Chương 6. Thọ Đại Giới

HIỆN TẠI TOÀN BỘ AUDIO SẼ KO THỂ KHÔI PHỤC TỰ ĐỘNG. Mọi người hãy yêu cầu ở đây, ad sẽ ưu tiên xử lý trước.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.

CHAPTER SIX. Higher OrdinationChương 6. Thọ Đại Giới
IN SRI LANKA, there are three major sects of Theravada Buddhism.   Ở Tích Lan, có ba tông phái chánh của Phật giáo nguyên thủy.
The oldest and largest, to which I belong, is Siyam Nikaya. Tông phái xưa nhất và lớn nhất, mà tôi là một thành viên, là Siyam Nikaya.
This sect has more monks and temples than the other sects. Tông phái này có nhiều tăng sĩ và chùa chiền hơn là các tông phái khác.
It also has the most ancient temples in the country. Nó cũng có những ngôi chùa cổ xưa nhất ở đất nước này.
Its name, Siyam, dates back to a time when the Sangha, or order of monks, had dwindled to its lowest numbers due to British rule in Ceylon, and because of Dutch and Portuguese missionaries. Cái tên Siyam, có từ khi Tăng già, hay là tăng đoàn, đã rơi xuống con số thấp nhất dưới sự cai trị của người Anh ở Ceylon, và cũng do ảnh hưởng của các nhà truyền đạo người Hòa Lan và Bồ Đào Nha.
There were many novices, but not a single bhikkhu left who had received higher ordination and was observing the 227 precepts — and thus could ordain others. Có rất nhiều Sadi nhưng không còn lại một vị tỳ kheo đã thọ đại giới với 227 giới luật nào –do đó không thể truyền giới cho người khác.
A novice Ceylonese monk traveled to Siam, as Thailand was then called (or “Siyama” in Pali), to receive higher ordination as a full bhikkhu.   Một Sadi người Ceylon du hành qua Xiêm (Siam), là tên gọi của Thái Lan thời đó (hay "Siyama" trong tiếng Pali), để được thọ đại giới làm tỳ kheo.
Then he returned to Ceylon and reestablished the order of monks in 1753. Rồi sau đó ông trở về Ceylon, thiết lập lại tăng đoàn vào năm 1753.
Only the highest caste members of society in Ceylon, called Goyigama, were allowed full ordination into the Siyam Nikaya order.   Chỉ có những người thuộc giai cấp cao quý nhất trong xã hội Ceylon, gọi là Goyigama, mới được phép thọ đại giới trong tông phái Siyam Nikaya.
My family, though poor, belonged to this caste.  Gia đình của tôi, tuy nghèo, lại thuộc vào giai cấp này.
In Ceylon, caste was not based on wealth but on family lineage. Ở Ceylon, giai cấp không dựa vào sự giàu có, nhưng vào dòng dõi gia đình.
Years later, a group of non-Goyigama novice monks traveled to Amarapura, in Burma, and received full ordination there. Nhiều năm sau đó, một nhóm Sadi không thuộc dòng dõi Goyigama du hành đến Amarapura, ở Burma, và được thọ đại giới ở đó.
That group returned to Ceylon and founded the Amarapura Nikaya sect in 1800. Nhóm người này trở lại Ceylon và thành lập tông phái Amarapura Nikaya vào năm 1800.
A third sect, founded in 1810 by monks who went to the Ramanna district of Burma, became the Ramanna Nikaya sect. Tông thứ ba, thành lập vào năm 1810 bởi các tăng sĩ đã đến khu vực Ramanna của Burma, trở thành tông phái Ramanna Nikaya.
Originally there was a great deal of rivalry between the sects.   Lúc đầu giữa các tông phái có rất nhiều tranh chấp.
Each one thought the others were not strict enough in their interpretation of the Vinaya, or code of conduct for sangha members. Mỗi tông phái đều nghĩ rằng tông phái khác không gìn giữ các giới luật tăng đoàn nghiêm chỉnh đủ.
