CHƯƠNG I . CÁI CHẾT VÀ CUỘC KHỞI HÀNH

HIỆN TẠI TOÀN BỘ AUDIO SẼ KO THỂ KHÔI PHỤC TỰ ĐỘNG. Mọi người hãy yêu cầu ở đây, ad sẽ ưu tiên xử lý trước.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.

1. Death and Departure
CHƯƠNG I . CÁI CHẾT VÀ CUỘC KHỞI HÀNH
- Case 1
- Ca 1
S. (Subject): Oh, my god! I’m not really dead—am I? I mean, my body is dead—I can see it below me—but I’m floating … I can look down and see my body lying flat in the hospital bed.Chủ thể: [CT] Ôi, Chúa ơi! Tôi không thực sự chết – phải không? Tôi muốn nói, thân thể tôi chết – tôi có thể thấy nó bên dưới tôi – nhưng tôi đang trôi bồng bềnh…Tôi có thể nhìn xuống và thấy thân thể tôi đang nằm dài trên giường bệnh viện. (27)
Everyone around me thinks I’m dead, but I’m not. Mọi người xung quanh tôi đều nghĩ rằng tôi đã chết, nhưng tôi không chết.
I want to shout, hey, I’m not really dead! This is so incredible … the nurses are pulling a sheet over my head … people I know are crying. Tôi muốn quát to: “Ô kìa, tôi không thực sự chết mà!” Điều này quá khó tin… những cô y tá đang kéo một tấm khăn trải giường qua đầu tôi…những người mà tôi quen biết, đang khóc.
I’m supposed to be dead, but I’m still alive! It’s strange, because my body is absolutely dead while I’m moving around it from above. Tôi bị xem như đã chết, nhưng tôi vẫn còn sống! Thật kỳ lạ, bởi vì thân thể tôi tuyệt đối chết trong khi tôi đang di chuyển xung quanh nó từ trên cao.
 I’m alive! Tôi vẫn còn sống!
THESE are the words spoken by a man in deep hypnosis, reliving a death experience.Đây là những lời được nói ra bởi một người đàn ông ở trong cơn thôi miên sâu, đang trải nghiệm lại một kinh nghiệm chết.
His words come in short, excited bursts and are full of awe, as he sees and feels what it is like to be a spirit newly separated from a physical body. Những lời này được thốt ra trong những cơn bùng nổ ngắn, bị kích động và đầy sợ hãi, trong khi anh ta thấy và cảm thấy, như thế nào là một linh hồn vừa mới bị cách ly khỏi một cơ thể vật lý.
This man is my client and I have just assisted him in recreating a past life death scene while he lies back in a comfortable recliner chair. Người đàn ông này là một thân chủ của tôi, và tôi vừa mới trợ giúp anh ta tái tạo một cảnh chết quá khứ, trong khi anh ta nằm ngửa trong một ghế dựa thoải mái.
A little earlier, following my instructions during his trance induction, this subject was age-regressed in a return to childhood memories. Trước đó một chút, [khi đã ở trong cơn thôi miên] theo những hướng dẫn của tôi, thân chủ này đã lùi lại về những ký ức ấu thơ.
His subconscious perceptions gradually coalesced as we worked together to reach his mother’s womb. Những tri giác tiềm thức của anh ta dần dần hợp nhất, trong khi chúng tôi làm việc cùng nhau để vươn tới tử cung của mẹ anh ta.
I then prepared him for a jump back into the mists of time by the visual use of protective shielding.Rồi tôi chuẩn bị cho anh ta nhảy lui vào trong những làn sương của thời gian, bằng cách dùng một “cái lá chắn bảo vệ.”(28) 
When we completed this important step of mental conditioning, I moved my subject through an imaginary time tunnel to his last life on Earth.Khi chúng tôi hoàn tất cái bước quan trọng này, tôi di chuyển thân chủ tôi xuyên qua một đường hầm thời gian tưởng tượng, tới kiếp sống vừa qua của anh ta ở Cõi Trần.
It was a short life because he had died suddenly from the influenza epidemic of 1918. Đó là một kiếp sống ngắn, bởi vì anh ta chết đột ngột vì trận dịch cúm của năm 1918.
As the initial shock of seeing himself die and feeling his soul floating out of his body begins to wear off a little, my client adjusts more readily to the visual images in his mind.Khi cú sốc ban đầu – do việc thấy chính anh ta chết và cảm thấy linh hồn mình trôi bồng bềnh ra khỏi thân thể – bắt đầu giảm bớt một chút, thì thân chủ tôi thích nghi nhanh chóng hơn với những hình ảnh trong tâm trí mình.
Since a small part of the conscious, critical portion of his mind is still functioning, he realizes he is recreating a former experience. Bởi vì một phần nhỏ của ý thức – cái phần biết phê phán của tâm trí – vẫn còn vận hành, nên thân chủ nhận thức rằng, anh ta đang tái tạo một kinh nghiệm quá khứ.
It takes a bit longer than usual since this subject is a younger soul and not so used to the cycles of birth, death, and rebirth as are many of my other clients. Việc tái tạo đó phải mất một thời gian lâu hơn một chút so với thường lệ, bởi vì linh hồn của thân chủ này trẻ hơn và không quen với những chu kỳ sinh tử và tái sinh như nhiều linh hồn của những thân chủ khác của tôi.
Yet, within a few moments he settles in and begins to respond with greater confidence to my questions.Thế nhưng, trong vòng vài phút, anh ta bình tĩnh lại, và bắt đầu đáp ứng với lòng tự tin lớn hơn, trước những câu hỏi của tôi.
I quickly raise this subject’s subconscious hypnotic level into the superconscious state. Tôi nhanh chóng nâng trạng thái bị thôi miên của anh ta, từ cấp độ tiềm thức lên cấp độ siêu thức.
Now he is ready to talk to me about the spirit world, and I ask what is happening to him. Bây giờ, anh ta sẵn sàng trò chuyện với tôi về thế giới linh hồn, và tôi hỏi, cái gì đang xảy ra cho anh ta.
S: Well … I’m rising up higher … still floating … looking back at my body.
