CHƯƠNG II. CỔNG VÀO THẾ GIỚI LINH HỒN

2. Gateway to the Spirit WorldCHƯƠNG II. CỔNG VÀO THẾ GIỚI LINH HỒN
FOR thousands of years the people of Mesopotamia believed the gates into and out of heaven lay at opposite ends of the great curve of the Milky Way, called the River of Souls.Trong hàng ngàn năm, những người của vùng Lưỡng Hà(40) tin rằng, những cánh cổng vào và ra của thiên đường nằm ở hai đầu đối nghịch nhau của đường cong lớn của Ngân Hà, gọi làCon sông của những Linh hồn.
After death, souls had to wait for the rising doorway of Sagittarius and the autumn equinox, when day and night are equal. Sau cái chết, những linh hồn phải đợi con đường của chòm sao Nhân Mã [Sagittarius] “mọc lên” và thu phân, khi ngày và đêm dài bằng nhau.
Reincarnation back to Earth could only take place during the spring equinox through the Gemini exit in their night sky. Sự tái sinh [đầu thai] trở lại Cõi Trần diễn ra trong suốt xuân phân, qua sự xuất hiện của chòm sao Gemini trên bầu trời đêm.
My subjects tell me that soul migration is actually much easier.Những thân chủ của tôi nói với tôi rằng, sự di trú của linh hồn thì thực sự dễ dàng hơn nhiều.
The tunnel effect they experience when leaving Earth is the portal into the spirit world. Cái hiệu ứng đường hầm, mà họ trải nghiệm khi rời Cõi Trần, là cánh cửa vào trong thế giới linh hồn.
Although souls leave their bodies swiftly, it seems to me entry into the spirit world is a carefully measured process. Mặc dù những linh hồn rời thân xác của chúng một cách nhanh chóng, đối với tôi, có vẻ như việc đi vào trong thế giới linh hồn là một quá trình được hoạch định cẩn thận.
Later, when we return to Earth in another life, the route back is described as being more rapid. Về sau, khi chúng ta trở lại Cõi Trần trong một kiếp sống khác, thì lộ trình trở lại được mô tả như là nhanh chóng hơn.
The location of the tunnel in relation to the Earth has some variations between the accounts of my subjects.Trong những bản tường thuật của những thân chủ tôi, thì cái địa điểm của đường hầm, trong quan hệ với Cõi Trần, có vài “biến thể.”
Some newly dead people see it opening up next to them right over their bodies, while others say they move high above the Earth before they enter the tunnel.Một vài người mới chết, thấy nó mở tung ra ngay bên cạnh họ, phía trên thân xác họ, trong khi những người khác nói rằng, họ di chuyển lên cao phía trên Cõi Trần trước khi bước vào đường hầm.
In all cases, however, the time lapse in reaching this passageway is negligible once the soul leaves Earth. Tuy nhiên, trong mọi ca, thì một khi linh hồn rời Cõi Trần, thì khoảng thời gian để tới cái đường hầm là không đáng kể.
Here are the observations of another individual in this spiritual location. Sau đây là những nhận xét của một cá nhân khác [khi đang ở] trong cái cái địa điểm tâm linh này.
- Case 3
- Ca 3
Dr. N: You are now leaving your body. See yourself moving further and further away from the place where you died, away from the plane of Earth. Report back to me what you are experiencing.TS N: Bây giờ cô đang rời bỏ thân xác cô. Hãy tự nhìn chính mình di chuyển mỗi lúc một xa hơn, cách xa nơi mà cô chết, xa khỏi cái không gian của Cõi Trần. Hãy tường thuật cho tôi những gì mà cô đang trải nghiệm.
S: At first … it was very bright … close to the Earth … now it’s a little darker because I have gone into a tunnel. CT: Ban đầu…nó rất chói chang…gần kề Cõi Trần… bây giờ thì nó tối hơn một chút, bởi vì tôi đã đi vào trong một đường hầm.
Dr. N: Describe this tunnel for me.TS N: Hãy mô tả đường hầm này cho tôi.
S: It’s a … hollow, dim vent … and there is a small circle of light at the other end. CT: Nó…là một lỗ thông hơi lõm, mờ tối …và có một vòng tròn ánh sáng nhỏ ở cuối phía bên kia.
Dr. N: Okay, what happens to you next?TS N: Tốt, cái gì kế tiếp xảy ra với cô?
S: I feel a tugging … a gentle pulling … I think I’m supposed to drift through this tunnel … and I do. It is more gray than dark now, because the bright circle is expanding in front of me. It’s as if … (client stops) CT: tôi cảm nhận một cái giật mạnh…một lực kéo nhẹ…Tôi nghĩ, tôi phải trôi dạt xuyên qua cái đường hầm này… và tôi làm thế. bây giờ nó xám nhiều hơn đen sẫm, bởi vì cái vòng tròn rực rỡ đang giãn ra phía trước tôi. nó như thể…(ngừng nói)
Dr. N: Go on.TS N: Hãy tiếp tục.