Siyam Nikaya monks, for example, shaved their eyebrows as well as their heads. Các tăng sĩ thuộc dòng Siyam Nikaya, thí dụ, cạo cả lông mày cũng như tóc.
Members of the other sects did not. Tăng sĩ thuộc các tông phái khác thì không.
On the other hand, when leaving their temples, Siyam Nikaya monks were allowed to leave one shoulder bare when they draped their robes around them. Mặt khác, khi ra khỏi chùa, tăng sĩ thuộc tông phái Siyam được phép để một vai trần khi họ quấn y quanh mình.
Monks of the other sects covered both shoulders. Tăng sĩ thuộc các tông phái khác thì phải che phủ cả hai vai.
My teacher, Venerable Sonuttara, belonged to the Siyam Nikaya sect.   Sư phụ của tôi, sư Sonuttara, thuộc về tông phái Siyam Nikaya.
His teacher was a disciple of the sect’s supreme patriarch, Most Venerable Pahamune Sumangala. Thầy của ông là một thành viên của hội đồng chứng minh cao nhất của tông phái này, hoà thượng Pahamune Sumangala.
In 1911, when he was twenty-five years old, my teacher was sent to open a temple in Malandeniya village.   Năm 1911, lúc thầy tôi được hai mươi lăm tuổi, ông được gửi đến trông coi một ngôi chùa ở làng Malandeniya.
Immediately there was trouble with the head monk at the temple in the next village, Kebilitigoda. Lập tức vị sư trưởng ở một chùa trong làng kế bên, Kebilitigoda,  không bằng lòng.
The temple in Kebilitigoda had already existed for ten years before my teacher arrived in Malandeniya.  Ngôi chùa ở Kebilitigoda đã có mặt hơn mười năm trước khi thầy tôi đến Malandeniya.
Even so, the head monk became jealous of my teacher, so he made a legal claim to the new temple’s property. Dù thế, vị sư trưởng này cũng ganh tỵ với thầy tôi, vì thế ông khiếu nại ra luật pháp rằng ngôi chùa mới đó thuộc quyền sở hữu của ông.
As a result, my teacher had to pay tribute to the monk in Kebilitigoda and visit every day to pay respects. Do đó, thầy tôi phải đến đảnh lễ và thăm viếng vị sư ở Kebilitigoda mỗi ngày để tỏ lòng kính trọng.
As it turns out, that monk in Kebilitigoda was Venerable Sumanatissa, who had given me novice vows when I was thirteen.   Thì ra, vị sư ở Kebilitigoda là đại đức Sumanatissa, là người đã truyền giới sadi cho tôi năm tôi mười ba tuổi.
He could have “claimed” me then as his student, but he didn’t. Ông cũng có thể "khiếu nại" rằng tôi là đệ tử của ông, nhưng ông không làm thế.
I guess I didn’t seem like a particularly promising monk at that point.  Tôi đoán có lẽ lúc đó tôi không có dấu hiệu gì là một tăng sĩ có nhiều triển vọng.
Over the years, animosity festered between the two temples.   Qua thời gian, sự hiềm khích giữa hai chùa càng tăng lên.
And when time came for my higher ordination in 1947, I ran headlong into the dispute. Và đến thời điểm tôi thọ đại giới năm 1947, tôi bị vướng vào cuộc tranh chấp này.
According to tradition, when a novice monk is about to receive higher ordination, an announcement of the ceremony is sent to friends, relatives, temple attendees, and all other temples where that novice has lived.   Theo truyền thống, khi một sadi sắp thọ đại giới, thông báo về buổi lễ được gửi đến cho bạn bè, người thân, các vị tăng sĩ ở chùa, và tất cả những chùa mà người sadi đó đã từng lưu trú.
It is printed on cheap paper and is mailed or delivered by hand. Tờ thông báo được in trên giấy rẻ tiền rồi được gửi hay đưa tận tay.