Chủ thể: [CT] Vâng…Tôi đang bay cao hơn…vẫn trôi bồng bềnh…đang nhìn xuống thân thể tôi.
It’s like watching a movie, only I’m in it! The doctor is comforting my wife and daughter. Giống như đang xem một phim, chỉ có điều là, tôi ở trong cái phim đó! Vị bác sĩ đang an ủi vợ tôi và con gái tôi.
My wife is sobbing (subject wiggles with discomfort in his chair). Cô ấy đang khóc nức nở [thân chủ ngọ nguậy một cách bất an trong ghế].
I’m trying to reach into her mind … to tell her everything is all right with me. Tôi đang cố vươn tới tâm trí cô ấy…để bảo cô ấy rằng, mọi sự đều ổn với tôi.
She is so overcome by grief I’m not getting through. Cô ấy quá bị chế ngự bởi sầu muộn, đến nỗi tôi không thể truyền thông với cô ấy.
I want her to know my suffering is gone … I’m free of my body … I don’t need it any more … that I will wait for her. Tôi muốn cô ấy biết rằng, sự đau khổ của tôi đã qua đi…Tôi đã thoát khỏi thân thể mình…Tôi không còn cần đến nó nữa…rằng tôi sẽ đợi cô ấy.
I want her to know that … but she is … not listening to me. Tôi muốn cô ấy biết điều đó…nhưng cô ấy… không lắng nghe tôi.
Oh, I’m moving away now … Ồ, bây giờ, tôi đang di chuyển ra xa…
And so, guided by a series of commands, my client starts the process of moving further into the spirit world.Và như thế, được hướng dẫn bởi một loạt những mệnh lệnh, thân chủ tôi bắt đầu tiến trình di chuyển vào trong thế giới linh hồn.
It is a road many others have traveled in the security of my office. Đó là một con đường mà nhiều thân chủ khác của tôi đã du hành, trong sự an toàn tại phòng mạch của tôi.
Typically, as memories in the superconscious state expand, subjects in hypnosis become more connected to the spiritual passageway. Thường thường, khi những ký ức trong trạng thái siêu thức nới rộng thêm, thì những thân chủ [bị thôi miên] trở nên càng được kết nối với đường đi của linh hồn.
As the session moves forward, the subject’s mental pictures are more easily translated into words. Trong khi phiên thôi miên tiến hành, thì những bức tâm ảnh của thân chủ càng dễ dàng được “dịch” sang lời nói.
Short descriptive phrases lead to detailed explanations of what it is like to enter the spirit world. Những câu nói có tính mô tả, ngắn, dẫn đến những giải thích chi tiết, cho thấy như thế nào là bước vào thế giới linh hồn.
We have a great deal of documentation, including observations from medical personnel, which describes the out-of-body near-death experiences of people severely injured in accidents.Chúng tôi có nhiều tư liệu, kể cả những nhận xét từ nhân viên y tế, mô tả những kinh nghiệm cận tử, việc xuất hồn của những người bị trọng thương do tai nạn.
These people were considered clinically dead before medical efforts brought them back from the other side. Những người này được xem là chết lâm sàng, trước khi những nỗ lực y học mang họ trở lại từ cõi chết.
Souls are quite capable of leaving and returning to their host bodies, particularly in life-threatening situations when the body is dying. Những linh hồn hoàn toàn có thể rời bỏ và trở lại cái “cơ thể chủ” [host body] của mình, nhất là trong những tình huống mà sự sống bị đe dọa, khi mà thân thể “đang chết”.
People tell of hovering over their bodies, especially in hospitals, watching doctors perform life-saving procedures on them. Người ta kể về việc thấy mình bay lượn trên chính thân thể họ, nhất là trong bệnh viện, quan sát những vị bác sĩ đang thực hiện những quy trình cấp cứu trên thân thể họ.
In time these memories fade after they return to life. Theo thời gian, những ký ức này phai nhạt đi sau khi họ sống lại.
In the early stages of hypnosis regression into past lives, the descriptions of subjects mentally going through their past deaths do not contradict the reported statements of people who have actually died in this life for a few minutes.Trong những giai đoạn đầu của việc lùi lại [trong cơn thôi miên] vào trong những kiếp quá khứ, thì những mô tả của những thân chủ về những cái chết quá khứ của họ, không mâu thuẫn với những phát biểu của những người [mà] đã thực sự chết một vài phút trong kiếp này.
The difference between these two groups of people is that subjects in hypnosis are not remembering their experiences of temporary death. Sự khác biệt giữa hai nhóm này,(29) là: những chủ thể bị thôi miên đang sống lại những kinh nghiệm về “cái chết thực” [trong kiếp trước] của họ, chứ không phải là cái chết tạm thời.
People in a deep trance state are capable of describing what life is like after permanent physical death. Những người trong trạng thái thôi miên sâu có thể mô tả, sau khi cơ thể vật lý đã chết hẳn, thì “sự sống” [của linh hồn] sẽ như thế nào.
What are the similarities of afterlife recollection between people reporting on their out-of-body experiences as a result of a temporary physical trauma and a subject in hypnosis recalling death in a past life? Both find themselves floating around their bodies in a strange way, trying to touch solid objects which dematerialize in front of them.Đâu là những cái tương tự giữa sự hồi tưởng về sự sống sau cái chết [aftelife] của những người có “kinh nghiệm cận tử” – do một chấn thương vật lý tạm thời – và một chủ thể trong cơn thôi miên, nhớ lại cái “chết thực” [của mình] trong một kiếp quá khứ? Cả hai đều thấy chính mình trôi bồng bềnh xung quanh cơ thể họ trong một thể cách kỳ lạ, cố sờ vào những vật thể cứng chắc, mà đã “phi vật chất hóa” phía trước họ.
Both kinds of reporters say they are frustrated in their attempts to talk to living people who don’t respond. Cả hai đều nói rằng, họ cố hết sức để nói chuyện với những người đang sống, nhưng thất bại – bởi vì những người này không đáp ứng.
