortable with the life of a householder. Đó là một sự thay đổi dễ chịu hơn, nhưng tôi vẫn thực sự không cảm thấy thoải mái với đời sống tại gia.
My original desire to be a monk still burned within me, despite everything that had happened. Niềm ước muốn ban đầu của tôi là được trở thành một tăng sĩ vẫn còn nung nấu trong tôi, không kể bao nhiêu chuyện đã xảy ra.
I began to think more and more about my teacher and the temple I had left five months before.   Tôi bắt đầu nghĩ nhiều hơn về thầy tôi và ngôi chùa tôi đã rời bỏ năm tháng trước đây.
I felt regret for having run away. Tôi cảm thấy hối hận vì đã bỏ trốn.
My mind had softened toward Venerable Sonuttara, and I remembered his good qualities. Lòng tôi dịu lại đối với sư Sonuttara, và tôi nhớ đến những tính tốt của ông.
I thought that I should at least apologize to him. Tôi đã nghĩ rằng ít nhất tôi cũng phải đến xin lỗi ông.
One day, when my sister had gone to visit her dead husband’s relatives, I decided I would secretly go to see my teacher. Một ngày kia, khi chị tôi đã đi viếng bà con bên chồng, tôi quyết định bí mật đi gặp thầy tôi.
It was anovernight visit because of the distance, but I figured I could be back before my sister returned. Cuộc viếng thăm đó phải qua đêm vì đường xá xa xôi, nhưng tôi dự tính là tôi có thể trở về nhà trước chị tôi.
I knew she wouldn’t approve of this visit. Tôi biết rằng chị sẽ không đồng ý cho sự thăm viếng này.
She wanted me to live at her house permanently and give up my dreams of being a monk. Chị muốn tôi sống ở nhà chị mãi và từ bỏ giấc mơ trở thành tăng sĩ.
As I was preparing to leave, my niece cried and asked me not to go.   Khi tôi chuẩn bị ra đi, cháu tôi khóc, van nài tôi đừng đi.
I told her not to worry and that I’d be back the next day. Tôi khuyên cháu đừng lo lắng và rằng tôi sẽ trở về ngày hôm sau.
She continued to cry as I walked off in the direction of the temple. Cháu tiếp tục khóc khi tôi rời khỏi nhà đi về hướng chùa.
When Venerable Sonuttara saw me he was relieved.   Khi sư Sonuttara thấy tôi, ông như trút được gánh nặng.
Even though he wasn’t always the kindest teacher, he wanted to keep me in monks’ robes as much as I wanted to be in them. Mặc dầu không phải lúc nào ông cũng là người thầy tử tế nhất, nhưng ông không muốn tôi bỏ tu, mà tôi cũng không muốn thế.
I apologized for running away, and he asked me if I was ready to ordain again.  Tôi xin lỗi sư vì đã chạy trốn, và ông hỏi tôi có sẵn sàng để xuất gia lần nữa không.
“Yes,” I answered, certain of my decision.   "Dạ có," tôi trả lời, rất chắc chắn về quyết định của mình.
“But I don’t want to live in the temple as a novice. "Nhưng con không muốn chỉ làm chú tiểu sống ở chùa.
I want to go to monks’ school.”  Con muốn được đi học trường Phật học."
He agreed immediately.   Thầy lập tức nhận lời.
Two days later, after a simple ceremony, I was wearing the orange robes again.   Hai ngày sau đó, sau một buổi lễ đơn giản, tôi lại mặc lên mình chiếc y màu vàng lần nữa.
This time, I would never take them off. Lần này, tôi sẽ không bao giờ cởi nó ra nữa.
Venerable Sonuttara contacted another monk, Venerable Siyambalangamuwe Dhammakkhandha, who ran a small primary school for monks in the Gampaha district. It was about sixty miles from the temple.   Sư Sonuttara liên hệ với một vị sư khác, đại đức Siyambalangamuwe Dhammakkhandha, người quản lý một ngôi trường tiểu học nhỏ dành cho tăng sĩ ở huyện Gampaha, cách chùa khoảng tám mươi bốn cây số.