The principal of the monks’ school wrote my announcement, and according to tradition, I took it to my teacher to have him sign it.   Thầy hiệu trưởng trường Phật học viết tờ thông báo cho tôi, và theo truyền thống, tôi phải mang về cho thầy tôi ký.
For some reason, Venerable Sonuttara was reluctant to sign his name as head of the temple in Malandeniya. Nhưng vì lý do gì đó, sư Sonuttara ngại ngùng khi phải ký tên ông như là trụ trì chùa ở Malandeniya.
“But you started this temple in 1911,” I said to him.   “Nhưng sư bắt đầu ở chùa này từ năm 1911,” tôi nói.
“You built it and you have always been the only monk living here.  “Sư đã gầy dựng nó và sư là vị tăng sĩ duy nhất sống ở đây.
Who else could be head of the temple?” Còn ai có thể là trụ trì của chùa?”
Venerable Sonuttara said nothing and finally signed the paper.   Sư Sonuttara không nói gì nhưng cuối cùng ông cũng ký tờ giấy.
I made copies and hand-delivered the first one to Venerable Sumanatissa, my original preceptor, at the temple in the neighboring village. Tôi làm nhiều bản copy và tự tay mang tờ đầu tiên đến cho đại đức Sumanatissa, vị thầy đầu tiên của tôi, ở ngôi chùa trong làng kế bên.
As soon as he saw my teacher’s signature as head monk of the other temple, he became enraged. Ngay khi vừa thấy chữ ký của sư phụ tôi như là trụ trì của ngôi chùa kia, ông nổi giận.
“Venerable Sonuttara is not head monk at that temple,” he thundered.   “Đại đức Sonuttara không phải là trụ trì ở chùa đó,” ông la to.
“I am! And I am not even listed here as one of your teachers.” “Tôi mới là! Và tôi cũng không có tên trong danh sách các sư phụ của thầy.”
He immediately went to the Siyam Nikaya headquarters in Kandy and requested that my ordination be canceled.   Ông lập tức đi ra trụ sở của tông phái Siyam Nikaya ở Kandy và yêu cầu hoãn buổi lễ thọ giới của tôi lại.
My teacher and I were dismayed, but we continued to get ready for the ceremony, hoping the dispute would somehow be resolved.  Sư phụ và tôi cảm thấy bàng hoàng, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục chuẩn bị cho buổi lễ, hy vọng rằng sự tranh chấp bằng cách nào đó sẽ được giải quyết.
On the night before my ordination, as was custom, the people of Malandeniya had arranged a large procession and reception at the temple in my honor.   Vào đêm trước lễ thọ đại giới của tôi, theo tục lệ, người dân làng Malandeniya đã sắp xếp một nghi thức trọng thể và một buổi tiếp đón ở chùa dành cho tôi.
Even though Venerable Sumanatissa was threatening to stop the procession, it went ahead without a problem. Mặc dầu đại đức Sumanatissa đe doạ sẽ cản trở buổi lễ, nó vẫn được diễn ra mà không có vấn đề gì.
The next day, June 25, we went to Kandy.   Ngày hôm sau, 25 tháng 6, chúng tôi đến Kandy.
The ordination ritual would take place in the sima, a consecrated building on the grounds of the Siyam Nikaya headquarters. Nghi lễ thọ giới sẽ được tổ chức trong sima, một tòa thánh trong khuôn viên của trụ sở tông phái Siyam Nikaya.
On that day, twenty-six novices, including me, were scheduled to receive higher ordination. Vào ngày đó, hai mươi sáu vị sadi, kể cả tôi, được chuẩn bị  để thọ đại giới.
Our relatives, friends, and well-wishers had already gathered in the sima. Bạn bè, người thân và những người đến chúc phúc đã có mặt ở sima.
As I had feared, Venerable Sumanatissa wasn’t going to let this pass.   Như tôi đã lo ngại, đại đức Sumanatissa không để yên cho việc này.