Both state they feel a pulling sensation away from the place where they died and experience relaxation and curiosity rather than fear. Cả hai đều phát biểu rằng, họ có cảm giác bị kéo ra khỏi cái nơi mà họ chết và trải nghiệm sự thư giãn và sự hiếu kỳ hơn là sợ hãi.
All these people report a euphoric sense of freedom and brightness around them.Tất cả những người này [cả 2 trường hợp] đều tường thuật rằng, họ có một cảm thức ngây ngất [euphoric] về sự tự do và ánh sáng rực rỡ xung quanh họ.
Some of my subjects see brilliant whiteness totally surrounding them at the moment of death, while others observe the brightness is farther away from an area of darker space through which they are being pulled. Vài thân chủ của tôi thấy màu trắng rực rỡ, hoàn toàn bao quanh họ vào khoảnh khắc chết, trong khi những thân chủ khác, lại thấy màu trắng ở xa xa, cách xa một khu vực không gian tối đen hơn, mà xuyên qua nó, họ đang bị kéo đi.
This is often referred to as the tunnel effect, and has become well known with the public. Cái này thường được nói đến như là hiệu ứng đường hầm [tunnel effect], mà công chúng đã biết rõ.
My second case will take us further into the death experience than Case 1.Ca thứ 2 của tôi sẽ đưa chúng ta lùi xa hơn vào trong kinh nghiệm chết nhiều hơn so với ca 1.
The subject here is a man in his sixties describing to me the events of his death as a young woman called Sally, who was killed by Kiowa Indians in an attack on a wagon train in 1866. Chủ thể ở đây là một người đàn ông ở độ tuổi 60, mô tả cho tôi những biến cố xung quanh cái chết của ông ta trong kiếp vừa qua – trong kiếp đó, ông là một phụ nữ trẻ tên là Sally, bị giết bởi những tên Da Đỏ Kiowa, chúng tấn công một cỗ xe ngựa chở hàng vào năm 1866.
Although this case and the last one relate death experiences after their most immediate past lives, a particular death date in history has no special relevance because it is recent. Mặc dù ca này và ca vừa rồi kể lại những kinh nghiệm chết trong những kiếp sống quá khứ gần nhất của họ, nhưng việc mới chết, hay chết đã lâu, không ảnh hưởng đến việc nhớ lại một kinh nghiệm chết.
I find no significant differences between ancient and modern times in terms of graphic spirit world recall, or the quality of lessons learned. Việc hồi tưởng sinh động về những kiếp quá khứ – bất luận ở thời cổ đại hay thời hiện đại – không có khác biệt quan trọng nào; cái chất lượng của những bài học cần phải học, cũng vậy.
I should also say the average subject in trance has an uncanny ability to zero in on the dates and geographic locations of many past lives.Tôi cũng sẽ nói rằng, [trong cơn thôi miên] chủ thể trung bình có một khả năng kỳ lạ: họ có thể nhớ lại những nhật-kỳ và những địa điểm cụ thể của nhiều kiếp sống quá khứ.
This is true even in earlier periods of human civilization, when national borders and place names were different than exist today. Điều này đúng, ngay cả trong những giai đoạn xa xưa của nền văn minh nhân loại, khi mà những biên giới quốc gia và những địa danh thì khác xa với ngày hôm nay.
Former names, dates, and locations may not always be easily recalled in every past life, but descriptions about returning to the spirit world and life in that world are consistently vivid. Có thể, có vài kiếp quá khứ mà những cái tên, những nhật-kỳ, và những địa điểm trong đó không được nhớ lại, song những mô tả về việc trở lại thế giới linh hồn và cuộc sống trong thế giới đó, thì sinh động một cách nhất quán.
The scene in Case 2 opens on the American southern plains right after an arrow has struck Sally in the neck at close range. I am always careful with death scenes involving violent trauma in past lives because the subconscious mind often still retains these experiences.Cái cảnh trong ca 2 xảy ra trên những bình nguyên miền Nam nước Mỹ, ngay sau khi một mũi tên đã bắn trúng cổ Sally, ở cự ly rất gần. Tôi luôn luôn cẩn thận với những cảnh chết [trong quá khứ] kèm theo chấn thương dữ dội, bởi vì tâm trí tiềm thức thường vẫn lưu giữ những kinh nghiệm này.
The subject in this case came to me because of a lifetime of throat discomfort. Release therapy and deprogramming is usually required in these cases. Chủ thể trong ca này đến với tôi, bởi vì suốt đời ông bị khó chịu nơi cổ họng. Thường khi, những ca này cần phải dùng liệu pháp “xả bỏ”(30) và “gỡ bỏ chương trình cũ.”(31) 
In all past life recall, I use the time around death for quiet review and place the subject in observer status to soften pain and emotion.Khi chủ thể hồi tưởng về kiếp sống quá khứ, thì tôi dùng thời gian xung quanh cái chết [của người ấy] cho việc “ôn lại thầm lặng” và đặt chủ thể vào vị thế “người quan sát” để làm giảm cơn đau nhức và cảm xúc mạnh mẽ của đương sự.
- Case 2
- Ca 2
Dr. N: Are you in great pain from the arrow?
TS N: Mũi tên có làm cô (32) đau nhiều không?
S: Yes … the point has torn my throat … I’m dying (subject begins to whisper while holding his hands at the throat). I’m choking … blood pouring down … Will (husband) is holding me … the pain … terrible … I’m getting out now … it’s over, anyway.
CT: Vâng … Nó đã xé rách cổ họng tôi…Tôi đang hấp hối [chủ thể bắt đầu nói thì thầm trong khi đưa hai tay nắm lấy cổ họng mình]. Tôi đang ngộp thở …máu đang chảy xuống…Chồng tôi đang ôm lấy tôi…đau nhức…khủng khiếp… Bây giờ tôi đang đi ra … Dù sao, mọi sự đã qua rồi.