Because Venerable Siyambalangamuwe and my teacher were friends, he readily accepted my application, and in April 1944, a month after my most recent ordination, I began my formal monastic education.  Vì đại đức Siyambalangamuwe và thầy tôi là bạn, nên ông sẵn sàng chấp nhận đơn xin nhập học của tôi, và vào tháng tư năm 1944, một tháng sau lần xuất gia gần đây nhất của tôi, tôi bắt đầu chương trình tu học một cách chính thức.
I attended school at Vidyasekhara Pirivena (vidyasekhara means “crown of learning,” andpirivena means “a school for monks”). Tôi học ở trường Vidyasekhara Pirivena (vidyasekhara có nghĩa là 'vương miện của sự học,' và pirivena có nghĩa 'trường dành cho tăng sĩ').
About twenty young bhikkhus and three teachers lived there.  Có khoảng hai mươi vị tỳ kheo trẻ và ba thầy giáo thọ sống ở đó.
We studied Ceylonese history and important Dhamma texts such as the Anguttara Nikaya (the gradual sayings of the Buddha) and the Majjhima Nikaya (the middle-length discourses). Chúng tôi học lịch sử Ceylon và các kinh điển quan trọng như là Tương Ưng Bộ Kinh (Anguttara Nikaya) và Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya).
We also were taught a whole host of languages: Sinhalese, Tamil, Hindi, English, Pali, and Sanskrit.  Chúng tôi cũng được học nhiều sinh ngữ: Sinhale, Tamil, Ấn Độ, Anh, Pali và Sanskrit.
I was very happy at my new school, living among other teenage monks and spending my days studying.   Tôi rất sung sướng ở ngôi trường mới này, sống giữa những vị tăng trẻ và suốt ngày được học hành.
But I hadn’t been there long before Venerable Siyambalangamuwe came to me with a request. Nhưng tôi ở đó chưa được bao lâu thì Đại Đức Siyambalangamuwe đã tìm gặp tôi với một yêu cầu.
He said there was a temple in the village of Napagoda, and the head monk had disrobed, leaving the temple with no one in charge. Ông bảo rằng có một ngôi chùa ở làng Napagoda, nơi vị sư trưởng đã hoàn tục, để lại ngôi chùa không ai trông coi.
He asked if I would go there and run the temple.   Sư hỏi tôi có vui lòng đến đó, quản lý ngôi chùa không.
I thought this would be a temporary arrangement, that I’d live there for a few weeks and then return to the monks’ school, so I agreed. Tôi nghĩ rằng đó chỉ là một sự xếp đặt tạm thời, rằng tôi sẽ ở đó chỉ vài tuần rồi trở lại trường Phật học, nên tôi đã nhận lời.
As it turned out, I lived in that temple for eight months.   Nhưng mà hoá ra tôi phải sống ở chùa đó đến tám tháng.
There were no Dhamma or Pali studies there, just the usual monastic chores, the weary round of endless labor.   Không có việc học Phật pháp hay tiếng Pali ở đó, chỉ là những công việc thường nhật ở chùa, những công việc nhàm chán không dừng dứt.
One day there was nothing to eat. Một ngày kia không còn gì để ăn.
So I asked the temple boy, a youngster about my own age, to go buy some bread at a shop in the village. Tôi yêu cầu một cậu bé ở chùa, khoảng tuổi tôi, đi mua bánh mì ở một tiệm trong làng.
He refused. Nó từ chối.
I asked him again. Tôi lại yêu cầu lần nữa.
He refused once more. Lần nữa nó lại từ chối.
“I’ll ask somebody else to buy me some food, then, and I won’t share it with you,” I told him. “Tôi sẽ nhờ người khác đi mua, nhưng sau đó tôi sẽ không chia cho bạn đâu,” tôi bảo với nó.
His response was to curse at me.   Nó phản ứng lại bằng cách chửi rủa tôi.
I kicked him several times. Tôi đá cho nó mấy cái.
Later that day, another monk who had been living with us for a time returned to the temple.   Chiều hôm đó, một tăng sĩ khác, người đã sống với chúng tôi ở đó một thời gian trở về chùa.