He entered a formal complaint against my ordination because he, not my teacher, was the head of the temple in Malandeniya. Ông đã đệ đơn chính thức khiếu nại, chống lại sự thọ giới của tôi, vì ông, chứ không phải sư phụ tôi, là trụ trì của chùa ở Malandeniya.
Therefore, my teacher had no right to sign his name in the ordination register as “head monk.  Vì thế, sư phụ tôi không có quyền ký tên vào giấy chứng nhận thọ giới của tôi với tư cách là “sư trưởng.
” Venerable Sumanatissa insisted my teacher sign his name only as “resident monk.””  Đại đức Sumanatissa nhất quyết rằng sư phụ tôi chỉ được ký tên với tư cách là vị "sư thường trú" tại chùa.
My teacher, Venerable Sonuttara, was an uneducated man and was not clever with words.   Sư phụ tôi, sư Sonuttara, là người ít học, không rành chữ nghĩa.
He was afraid to oppose any monk who was his senior.  Ông rất sợ phải chống đối với bất cứ vị sư nào trưởng thượng hơn.
But most of all, he didn’t want this dispute to ruin my chances of being ordained.  Nhưng trên tất cả, ông không muốn sự tranh chấp này sẽ phá hỏng cơ hôi được thọ giới của tôi.
I was angry at Venerable Sumanatissa, both for being harsh with my teacher and for trying to spoil the most important day of my life. Tôi rất giận đại đức Sumanatissa, một phần vì ông quá khó khăn với sư phụ tôi, phần vì ông đã muốn làm hỏng một ngày quan trọng nhất trong đời tôi.
I found the politics of the whole thing appalling, but there was nothing I could do about it. Tôi cảm thấy tính chính trị trong tất cả mọi thứ thật là kinh khủng, nhưng tôi không thể làm được gì hơn.
Without a word of argument, my teacher signed the register as Venerable Sumanatissa demanded, with the words “resident monk” beside his name.   Không một lời cãi vả, sư phụ tôi ký vào giấy chứng nhận theo như đại đức Sumanatissa yêu cầu, với mấy chữ 'sư thường trú' cạnh bên tên ông.
A few hours before the ceremony, two senior monks dressed me all in white, with a crown-like headdress.   Vài giờ trước khi buổi lễ bắt đầu, hai vị sư huynh vận y cho tôi toàn trắng, với một cái mũ giống như vương miện trên đầu.
If a candidate has wealthy relatives or supporters, he might ride on an elephant, the symbol of majesty and status.  Nếu người sắp thọ giới có bà con hay người bảo trợ giàu có, thì có thể cưỡi voi, một biểu tượng của sự oai nghiêm và đẳng cấp.
He might also have hundreds of people following, beating drums, blowing conchs and flutes, and dancing. Vị đó cũng có thể có hàng trăm người đi theo, đánh trống, thổi kèn, sáo, và nhảy múa.
Because my family was not wealthy, my ceremony was more humble. Vì gia đình tôi không giàu có, nghi lễ dành cho tôi đơn giản hơn.
While I was being dressed, my relatives and teachers had prepared trays of gifts for members of the ordination committee.   Trong lúc tôi đang thay y áo, bà con họ hàng và các thầy của tôi đã chuẩn bị sẵn những mâm quà cho các thành viên của hội đồng chứng minh.
Each tray contained betel and areca nuts for chewing, tobacco for smoking, a towel, a bar of soap, toothpaste, a toothbrush made from a small twig, and a box of cookies.  Mỗi mâm gồm có trầu cau để ăn, thuốc để hút, một cái khăn lông, một bánh xà bông, kem đánh răng, bàn chải đánh răng làm từ những cọng cỏ nhỏ và một hộp bánh.