Note: Souls often leave their human hosts moments before actual death when their bodies are in great pain. Who can blame them? Nevertheless, they do stay close by the dying body. After calming techniques, I raise this subject from the subconscious to the superconscious level for the transition to spiritual memories.CHÚ THÍCH: Linh hồn thường rời thân thể vài khoảnh khắc trước khi thân thể “chết hẳn,”(33) khi mà cơ thể đang ở trong cơn đau đớn dữ dội. Ai có thể trách cứ nó? Tuy nhiên, linh hồn thực sự lưu lại kề sát bên cái cơ thể đang chết. Sau những kỹ thuật nhằm xoa dịu trạng thái bị kích động của thân chủ, tôi nâng thân chủ từ cấp độ tiềm thức lên tới cấp độ siêu thức, để chuyển tiếp sang những ký ức về thế giới linh hồn.
Dr. N: All right, Sally, you have accepted being killed by these Indians. Will you please describe to me the exact sensation you feel at the time of death?
Tiến sĩ Newton [TS N]: Tốt, Sally, cô đã chấp nhận rằng cô bị giết bởi những người Da Đỏ này. Làm ơn mô tả cho tôi cảm giác chính xác mà cô cảm thấy vào thời điểm chết.
S: Like … a force … of some kind … pushing me up out of my body.
+ Chủ thể [CT]: Giống như …một lực …nào đó … kéo tôi lên ra khỏi thân thể tôi.
Dr. N: Pushing you? Out where?
TS N: Kéo cô? Ra khỏi chỗ nào?
S: I’m ejected out the top of my head.
CT: Tôi bị tống ra khỏi đỉnh đầu mình.
Dr. N: And what was pushed out?
TS N: Và cái gì bị đẩy ra?
S: Well—me!
CT: Ồ – tôi!
Dr. N: Describe what “me” means. What does the thing that is you look like going out of the head of your body?
TS N: Hãy mô tả, “tôi” nghĩa là gì. Cái nom giống như cô, đi ra khỏi cái đầu của cơ thể cô?
S: (pause) Like a … pinpoint of light … radiating …
CT: [ngừng một chút] Giống như một…tia ánh sáng nhỏ như mũi kim…phát sáng…
Dr. N: How do you radiate light?
TS N: Cô phát ra ánh sáng bằng cách nào?
S: From … my energy. I look sort of transparent white … my soul …
CT: Từ…năng lượng của tôi. Dường như tôi có màu trắng trong suốt…linh hồn tôi!
Dr. N: And does this energy light stay the same after leaving your body?
TS N: Và cái ánh sáng /năng lượng này có giữ nguyên sau khi nó rời bỏ thân thể cô?
S: (pause) I seem to grow a little … as I move around.
CT: [ngừng một chút] “Tôi” có vẻ tăng trưởng một chút…trong khi tôi di chuyển.
Dr. N: If your light expands, then what do you look like now?
TS N: Nếu ánh sáng của cô giãn nở ra, thì bây giờ nom “cô” ra làm sao?
S: A … wispy … string … hanging …
CT: Một…sợi dây(34)…mỏng …treo lơ lửng…
Dr. N: And what does the process of moving out of your body actually feel like to you?
TS N: Và cái tiến trình di chuyển ra khỏi thân xác, cô thực sự cảm thấy nó như thế nào?
S: Well, it’s as if I shed my skin … peeling a banana. I just lose my body in one swoosh!
CT: Ồ, nó như thể tôi lột da mình…lột vỏ một quả chuối. Tôi đơn giản mất thân thể mình trong một tiếng sột soạt!
Dr. N: Is the feeling unpleasant?
TS N: Cái cảm nhận đó có khó chịu không?
S: Oh no! It’s wonderful to feel so free with no more pain, but … I am … disoriented … I didn’t expect to die … (sadness is creeping into my client’s voice and I want him to stay focused on his soul for a minute more, rather than what is taking place on the ground with his body)
CT: Ồ, không! Thật là tuyệt vời khi cảm thấy quá tự do, không còn sự đau đớn, nhưng…tôi bị mất hướng…Tôi không muốn chết…[nỗi buồn đang len vào giọng nói của thân chủ tôi và tôi muốn ông ta tập trung trên linh hồn mình thêm một phút, hơn là [tập trung vào] những gì đang diễn ra trên đất với thân thể Sally].
Dr. N: I understand, Sally. You are feeling a little displacement at the moment as a soul. This is normal in your situation for what you have just gone through. Listen and respond to my questions. You said you were floating. Are you able to move around freely right after death?
TS N: Tôi hiểu, Sally. Cô đang cảm thấy mất hướng một chút tại khoảnh khắc [cô] trở thành một linh hồn. Đây là điều bình thường trong tình huống của cô, do những gì mà cô đã kinh qua. Hãy lắng nghe và trả lời những câu hỏi của tôi. Cô nói rằng, cô đang trôi bồng bềnh. Cô có thể di chuyển một cách tự do ngay sau cái chết?
S: It’s strange … it’s as if I’m suspended in air that isn’t air … there are no limits … no gravity … I’m weightless.
CT: Thật kỳ lạ…Nó như thể tôi đang lơ lửng trong không trung, nhưng đó không phải là không khí…không có mốc giới hạn nào…không trọng lực…tôi không có trọng lượng.
Dr. N: You mean it’s sort of like being in a vacuum for you?
TS N: Cô muốn nói, đối với cô, nó hơi giống như ở trong một khoảng chân không [vacuum]?
S: Yes … nothing around me is a solid mass.
CT: Vâng…xung quanh tôi, không có gì là một khối rắn chắc.
There are no obstacles to bump into … I’m drifting …Không có chướng ngại vật nào [để mà va vào] …Tôi đang trôi dạt…
Dr. N: Can you control your movements—where you are going?
TS N: Cô có thể kiểm soát những cử động của mình? Cô đang đi đâu?
S: Yes … I can do some of that … but there is … a pulling … into a bright whiteness … it’s so bright!
CT: Vâng…Tôi kiểm soát được chút đỉnh…nhưng có một…sức kéo…vào trong một vùng trắng rực rỡ…nó quá chói chang!
Dr. N: Is the intensity of whiteness the same everywhere?
TS N: Cái cường độ của màu trắng có như nhau ở mọi nơi?