S: I’m being summoned forward … CT: Người ta đang gọi tôi đi về phía trước…
Dr. N: Let the circle of light expand in front of you at the end of the tunnel and continue to explain what is happening to you.TS N: Hãy để cho cái vòng tròn ánh sáng giãn ra phía trước cô tại cuối đường hầm và tiếp tục giải thích cái đang xảy ra với cô.
S: The circle of light grows very wide and … I’m out of the tunnel. There is a … cloudy brightness … a light fog. I’m filtering through it. CT: Cái vòng tròn ánh sáng tăng trưởng rất rộng và… Tôi đang ra khỏi đường hầm. Có một…làn ánh sáng chiếu qua…một làn sương mù nhẹ. Tôi đang trôi xuyên qua nó.
Dr. N: As you leave the tunnel, what else stands out in your mind besides the lack of absolute visual clarity?TS N: Trong khi cô rời đường hầm, cái gì khác nổi bật trong tâm trí cô ngoài ánh sáng lờ mờ?
S: (subject lowers voice) It’s so … still … it is such a quiet place to be in … I am in the place of spirits … CT: [Giọng thấp hơn] Nó quá…yên tĩnh…quá lặng lẽ…Tôi đang ở trong nơi chốn của những linh hồn…
Dr. N: Do you have any other impressions at this moment as a soul?TS N: Với tư cách là một linh hồn, cô có ấn tượng nào khác vào khoảnh khắc này?
S: Thought! I feel the … power of thought all around me. I … CT: Tư tưởng! Tôi cảm nhận…sức mạnh của tư tưởng [thought] khắp xung quanh tôi. Tôi…
Dr. N: Just relax completely and let your impressions come through easily as you continue to report back to me exactly what is happening to you. Please go on.TS N: Hãy thư giãn hoàn toàn và hãy để cho những ấn tượng của cô đến một cách dễ dàng, khi cô tiếp tục tường thuật cho tôi một cách chính xác những gì đang xảy ra với cô. Làm ơn tiếp tục.
S: Well, it’s hard to put into words. I feel … thoughts of love … companionship … empathy … and it’s all combined with … anticipation … as if others are … waiting for me. CT: Vâng, thật khó diễn tả thành lời. Tôi cảm thấy… những ý tưởng về tình yêu…tình bạn…sự thấu cảm… và tất cả được kết hợp với…sự mong đợi [anticipation] …như thể những người khác đang…đợi tôi.
Dr. N: Do you have a sense of security, or are you a little scared?TS N: Cô có một cảm thức về an ninh, hay cô có chút sợ hãi?
S: I’m not scared. When I was in the tunnel, I was more … disoriented. Yes, I feel secure … I’m aware of thoughts reaching out to me … of caring … nurturing. It is strange, but there is also the understanding around me of just who I am and why I am here now. CT: Tôi không sợ hãi. Khi tôi ở trong đường hầm, tôi bị…mất hướng nhiều hơn. Vâng, [bây giờ] thì tôi cảm thấy an toàn…Tôi nhận biết rằng, những ý tưởng đang vươn ra với tôi… về sự chăm sóc…nuôi dưỡng. Thật kỳ lạ, nhưng xung quanh tôi có những “thực thể,” họ biết tôi là ai, và tại sao bây giờ tôi ở đây.
Dr. N: Do you see any evidence of this around you?TS N: Cô có thấy bằng chứng nào về điều này ở xung quanh cô không?
S: (in a hushed tone) No, I sense it—a harmony of thought everywhere. CT: [hạ giọng] Không, tôi chỉ cảm nhận nó – một sự hòa điệu của ý tưởng khắp mọi nơi.
Dr. N: You mentioned cloud-like substances around you right after leaving the tunnel. Are you in a sky over Earth?TS N: Cô nói đến những chất liệu giống như mây xung quanh cô ngay sau khi rời đường hầm. Có phải cô ở trong một bầu trời phía trên Cõi Trần?
S: (pause) No—not that—but I seem to be floating through cloud stuff which is different from Earth. CT: [im lặng một lát] Không – không phải thế – nhưng có vẻ như tôi đang trôi bồng bềnh xuyên qua một cái gì như đám mây, khác với Cõi Trần.
Dr. N: Can you see the Earth at all? Is it below you?TS N: Cô có thấy Cõi Trần không? Nó có ở phía dưới cô không?