There were twenty dignitaries in attendance: the supreme patriarch of the Siyam Nikaya sect; his two assistants, who were also very senior and respected; a secretary monk, who maintained all records for the sect; and sixteen others.   Có khoảng hai mươi vị chức sắc đến dự: hòa thượng trưởng môn của tông phái Siyam Nikaya; hai thị giả của ngài, cũng là những người cao hạ, uy nghi; một tăng sĩ thư ký, người quản lý mọi giấy tờ trong tông phái; và mười sáu người khác.
Following a strict hierarchy, I was to go to each monk at his kuti, in turn, and present him with a gift tray. Theo một tôn ti trật tự rất khắt khe, tôi phải đến lễ mỗi vị sư ở thất của họ, theo thứ tự, và dâng cúng cho họ những mâm quà.
This ritual took about an hour. Nghi lễ này kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ.
Even though it might seem redundant, every candidate for higher ordination is reordained as a novice and dressed in a new, bright yellow robe in the last hours before he becomes a bhikkhu.   Mặc dầu có vẻ rườm rà, nhưng mỗi vị sắp thọ giới trọng, phải thọ giới sadi trở lại và mặc chiếc y mới màu vàng chói trong những giờ phút cuối cùng, trước khi người đó trở thành một vị tỳ kheo.
This reminds the aspirant, once again, of Siddhattha’s renunciation of his princely life, wrapping himself in a yellow cloth when he took up the life of a mendicant. Điều đó nhắc nhở người sắp thọ giới, một lần nữa, về sự từ bỏ cuộc sống vương giả của thái tử Siddhattha, chỉ quấn quanh người Ngài một mảnh vải màu vàng khi Ngài bắt đầu cuộc sống không nhà.
It also serves to “wipe clean the slate,” in case the aspiring monk had broken any precepts during his novicehood and had failed to confess them to his teacher. Nó cũng được dùng để "lau sạch mọi tội lỗi" trong trường hợp người sắp thọ giới đã phạm lỗi gì trong giai đoạn làm sadi, và đã không kịp sám hối với sư phụ của mình.
At 6 P.M. the ceremony began.   Khoảng sáu giờ chiều, buổi lễ bắt đầu.
A rope divided the sima in half — one side for monks, the other for laypeople.   Một sợi dây ngăn tòa sima làm hai- một bên dành cho quý sư, bên kia cho cư sĩ.
The laypeople’s side was packed with hundreds of noisy guests. Phía bên cư sĩ thì đông nghẹt với hàng trăm khách khứa ồn ào.
Children played with one another, babies cried, and adults chatted and laughed. Trẻ con đùa giỡn, em bé khóc lóc, và người lớn trò chuyện cười đùa.
At the far end of the assembly hall was a large Buddha statue.   Ở cuối phòng họp là một tượng Phật to lớn.
It sat on a dark wooden altar with peeling paint that was crowded with devotional candles and small earthen lamps, smoking incense burners, vases of flowers, and small cups filled with fruit juice, tea, or water. Tượng Phật được đặt trên một bàn thờ gỗ đen đã tróc nước sơn, tràn đầy những đèn cầy dâng cúng và đèn đất nhỏ, các lư hương ngun ngút khói, các bình hoa, các ly nhỏ chứa đầy nước trái cây, nước trà hay nước lã.
A flat tray held the traditional betel chewing mixture. Một mâm đựng những trầu cau theo truyền thống.
A pair of large brass oil lamps flanked the altar, casting a sputtering light against the serene face of the Buddha. Một đôi đèn dầu bằng đồng to được đặt hai bên hông bàn thờ, chiếu ánh sáng lung linh trên khuôn mặt trầm tĩnh của Đức Phật.
At the right of the statue sat the supreme patriarch, flanked by his two assistants.   Ngồi bên phải bức tượng là vị thượng tọa trưởng môn, hai bên là hai thị giả.
The remaining monks on the ordination committee sat on the wooden floor, in lines facing each other. Các vị tăng khác trong hội đồng chứng minh ngồi trên sàn gỗ, hai hàng đối mặt nhau.