S: Brighter … away from me … it’s a little darker white … gray … in the direction of my body … (starts to cry) oh, my poor body … I’m not ready to leave yet. (subject pulls back in his chair as if he is resisting something)
CT: Cách tôi một khoảng xa, thì nó…chói chang hơn …nó màu…xám…theo hướng của cơ thể tôi…[bắt đầu khóc] ồ, thân thể đáng thương của tôi…Tôi chưa sẵn sàng ra đi. [chủ thể ngả người ra phía sau trong ghế, như thể ông đang chống cự lại một cái gì đó].
Dr. N: It’s all right, Sally, I’m with you. I want you to relax and tell me if the force that took you out of your head at the moment of death is still pulling you away, and if you can stop it.
TS N: Không sao đâu, Sally. Tôi đang ở bên cạnh cô. Tôi muốn cô thư giãn và nói cho tôi biết, cái lực đưa cô ra khỏi cái đầu cô vào lúc chết, nó vẫn còn kéo cô đi? Và cô có thể ngăn chặn nó không?
S: (pause) When I was free of my body the pulling lessened. Now, I feel a nudge … drawing me away from my body … I don’t want to go yet … but, something wants me to go soon …
CT: [im lặng một lúc] Khi tôi tự do thoát khỏi thân thể mình, thì cái lực kéo giảm dần. Bây giờ tôi cảm thấy một cú hích nhẹ …kéo tôi khỏi thân thể tôi…Tôi chưa muốn đi…nhưng, một cái gì đó muốn tôi đi sớm…
Dr. N: I understand, Sally, but I suspect you are learning you have some element of control. How would you describe this thing that is pulling you?
TS N: Tôi hiểu, Sally, nhưng tôi đoán, cô đang biết rằng cô có yếu tố kiểm soát nào đó. Cô có thể mô tả cái mà đang kéo cô, nó như thế nào không?
S: A … kind of magnetic … force … but … I want to stay a little longer …
CT: Một…loại lực có từ tính…nhưng tôi muốn lưu lại lâu hơn một chút…
Dr. N: Can your soul resist this pulling sensation for as long as you want?
TS N: Linh hồn cô có thể chống cự cảm giác bị kéo này lâu như cô muốn?
S: (there is a long pause while the subject appears to be carrying on an internal debate with himself in his former life as Sally) Yes, I can, if I really want to stay. (subject starts to cry) Oh, it’s awful what those savages did to my body. There is blood all over my pretty blue dress … my husband Will is trying to hold me and still fight with our friends against the Kiowa.
CT: [có một khoảng im lặng dài trong khi chủ thể có vẻ như đang thực hiện một cuộc tranh cãi bên trong với chính mình trong kiếp trước, khi ông còn là Sally]. Vâng, tôi có thể, nếu tôi thực sự muốn lưu lại. [chủ thể bắt đầu khóc]. Ồ, thật là khủng khiếp, những gì mà những tên dã man đó đã làm với cơ thể tôi. Có máu khắp cái váy xanh da trời xinh đẹp của tôi…chồng tôi, Will, đang cố ôm tôi và vẫn đang cùng các bạn của chúng tôi chiến đấu chống lại bọn Da Dỏ Kiowa.
Note: I reinforce the imagery of a protective shield around this subject, which is so important as a foundation to calming procedures. Sally’s soul is still hovering over her body after I move the scene forward in time to when the Indians are driven off by the wagon train rifles.CHÚ THÍCH: Tôi tăng cường cái “lá chắn bảo vệ” nhằm xoa dịu linh hồn Sally. Linh hồn cô vẫn bay lượn trên thân thể cô sau khi tôi di chuyển cái cảnh [scene] đó về phía trước trong thời gian, tới khi mà những tên Da Đỏ bị đuổi đi bởi những tay súng từ cỗ xe ngựa chở hàng.
Dr. N: Sally, what is your husband doing right after the attack?
TS N: Sally, chồng cô đang làm gì ngay sau cuộc tấn công?
S: Oh, good … he isn’t hurt … but … (with sadness) he is holding my body … crying over me … there is nothing he can do for me, but he doesn’t seem to realize that yet. I’m cold, but his hands are around my face … kissing me.
CT: Ồ, tốt. Anh ấy không bị thương…nhưng [buồn bã] anh ấy đang ôm thân thể tôi…khóc trên xác tôi…anh ấy không thể làm gì cho tôi, nhưng dường như anh ấy chưa nhận thức được điều ấy. Thể xác tôi đã lạnh, nhưng hai bàn tay anh ấy vuốt ve xung quanh mặt tôi…đang hôn tôi.
Dr. N: And what are you doing at this moment?
TS N: Và cô đang làm gì khoảnh khắc này?
S: I’m over Will’s head. I’m trying to console him. I want him to feel my love is not really gone … I want him to know he has not lost me forever and that I will see him again.
CT: Tôi đang ở trên đầu Will. Tôi đang cố an ủi anh ấy. Tôi muốn anh ấy cảm thấy rằng, tình yêu của tôi không thực sự mất đi…Tôi muốn anh ấy biết là anh ấy chưa mất tôi mãi mãi và rằng, tôi sẽ lại gặp anh ấy.
Dr. N: Are your messages getting through?
TS N: Những thông điệp của cô có tới được anh ta không?
S: There is so much grief, but he … feels my essence … I know it. Our friends are around him … and they separate us finally … they want to reform the wagons and get started again.
CT: Có quá nhiều nỗi sầu muộn, nhưng anh ấy…cảm nhận linh hồn tôi…Tôi biết điều đó. Những người bạn của chúng tôi ở xung quanh anh ấy…và sau cùng, họ cách ly chúng tôi…họ muốn sửa chữa những cái wagon xe ngựa để khởi hành tiếp.
Dr. N: And what is going on now with your soul?
TS N: Và bây giờ, cái gì đang diễn ra với linh hồn cô?
S: I’m still resisting the pulling sensation … I want to stay.
CT: Tôi vẫn đang kháng cự lại cảm giác bị kéo đi…Tôi muốn lưu lại.
Dr. N: Why is that?
TS N: Tại sao vậy?