S: Maybe it is, but I haven’t seen it since I went in the tunnel. CT: Có lẽ như vậy, nhưng tôi chưa thấy nó từ khi tôi đi vào trong đường hầm.
Dr. N: Do you sense you are still connected to Earth through another dimension, perhaps?TS N: Cô có cảm nhận rằng, cô vẫn còn được nối kết với Cõi Trần, có lẽ, qua một chiều không gian khác?
S: That’s a possibility—yes. In my mind Earth seems close … and I still feel connected to Earth … but I know I’m in another space. CT: Đó là một khả tính – vâng. Trong tâm trí tôi, Cõi Trần có vẻ như gần kề…và tôi vẫn cảm nhận mình được nối kết với Cõi Trần…nhưng tôi biết rằng, tôi đang ở trong một không gian khác.
Dr. N: What else can you tell me about your present location?TS N: Cô có thể nói thêm về cái địa điểm hiện tại của cô không?
S: It’s still a little … murky … but I’m moving out of this. CT: Nó vẫn còn…mù mịt một chút… Tôi đang di chuyển ra khỏi chỗ này.
This particular subject, having been taken through the death experience and the tunnel, continues to make tranquil mental adjustments to her bodiless state while pulling further into the spirit world.Vị thân chủ này – đã được mang đi xuyên qua kinh nghiệm chết và đường hầm – tiếp tục, một cách trầm tĩnh, làm những điều chỉnh để thích nghi với trạng thái không thân xác của cô, trong khi đi xa hơn vào trong thế giới linh hồn.
After some initial uncertainty, her first reported impressions reflect an inviting sense of well-being. Sau một chút bỡ ngỡ ban đầu, thì những ấn tượng đầu tiên của cô phản ánh một cảm thức an vui, mời gọi.
This is a common feeling among my subjects. Đây là một cảm nhận chung được chia sẻ bởi những thân chủ của tôi.
Once through the tunnel, our souls have passed the initial gateway of their journey into the spirit world.Một khi ra khỏi đường hầm, linh hồn chúng ta đã băng qua cái cổng đầu tiên của cuộc hành trình của nó vào trong thế giới linh hồn.
Most now fully realize they are not really dead, but have simply left the encumbrance of an Earth body which has died. Bây giờ, phần lớn chủ thể nhận thức đầy đủ rằng, họ không thực sự chết, mà chỉ rời bỏ cái gánh nặng của một thân xác Cõi Trần.
With this awareness comes acceptance in varying degrees depending upon the soul. Với sự nhận biết này, sự chấp nhận [cái chết] đến trong những cấp độ khác nhau, tùy theo từng linh hồn.
Some subjects look at these surroundings with continued amazement while others are more matter-of-fact in reporting to me what they see. Vài thân chủ nhìn vào những môi trường mới này với niềm kinh ngạc liên tục, trong khi những người khác thì thản nhiên hơn khi tường thuật cho tôi những gì mà họ thấy.
Much depends upon their respective maturity and recent life experiences. Sự khác biệt này tùy thuộc rất nhiều vào mức độ trưởng thành [tâm linh] của họ và những kinh nghiệm về kiếp sống mới đây của họ.
The most common type of reaction I hear is a relieved sigh followed by something on the order of, “Oh, wonderful, I’m home in this beautiful place again. Loại phản ứng phổ biến nhất mà tôi nghe, là một tiếng thở phào nhẹ nhõm, theo sau là một câu nói như: “Ồ, thật tuyệt vời, tôi lại trở về nhà, cái nơi chốn xinh đẹp này.
There are those highly developed souls who move so fast out of their bodies that much of what I am describing here is a blur as they home into their spiritual destinations.Có những linh hồn tiến hóa cao, chúng di chuyển quá nhanh ra khỏi thân xác mình, đến nỗi, nhiều trong số những cái mà tôi đang mô tả ở đây, chỉ là một vết mờ khi chúng trở lại cái “đích đến tâm linh” của chúng.
These are the pros and, in my opinion, they are a distinct minority on Earth. Có những linh hồn tiến hóa cao, và theo ý tôi, chúng là một thiểu số “tinh hoa” ở Cõi Trần.
The average soul does not move that rapidly and some are very hesitant. Linh hồn trung bình thì không di chuyển nhanh như vậy, và một vài linh hồn rất lưỡng lự.
If we exclude the rare cases of highly disturbed spirits who fight to stay connected with their dead bodies, I find it is the younger souls with fewer past lives who remain attached to Earth’s environment right after death. Ngoài những ca hiếm hoi – những linh hồn bị nhiễu loạn cao độ, chiến đấu để lưu giữ sự nối kết với cái tử thi của chúng – tôi thấy chính những linh hồn trẻ hơn, với ít kiếp sống quá khứ hơn, là những linh hồn vẫn quyến luyến môi trường Cõi Trần ngay sau khi chết.