We novices were asked to sit on the floor according to our ages.   Các sadi chúng tôi được dặn phải ngồi trên sàn nhà theo thứ tự tuổi tác.
At six months shy of twenty, I was the youngest. Còn sáu tháng nữa mới được hai mươi tuổi, tôi là người trẻ nhất.
Twenty is the minimum age at which a novice may take higher ordination, but because I had completed all other requirements, I was allowed to ordain six months early. Một sadi ít nhất phải hai mươi tuổi mới được thọ giới trọng, nhưng vì tôi đã hoàn tất mọi điều kiện khác, tôi được thọ giới sáu tháng sớm hơn.
The first order of business was an oral examination in which a senior monk would ask the novices, one by one, to recite stanzas and answer questions.   Đầu tiên là một cuộc sát hạch bằng miệng, qua đó một vị sư cao niên sẽ hỏi các sadi, từng người một, tụng lại các kinh và trả lời câu hỏi.
The examiner that evening was the second-ranking monk, a man known to be very strict. Người giám khảo buổi chiều hôm đó là vị sư cao niên cấp bậc thứ hai, một người được biết là rất khắt khe.
His method was to recite the first line of a stanza from the Buddhist texts, then ask the candidate to finish it. Cách của ông là đọc một dòng đầu tiên trong các kinh Phật, rồi yêu cầu người sắp thọ giới phải hoàn tất bài kinh.
Most of the other novices had memorized the minimum number of stanzas required.   Phần đông các sadi khác chỉ thuộc các đoạn kinh bắt buộc.
I, with my photographic memory and eagerness to excel, had memorized many more. Còn tôi, với trí nhớ như in và lòng muốn chứng tỏ sự vượt trội, đã học thuộc lòng nhiều hơn.
Even so, I was nervous in front of the large crowd. Dầu thế, trước đám đông tôi cũng rất run.
Finally, after twenty-five other novices, my turn came.   Cuối cùng, sau hai mươi lăm vị sadi khác, cũng đến phiên tôi.
The examiner had been at work for an hour and a half and he looked exhausted. Vị giám khảo đã làm việc hơn một tiếng rưỡi rồi và ông có vẻ mệt nhoài.
He asked me to recite a stanza from the Dhammapada.   Ông yêu cầu tôi đọc một đoạn trong kinh Pháp Cú.
I took a deep breath, closed my eyes, and recited eight stanzas without stopping.  Tôi hít một hơi thở sâu, nhắm mắt lại và đọc một mạch không ngừng tám đoạn kinh.
“That is enough,” the examiner said.   "Thôi đủ rồi,” vị giám khảo nói.
“You have studied well.”  "Thầy rất thuộc bài."
Next, each of the novices had to be formally accepted as candidates for ordination.   Kế tiếp, mỗi sadi phải được chấp nhận một cách chính thức là người sẽ được thọ giới.
Like the others before me, I got up and stood in front of one of the committee monks. Giống như các sadi trước tôi, tôi đứng dậy và đến trước một trong các vị sư chứng minh.
Methodically, he questioned me: my name; my gender; my parents’ names; my teacher’s name; whether I had any contagious diseases; whether I was a soldier or a free man; and even a question about whether I was human or demon. Ông hỏi tôi theo như thể thức bắt buộc: tên tôi; giới tính; tên cha mẹ; tên sư phụ; tôi có bệnh truyền nhiễm gì không; tôi có ở trong quân đội hay là một người thường dân; và cả câu hỏi về tôi là người hay ma quỷ.
While mostly a formality, these questions were intended to confirm that I was not a criminal trying to escape the law by hiding in the robe.   Trong khi phần lớn chỉ là hình thức, những câu hỏi này nhằm xác nhận rằng, tôi không phải là một kẻ tội đồ đang tìm cách trốn tránh pháp luật bằng màu áo người tu.