S: Well, I know I’m dead … but I’m not ready to leave Will yet and … I want to watch them bury me.
CT: Ồ, tôi biết tôi đã chết…nhưng tôi chưa sẵn sàng rời Will và…tôi muốn quan sát họ chôn cất tôi.
Dr. N: Do you see or feel any other spiritual entity around you at this moment?
TS N: Cô có thấy hay cảm nhận bất cứ thực thể tâm linh nào xung quanh cô vào khoảnh khắc này không?
S: (pause) They are near … soon I will see them … I feel their love as I want Will to feel mine … they are waiting until I’m ready.
CT: [im lặng một lát] Họ ở gần đây…Tôi sẽ sớm gặp họ…Tôi cảm nhận tình yêu của họ và tôi muốn Will cảm nhận tình yêu của tôi…họ đang đợi cho đến khi tôi sẵn sàng.
Dr. N: As time passes, are you able to comfort Will?
TS N: Sau cùng, cô có thể an ủi Will không?
S: I’m trying to reach inside his mind.
CT: Tôi đang cố đi vào bên trong tâm trí anh ấy.
Dr. N: And are you show tired souls can beuccessful?
TS N: Cô có thành công không?
S: (pause) I … think a little … he feels me … he realizes … love…
CT: [im lặng một lát] Tôi…nghĩ, một chút…anh ấy cảm nhận …anh ấy nhận thức…tình yêu…
Dr. N: All right, Sally, now we are going to move forward in relative time again. Do you see your wagon train friends placing your body in some kind of grave?
TS N: Được rồi, Sally, bây giờ chúng ta sắp di chuyển về đằng trước trong thời gian tương đối, một lần nữa. Cô có thấy những người bạn trên xe ngựa của cô đang đặt xác cô vào một loại nấm mồ nào đó?
S: (voice is more confident) Yes, they have buried me. It’s time for me to go … they are coming for me now … I’m moving … into a brighter light …
CT: [giọng nói tự tin nhiều hơn] Vâng, họ đã chôn cất tôi. Đã đến lúc tôi phải đi…người ta đang đến đón tôi, bây giờ…tôi đang di chuyển…vào trong một vùng ánh sáng rực rỡ hơn…
Contrary to what some people believe, souls often have little interest in what happens to their bodies once they are physically dead.Trái với những điều mà người ta tin tưởng, những linh hồn thường ít quan tâm đến cái xảy ra cho thân xác chúng một khi nó [xác] đã chết về mặt vật lý.
This is not callousness over personal situations and the people they leave behind on Earth, but an acknowledgement of these souls to the finality of mortal death. Đây không phải là sự vô cảm [của linh hồn] đối với những tình huống cá nhân và những người mà nó bỏ lại đằng sau ở Cõi Trần, nhưng đó chỉ là sự công nhận rằng, thân xác của nó đã thực sự chết.
They have a desire to hurry on their way to the beauty of the spirit world. Nó muốn vội vàng khởi hành trở lại cái thế giới xinh đẹp của linh hồn.
However, many other souls want to hover around the place where they died for a few Earth days, usually until after their funerals.Tuy nhiên, nhiều linh hồn khác muốn lưu lại thêm một vài ngày ở Cõi Trần, bay lượn xung quanh cái nơi mà thân xác chúng chết, thường là cho đến sau tang lễ.
Time is apparently accelerated for souls and days on Earth may be only minutes to them. Rõ ràng, thời gian được tăng tốc đối với những linh hồn, và những ngày ở Cõi Trần có thể chỉ là một vài phút đối với chúng.(35) 
There are a variety of motivations for the lingering soul.Có nhiều lý do tại sao một số linh hồn chưa muốn rời bỏ Cõi Trần.
For instance, someone who has been murdered or killed unexpectedly in an accident often does not want to leave right away. Chẳng hạn, một người bị ám sát hay bị giết chết một cách đột ngột trong một tai nạn, thường không muốn rời bỏ Cõi Trần ngay lập tức.
I find these souls are frequently bewildered or angry. Tôi thấy những linh hồn này thường xuyên bị ngỡ ngàng hay giận dữ.
The hovering soul syndrome is particularly true of deaths with young people. Hội chứng linh hồn bay lượn trên xác của nó, thì đặc biệt đúng với những cái chết của những người trẻ.
To abruptly detach from a human form, even after a long illness, is still a jolt to the average soul and this too may make the soul reluctant to depart at the moment of death.Việc đột ngột tách rời khỏi một cơ thể người, ngay cả sau một cơn bệnh dài, vẫn là một cú sốc đối với linh hồn trung bình(36) và điều này cũng khiến cho linh hồn miễn cưỡng ra đi vào khoảnh khắc của cái chết.
There is also something symbolic about the normal three- to five-day funeral arrangement periods for souls. Tang lễ thường kéo dài từ 3 đến 5 ngày, điều này cũng có một cái gì đó mang tính biểu tượng.
Souls really have no morbid curiosity to see themselves buried because emotions in the spirit world are not the same as we experience here on Earth. Những linh hồn thực sự không có sự hiếu kỳ bệnh hoạn muốn thấy chính thân thể chúng được chôn cất, bởi vì những cảm xúc trong thế giới linh hồn thì không giống hệt như chúng ta trải nghiệm ở đây, Cõi Trần.
Yet, I find soul entities appreciate the respect given to the memory of their physical life by surviving relatives and friends. Thế nhưng, tôi thấy những thực thể linh hồn đánh giá cao việc tưởng nhớ mà những thân thích và bạn hữu còn sống dành cho cái cuộc sống vật lý của chúng.
As we saw in the last case, there is one basic reason for many spirits not wanting to immediately leave the place of their physical death.Như chúng ta đã thấy trong ca vừa rồi, có một lý do tại sao linh hồn không muốn ngay lập tức rời bỏ nơi mà cái chết vật lý của nó diễn ra.
This comes from a desire to mentally reach out to comfort loved ones before progressing further into the spirit world. Điều này xuất phát từ một mong ước: muốn vươn ra [bằng thần thức] để an ủi những kẻ thân yêu, trước khi tiến xa hơn vào trong thế giới linh hồn.