He happened to be the older brother of the temple boy.  Ông lại là anh của cậu bé kia.
He asked me what had happened, why the temple boy was no longer there.  Ông hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra, tại sao cậu bé không còn ở chùa nữa.
When he heard my story, he got very upset. Sau khi nghe tôi kể chuyện, ông rất bực tức.
“Well, since you chased off the only boy who was here to help us, it’s now your job to climb a coconut tree and get me a coconut.”   “Vì chú đã đuổi cậu bé duy nhất ở đây để giúp đỡ chúng ta, vậy thì bây giờ công việc của chú là trèo lên cây hái mấy trái dừa xuống."
I refused.   Tôi từ chối.
“Monks don’t climb trees,” I pointed out. “Người tu không trèo cây,” tôi giải thích.
“It’s against our rules.  "Làm vậy là trái luật.
And besides, my teacher didn’t send me here to climb trees and pick coconuts.” Ngoài ra, thầy tôi không gửi tôi đến đây để trèo cây, hái trái."
After seven months of such frustration and petty disputes, my desire to learn made me so restless that I wrote to my teacher.   Sau bảy tháng sống trong căng thẳng và những sự cãi vả nhỏ mọn như thế, lòng ham muốn được học hỏi khiến tôi không thể ngồi yên, đến nỗi tôi phải viết thư cho thầy tôi.
“Please send me back to the monks’ school,” I begged. “Xin thầy vui lòng cho con trở lại trường học,” tôi van nài.
I was jubilant when, soon, I received a postcard from Venerable Siyambalangamuwe that said, “Yes, you can come back to school.”   Không lâu sau đó, tôi mừng rỡ khi nhận được một bưu thiếp từ đại đức Siyambalangamuwe nói rằng, “Được, con có thể trở về trường."
I immediately hired an ox cart to take me to the train station in Veyangoda, four miles away.   Tôi lập tức mướn một chiếc xe bò chở tôi ra trạm xe lửa ở Veyangoda, cách đó hơn năm cây số.
I couldn’t wait to get back to Gampaha and reenroll in school.  Tôi nôn nóng được trở lại Gampaha để ghi danh nhập học trở lại.
When I got to the train station, I saw that the train to Gampaha didn’t leave for five hours, so I went to visit a temple nearby.   Khi đến nhà ga, được biết chuyến xe lửa đi Gampaha phải chờ đến năm tiếng nữa, vì thế tôi đi viếng một ngôi chùa gần đó.
In that temple there was a young novice, maybe eight or nine years old, who took a liking to me.   Ở ngôi chùa đó có một chú điệu trẻ, khoảng tám hay chín tuổi, tỏ vẻ rất thích tôi.
He invited me to go swimming with him in the river next to the train station and I hesitantly agreed.  Chú rủ tôi đi tắm với chú ở một con sông cạnh bên ga xe lửa và tôi miễn cưỡng nghe theo.
Although nearly seventeen years old, I had never learned to swim, but I was too proud to tell that to the young monk.   Dầu đã gần mười bảy tuổi, tôi chưa bao giờ học bơi, nhưng tôi quá tự ái để thú nhận với chú điệu trẻ như thế.
Little did I know that this single prideful act would soon threaten my life. Tôi không biết rằng hành động tự ái đó suýt nữa là hại đời tôi.
Pride, in the Buddha’s teaching, is one of the last of the five fetters that falls away when a person attains enlightenment.   Kiêu mạn, theo Phật giáo, là một trong năm chướng ngại cuối cùng sẽ bị đoạn diệt khi hành giả đạt được giác ngộ.
It’s one of the twenty-seven mental impurities that the Buddha warned can trip us up. Đó là một trong hai mươi bảy uế nhiễm của tâm, mà Đức Phật đã cảnh báo rằng chúng có thể trở ngại ta.
To overcome infatuation with ourselves, he recommended a series of reflections a person should use: Để chế ngự kiêu mạn nơi bản thân, Đức Phật chỉ bày một số quán tưởng mà ta cần thực hiện:
I am of the nature to decay; I have not gone beyond decay.   Tôi phải bị hoại diệt; tôi không thể chế ngự hoại diệt.