The question about contagious diseases was to make sure that I had no illness that might sweep through the community of monks.  Câu hỏi về bệnh truyền nhiễm để chắc chắn rằng tôi không có những chứng bệnh có thể lây lan cho cộng đồng các tăng sĩ.
The other questions, more quaint, were traditional queries dating back to the time of the Buddha. Những câu hỏi khác, hơi kỳ hoặc, là những câu hỏi truyền thống đã có từ thời Đức Phật.
After I answered all his questions, this monk announced to the supreme patriarch that I was a suitable candidate for ordination.   Sau khi tôi đã trả lời tất cả các câu hỏi, vị sư tuyên bố với vị trưởng môn rằng tôi hội đủ điều kiện để được truyền giới.
I knelt before the patriarch and bowed, touching my head to the floor in front of him three times. Tôi quỳ trước vị trưởng môn và đảnh lễ, chạm trán xuống sàn nhà trước mặt ông ba lần.
Again I answered the series of questions, this time with the patriarch listening. Lần nữa, tôi lại trả lời một số câu hỏi, lần này cho vị trưởng môn nghe.
Then I was told to sit with my fellow novices.   Sau đó tôi được dạy ngồi xuống với các sadi khác.
Two monks lectured us on the importance of the 227 disciplinary rules we would have to follow after our ordination, emphasizing the four main rules: not to have sexual intercourse; not to take anything not explicitly given to us; not to kill; and not to boast of supernatural attainments. Hai vị sư thuyết giảng cho chúng tôi nghe về sự quan trọng của 227 giới mà chúng tôi phải tuân giữ sau khi thọ giới, nhấn mạnh đến bốn giới trọng: không dâm dục; không lấy bất cứ gì không phải là cho mình; không sát hại; và không khoe khoang về các khả năng siêu nhiên.
There was also a reminder about cultivating nonattachment to the four requisites provided by laypeople: robes, food, lodging, and medicine. Ngoài ra, chúng tôi cũng được nhắc nhở về việc vun trồng tâm xả đối với bốn vật dụng mà các cư sĩ cúng dường: y áo, thực phẩm, nơi ở và thuốc men.
All this advice came from the original words of the Buddha to his disciples. Tất cả những lời khuyên này đều xuất phát từ những lời dạy ban đầu của Đức Phật đối với đệ tử của Ngài.
Finally, with our new alms bowls hanging from cords around our necks, we bowed before each of the committee members, starting with the patriarch.   Cuối cùng, với chiếc bình bát mới tinh đeo trên cổ, chúng tôi đảnh lễ từng vị sư trong hội đồng chứng minh, bắt đầu từ vị trưởng môn.
Then we sat down in long rows, and all the laypeople filed by to present us with gifts.  Sau đó chúng tôi ngồi xuống thành hàng dài, và tất cả các cư sĩ xếp hàng đến cúng dường vật dụng cho chúng tôi.
This is a very joyous part of the ceremony.  Đây là phần vui nhất của buổi lễ.
It emphasizes the interdependent relationship between the monastic Sangha and laypeople.  Nó nhấn mạnh đến sự tương quan tùy thuộc giữa tăng đoàn và cư sĩ.
Many people cried as they bowed and laid their gifts before us. Nhiều cư sĩ khóc khi họ vái chào và đặt đồ cúng dường của họ trước mặt chúng tôi.
This presentation of offerings is one of the most beautiful aspects of Buddhism and is sometimes misunderstood by outside observers who conclude that bhikkhus are lazy beggars, supported by a gullible populace.   Nghi lễ cúng dường là một trong những nét văn hóa trong Phật giáo, nhưng đôi khi bị hiểu lầm bởi người ngoại đạo cho rằng tăng sĩ là những hành khất lười biếng, được đám đông khờ dại hỗ trợ.
In fact, it is quite the opposite: The givers receive as much, if not more, than the recipients because they are practicing dana, or generosity. Thật ra, điều đó hoàn toàn ngược lại: người cho cũng nhận được nhiều như, nếu không nói là hơn, người nhận vì họ đã thực hành hạnh bố thí, hay sự rộng lượng.