Those who have just died are not devastated about their death, because they know those left on Earth will see them again in the spirit world and probably later in other lives as well. Những người vừa mới chết không bị choáng váng bởi cái chết của họ, bởi vì họ biết(40) rằng, những người bị bỏ lại ở Cõi Trần, sẽ lại gặp họ trong thế giới linh hồn, và, rất có thể, về sau, trong những kiếp sống khác nữa.
On the other hand, mourners at a funeral generally feel they have lost a loved one forever. Trái lại, những người thân tại tang lễ thường cảm thấy rằng, họ đã mất đi một kẻ thân yêu mãi mãi.
During hypnosis, my subjects do recall frustration at being unable to effectively use their energy to mentally touch a human being who is unreceptive due to shock and grief.Trong cơn thôi miên, những thân chủ của tôi thực sự nhớ lại rằng, họ phẫn chí vì đã không thể sử dụng hữu hiệu năng lượng của họ, để [bằng thần thức] chạm vào kẻ thân yêu đã mất khả năng thụ cảm do bị sốc và sầu muộn.
Emotional trauma of the living may overwhelm their inner minds to such an extent that their mental capabilities to communicate with souls are inhibited. Chấn thương cảm xúc của người sống có thể tràn ngập “tâm trí nội tại” [inner [mind] của họ, tới mức nó ngăn chặn năng lực truyền thông của họ với linh hồn [người quá cố].
When a newly departed soul does find a way to give solace to the living—however briefly—they usually are satisfied and want to then move on quickly away from Earth’s astral plane. Khi một linh hồn vừa mới rời khỏi xác đã tìm thấy một cách để an ủi người sống – dù ngắn ngủi đến đâu – thì nó thường thỏa mãn và muốn nhanh chóng di chuyển xa khỏi cái vùng trung giới [astral plane] của Cõi Trần.
I had a typical example of spiritual consolation in my own life.Tôi có một thí dụ điển hình về sự “an ủi tâm linh” trong chính đời tôi.
My mother died suddenly from a heart attack. Mẹ tôi chết đột ngột do một cơn đau tim.
During her burial service, my sister and I were so filled with sadness our minds were numb at the ceremony. Trong lễ mai táng, chị tôi và tôi quá buồn bã, đến nỗi tâm trí chúng tôi bị tê liệt.
A few hours later we returned to my mother’s empty house with our spouses and decided to take a needed rest. Một vài giờ sau đó, tất cả chúng tôi trở lại ngôi nhà vắng vẻ của mẹ tôi và quyết định có một thời gian nghỉ ngơi cần thiết.
My sister and I must have reached the receptive Alpha state at about the same time. Chị tôi và tôi chắc hẳn đã đạt tới trạng thái Alpha gần như đồng thời.
Appearing in two separate rooms, my mother came through our subconscious minds as a dream-like brush of whiteness above our heads. Hiện ra trong 2 căn phòng tách biệt nhau, mẹ tôi đến xuyên qua tâm trí tiềm thức của chúng tôi như là một tia ánh sáng trắng, nửa hư nửa thực, phía trên đầu chúng tôi.
Reaching out, she smiled, indicating her acceptance of death and current well-being. Bà mỉm cười, biểu lộ sự chấp nhận cái chết và tình trạng an vui hiện tại.
Then she floated away. Rồi bà trôi bồng bềnh đi xa.
Lasting only seconds, this act was a meaningful form of closure, causing both of us to release into a sound sleep of the Delta state. Kéo dài chỉ vài dây, hành vi này là một hình thức có ý nghĩa của sự kết thúc, khiến cho cả hai chúng tôi đều chìm vào trong một giấc ngủ say của trạng thái Delta.
We are capable of feeling the comforting presence of the souls of lost loved ones, especially during or right after funerals.Chúng ta có thể cảm nhận sự có mặt đầy an ủi của linh hồn của một kẻ thân yêu đã mất, nhất là trong tang lễ hay ngay sau đó.
For spiritual communication to come through the shock of mourning it is necessary to try to relax and clear your mind, at least for short periods. Trong cú sốc của sầu muộn, để cho linh hồn có thể truyền thông với chúng ta, thì chúng ta cần phải cố thư giãn và dẹp bỏ những tạp niệm, ít nhất, trong những giai đoạn ngắn.(37) 
At these moments our receptivity to a paranormal experience is more open to receive positive communications of love, forgiveness, hope, encouragement, and the reassurance your loved one is in a good place.Vào những khoảnh khắc [thư giãn] này, khả năng thụ cảm của chúng ta đối với một kinh nghiệm “siêu hình” [paranormal] mở rộng nhiều hơn, để tiếp nhận những truyền thông tích cực: tình yêu, sự tha thứ, niềm hy vọng, sự động viên, và sự an tâm rằng, kẻ thân yêu của ta đang ở một nơi tốt đẹp.
When a widow with young children says to me, “A part of my husband comes to me during the difficult times,” I believe her.Khi một góa phụ có những đứa con nhỏ nói với tôi: “Chồng tôi thường đến với tôi trong suốt những lúc khó khăn,” thì tôi tin bà.
My clients tell me as souls they are able to help those on Earth connect their inner minds to the spirit world itself. Những thân chủ của tôi bảo tôi rằng, với tư cách là linh hồn, họ có thể giúp đỡ những người ở Cõi Trần kết nối cái “tâm trí nội tại/sâu kín” [inner mind] của họ với chính thế giới linh hồn.
As it has been wisely said, people are not really gone as long as they are remembered by those left on Earth. Có một câu nói đầy minh triết: “Người ta không thực sự ‘chết,’ bao lâu mà họ còn được tưởng nhớ bởi những ai còn sống ở Cõi Trần.” 
In the chapters ahead, we will see how specific memory is a reflection of our own soul, while collective memories are the atoms of pure energy for all souls.Trong những chương sắp đến, chúng ta sẽ thấy, như thế nào mà ký ức cá nhân là một phản ánh [reflection] của chính linh hồn chúng ta, trong khi những ký ức tập thể, là những nguyên tử của năng lượng thuần túy cho mọi linh hồn.