I am of the nature to be diseased; I have not gone beyond disease.   Tôi phải bệnh hoạn; tôi không thể chế ngự bệnh hoạn.
I am of the nature to die; I have not gone beyond death.   Tôi phải chết; tôi không thể chế ngự cái chết.
All that is mine, dear and delightful, will change and vanish.   Tất cả những gì là của tôi, thân thiết và quý báu, sẽ biến đổi và  hoại diệt.
I am the owner of my kamma, heir to my kamma, born of my kamma, related to my kamma, I abide by my kamma. Tôi làm chủ nghiệp của tôi, thừa hưởng nghiệp của tôi, sinh ra từ nghiệp, liên hệ với nghiệp, tôi gánh chịu nghiệp của mình.
Whatever kamma I shall create, whether good or evil, of that I shall be the heir. Bất cứ nghiệp gì tôi đã tạo ra, dầu tốt hay xấu, tôi cũng sẽ là người lãnh hậu quả.
At the river, the novice took off his outer robe and jumped into the water.   Ở bờ sông, chú điệu cởi áo ngoài ra và nhảy xuống nước.
He swam like a fish. Chú lội như một con cá.
I stood on the bank, admiring his easy, elegant strokes. Tôi đứng trên bờ, ngưỡng mộ những sãi tay nhuần nhuyễn, điệu nghệ của chú.
It didn’t look so difficult, but the last thing I wanted to do was jump into the muddy, fetid water. Coi thì không thấy khó, nhưng thật sự tôi không muốn nhảy vào dòng nước đục ngầu, đầy bùn đó.
The young boy saw me hesitating on the bank and urged me to join him.   Chú điệu thấy tôi đứng trên bờ sông ngại ngần, thúc giục tôi xuống nước với chú.
Reluctantly I took off my outer robe and tied a knot in the folds of my inner robe so that it wouldn’t come off. Miễn cưỡng tôi phải cởi áo ngoài ra và cột thắt nút chiếc áo bên trong để nó không tụt ra.
Then I held my breath, and jumped. Rồi tôi nín thở nhảy xuống.
Within seconds I was in trouble.   Ngay lập tức tôi bị nguy khốn.
My feet reached for the bottom, but all I felt was soft mud.   Chân tôi chạm tìm đáy sông, nhưng chỉ cảm thấy bùn nhão.
There was nothing solid to stand on.  Không có gì cứng rắn để đứng lên đó.
I felt like I was sinking, and I started to struggle. Tôi cảm thấy mình đang chìm xuống, và tôi bắt đầu vùng vẫy.
Panic rose inside me like an electric current. Sự hoảng hốt trào dâng trong tôi giống như một dòng điện.
My arms and legs flailed, and as I gasped for air, I swallowed the foul river water. Tay chân tôi chới với, và khi há miệng thở, tôi uống vào dòng nước sông dơ bẩn đó.
The little monk saw what was happening and tried to help.   Chú điệu nhỏ biết chuyện gì đã xảy ra, cố gắng giúp tôi.
He swam over to me, took hold of my ears, and pulled my head out of the water — ouch! But he wasn’t strong enough to pull the rest of my body above the surface. Chú bơi lại bên tôi, nắm được lỗ tai tôi và kéo đầu tôi lên khỏi mặt nước – ui da! Nhưng chú yếu quá không đủ sức để kéo người tôi lên khỏi mặt nước.
I grabbed at his robe frantically, and in a moment it came loose. Tôi hoảng sợ túm lấy áo chú, khiến nó tuột ra.
Three times I went under, clutching that robe as if it would save me.   Ba lần tôi bị chìm xuống, tay nắm chặt chiếc áo kia như thể nó sẽ cứu tôi.
Three times I struggled back up, searching for help. Ba lần tôi vùng trở lên, tìm kiếm sự giúp đỡ.
The last time, all I could see was the color red filling my entire field of vision.   Lần cuối cùng, tất cả chỉ là một màu đỏ phủ đầy trước mắt tôi.
I was losing consciousness.   Tôi hoàn toàn bất tĩnh.