Anyone who gives gifts is practicing generosity.   Bất cứ ai cúng dường cũng là đang thực hành tâm rộng lượng.
The Buddha found this practice to be a good method for removing greed and attachment. Đức Phật dạy rằng cách thực hành này là một phương tiện thiện xảo để đoạn diệt lòng tham chấp.
In many of his discourses, he urged Buddhists to practice dana whenever and wherever possible:  Trong rất nhiều bài kinh, Đức Phật đã khuyến khích các Phật tử thực hành hạnh bố thí bất cứ khi nào và ở bất cứ nơi nào có thể:
Just as a pot filled with water,   NHƯ MỘT BÌNH CHỨA NƯỚC ĐẦY,
If overturned by anyone,   NẾU DỐC NGƯỢC BÌNH,
Pours out all its water   TẤT CẢ NƯỚC CHẢY RA
And does not hold any back.   KHÔNG GIỮ GÌ LẠI CẢ.
Even so, when you see those in need,   HƠN THẾ NỮA, NẾU BẠN GẶP NGƯỜI CẦN GIÚP ĐỠ
Whether low, middle, or high,   DẦU Ở GIAI CẤP THẤP, TRUNG HAY SANG CẢ,
Then give like the overturned pot,   THÌ HÃY BỐ THÍ NHƯ CHIẾC BÌNH DỐC NGƯỢC
Holding nothing back.   KHÔNG GIỮ LẠI GÌ CẢ.
In another sermon, the Buddha taught that there are three ways of making merit.   Trong một bài thuyết giảng khác, Đức Phật dạy rằng có ba cách để tạo công đức.
Those three ways are virtuous behavior, meditation, and generosity. Ba cách đó là giữ giới, thiền định và bố thí.
The expression of generosity between laypeople and monastics is very much a reciprocal arrangement.   Hình thức bố thí giữa người cư sĩ và tu sĩ gần giống như một sự hỗ tương lẫn nhau.
The laypeople offer requisites that allow the bhikkhus to walk their spiritual path without having to worry about mundane necessities. Người cư sĩ cúng dường các vật dụng cần thiết để giúp vị tu sĩ có thể bước trên con đường đạo, mà không phải lo lắng về những vật dụng cần thiết.
In return, the monastics offer blessings, as well as teachings — the gift of the Dhamma. Đáp lại, người tu sĩ cầu an, cũng như thuyết pháp -là Pháp thí cho cư sĩ.
During my ordination, as the gifts slowly piled up on the floor before me, I sat there and thought of my mother.   Trong buổi lễ thọ giới của tôi, khi các vật dụng cúng dường dần dần chất cao trên sàn nhà trước mặt tôi, tôi ngồi đó và tưởng nhớ đến mẹ.
How I wished she could have witnessed this ceremony! I knew how much it would have meant to her, how much it would have meant to me to have her there. Tôi ước chi bà có thể chứng kiến buổi lễ này! Tôi biết nó có ý nghĩa xiết bao đối với bà, và nếu có bà ở đây thì nó cũng có ý nghĩa với tôi xiết bao.
But because of her back injury, she couldn’t walk the nine miles from our village, and there was no other way for her to make the trip.  Nhưng vì lưng mẹ tôi bị chấn thương, bà không thể đi bộ hơn mười mấy cây số từ làng đến đây, và bà cũng không có phương tiện gì khác để có thể đến đây.
If she had been there that day in Kandy, she would have surely shed tears of joy, seeing her youngest son at last become a fully ordained monk. Nếu bà có mặt ở Kandy ngày hôm đó, chắc chắn rằng bà sẽ khóc những giọt nước mắt vui mừng, thấy rằng đứa con trai út của bà, cuối cùng cũng đã trở thành một vị tỳ kheo với đầy đủ giới luật.