Death does not break our continuity with the immortal soul of those we love simply because they have lost the physical personhood of a mortal body. Cái chết không phá vỡ sự liên tục của chúng ta với cái linh hồn bất tử của những ai mà chúng ta yêu, cho dẫu họ đã mất đi cái “thân vật lý” hữu-tử.
Despite their many activities, these departed souls are still able to reach us if called upon. Mặc dù họ có nhiều sinh hoạt, song những linh hồn đã ra đi này vẫn có thể vươn tới chúng ta, nếu có lời kêu gọi.
Occasionally, a disturbed spirit does not want to leave the Earth after physical death.Thỉnh thoảng, một linh hồn bị nhiễu loạn không muốn rời Cõi Trần sau cái chết vật lý.
This is due to some unresolved problem which has had a severe impact on its consciousness. Lý do: một vấn đề chưa được giải quyết nào đó, đã có một tác động nghiêm trọng trên ý thức của nó.
In these abnormal cases, help is available from higher, caring entities who can assist in the adjustment process from the other side. Trong những ca bất thường này, linh hồn có thể được trợ giúp bởi những thực thể cao hơn – những thực thể ân cần này có thể trợ giúp trong tiến trình thích nghi, từ “phía bên kia”.
We also have the means to aid disturbed spirits in letting go on Earth, as well. Chúng ta, ở Cõi Trần, cũng có những phương tiện để hỗ trợ những linh hồn bị nhiễu loạn trong việc buông bỏ.
I will have more to say about troubled souls in Chapter Four, but the enigma of ghosts portrayed in books and movies has been greatly overblown. Tôi sẽ nói nhiều hơn về những linh hồn bị nhiễu loạn này trong chương 4, nhưng cái bí ẩn về những hồn ma được mô tả trong những cuốn sách và những bộ phim, thì đã bị thổi phồng quá nhiều.
How should we best prepare for our own death? Our lives may be short or long, healthy or sick, but there comes that time when we all must meet death in a way suited for us.Đâu là cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của chính mình? Đời chúng ta có thể ngắn hay dài, mạnh khỏe hay bệnh hoạn, nhưng sẽ có một thời điểm, khi mà tất cả chúng ta đều phải đối mặt với cái chết trong một cách thức phù hợp với chúng ta.
If we have had a long illness leading to death, there is time to adequately prepare the mind once initial shock, denial, and depression have passed. Nếu chúng ta có một cơn bệnh dài dẫn đến cái chết, thì có một thời gian để chuẩn bị tâm trí một cách thích đáng, một khi cái cú sốc ban đầu, sự kháng cự, và sự phiền muộn đã đi qua.
The mind takes a short cut through this sort of progression when we face death suddenly. Tâm trí đi theo con đường tắt xuyên qua loại diễn tiến này, khi chúng ta đối mặt với cái chết một cách đột ngột.
As the end of our physical life draws near, each of us has the capacity to fuse with our higher consciousness. Trong khi sự kết thúc của cuộc sống vật lý của chúng ta đến gần, thì mỗi chúng ta đều có năng lực để hợp nhất với cái “ý thức cao hơn” của mình.
Dying is the easiest period in our lives for spiritual awareness, when we can sense our soul is connected to the eternity of time. Phút lâm chung là giai đoạn dễ dàng nhất trong đời chúng ta cho “sự nhận biết tâm linh,” khi chúng ta có thể cảm nhận rằng, linh hồn mình được nối kết với cái vĩnh cửu của thời gian.
Although there are dying people who find acceptance to be more difficult than resignation, caregivers working around the dying say most everyone acquires a peaceful detachment near the end.Mặc dù có những người hấp hối thấy sự chấp nhận [cái chết] là khó khăn hơn sự cam chịu, song những điều dưỡng viên đang làm việc xung quanh kẻ hấp hối nói rằng, phần lớn mọi người thủ đắc một sự xả ly [detachment] bình an khi sắp trút hơi thở cuối cùng.
I believe dying people are given access to a supreme knowledge of eternal consciousness and this frequently shows in their faces. Tôi tin rằng, kẻ hấp hối được tiếp cận với một sự hiểu biết tối cao về “ý thức vĩnh cửu,”(38) và điều này thường xuyên biểu lộ ra trên nét mặt họ.
Many of these people realize something universal is out there waiting and it will be good. Nhiều trong số những người này nhận thức rằng, một cái gì đó phổ quát đang hiện diện ở đó, “ngoài kia,” đang chờ đợi họ và mọi sự sẽ tốt đẹp.
Dying people are undergoing a metamorphosis of separation by their souls from an adopted body.Những người hấp hối đang trải qua một sự hóa thân: linh hồn họ đang tách khỏi một cơ thể tạm bợ.
People associate death as losing our life force, when actually the opposite is true. Người ta thường xem cái chết như là việc đánh mất sinh lực [life force] của mình, trong khi phải nói ngược lại thì mới thực sự đúng.
We forfeit our body in death, but our eternal life energy unites with the force of a divine oversoul. Chúng ta đánh mất cơ thể mình trong cái chết, nhưng năng lượng sống vĩnh cửu của chúng ta hợp nhất với lực của một “linh hồn tối cao” thiêng liêng.(39) 
Death is not darkness, but light.Cái chết không phải là bóng tối, mà là ánh sáng.
My clients say after recalling former death experiences they are so filled with rediscovered freedom from their earthbound bodies that they are anxious to get started on their spiritual journey to a place of peace and familiarity.Những thân chủ của tôi nói rằng, sau khi nhớ lại những kinh nghiệm chết quá khứ, họ quá tràn ngập sự tự do được khám phá – thoát khỏi cái thân xác hệ lụy của Cõi Trần – đến nỗi, họ nóng lòng muốn khởi hành trên chuyến đi tâm linh đến một nơi chốn bình an và quen thuộc.
In the cases which follow, we will learn what life is like for them in afterlife. Trong những ca tiếp sau đây, chúng ta sẽ biết, linh hồn sẽ vận hành ra sao, sau khi cơ thể vật lý chết đi.