Most of my subjects report that as they emerge from the mouth of the tunnel, things are still unclear for awhile.Phần lớn trong số những thân chủ của tôi tường thuật rằng, khi họ ra khỏi đường hầm, thì trong một lát, những sự vật vẫn không rõ ràng.
I think this is due to the density of the nearest astral plane surrounding Earth, called the kamaloka by Theosophists. Tôi nghĩ, điều này là do sự dày đặc [the density] của cái tầng trung giới [astral plane] gần nhất bao quanh Cõi Trần, gọi là Kamaloca(41) bởi những nhà Thông Thiên Học.
The next case describes this area from the perspective of a more analytical client. Ca kế tiếp mô tả khu vực này với nhiều chi tiết hơn.
The soul of this individual demonstrates considerable observational insight into form, colors, and vibrational levels. Linh hồn của cá thể này đưa ra những mô tả đáng chú ý, chi tiết, về hình dáng, màu sắc, và cấp độ rung động.
Normally, such graphic physical descriptions by my subjects occur deeper into the spirit world after they get used to their surroundings. Bình thường, những mô tả sinh động, có tính vật lý như thế, chỉ xuất hiện khi [linh hồn] đi vào sâu hơn trong thế giới linh hồn, sau khi linh hồn đã quen với môi trường xung quanh nó.
- Case 4
- Ca 4
Dr. N: As you move further away from the tunnel, describe what you see around you in as much detail as possible.TS N: Trong khi bạn di chuyển xa khỏi đường hầm, hãy mô tả những gì mà bạn thấy xung quanh bạn, càng chi tiết càng tốt.
S: Things are … layered. CT: Những vật thể…đều được xếp thành nhiều tầng.
Dr. N: Layered in what way?TS N: Việc xếp tầng như thế nào?
S: Umm, sort of like … a cake. CT: Hơi giống như một…cái bánh Sinh nhật.
Dr. N: Using a cake as a model, explain what you mean?TS N: Dùng cái bánh Sinh nhật như một mô hình, hãy giải thích, bạn muốn ngụ ý cái gì?
S: I mean some cakes have small tops and are wide at the bottom. CT: tôi muốn nói, vài cái bánh Sinh nhật có những cái chóp nhỏ và rộng ở đáy. N
It’s not like that when I get through the tunnel. I see layers … levels of light … they appear to me to be … translucent … indented …Nó không giống như thế khi tôi đi xuyên qua cái đường hầm. Bây giờ tôi thấy những tầng…những cấp độ ánh sáng…chúng hiện ra với tôi…mờ mờ…lồi lõm không đều…
Dr. N: Do you see the spirit world here as made up of a solid structure?TS N: Bạn có thấy thế giới linh hồn ở đây được tạo thành bởi một cấu trúc rắn chắc không?
S: That’s what I’m trying to explain. It’s not solid, although you might think so at first. It’s layered—the levels of light are all woven together in … stratified threads. I don’t want to make it sound like things are not symmetrical—they are. But I see variations in thickness and color refraction in the layers. They also shift back and forth. I always notice this as I travel away from Earth. CT: Đó là cái mà tôi đang cố giải thích. Nó không rắn chắc, mặc dù ban đầu, bạn có thể nghĩ là như vậy. Nó có nhiều tầng – những cấp độ ánh sáng, tất cả đều được bện lại với nhau trong…những sợi xếp thành tầng. Những vật thể có vẻ như không đối xứng, nhưng thực ra, chúng đối xứng. Nhưng tôi thấy những biến thể trong độ dày và khúc xạ màu sắc trong những tầng. Chúng cũng dịch chuyển lui tới. Tôi luôn luôn nhận thấy hiện tượng này trong khi tôi du hành xa khỏi Cõi Trần.
Dr. N: Why do you think this is so?TS N: Tại sao bạn nghĩ nó là như thế?
S: I don’t know. I didn’t design it. CT: Tôi không biết. Tôi không thiết kế nó.
Dr. N: From your description, I picture the spirit world as a huge tier with layers of shaded sections from top to bottom.TS N: Từ sự mô tả của bạn, tôi hình dung thế giới linh hồn như là một bậc thang khổng lồ với những tầng của những khu vực bị che khuất, từ đỉnh tới đáy.
S: Yes, and the sections are rounded—they curve away from me as I float through them. CT: Vâng, và những khu vực đều có hình cầu – chúng di chuyển theo đường cong xa khỏi tôi trong khi tôi trôi bồng bềnh xuyên qua chúng.
Dr. N: From your position of observation, can you tell me about the different colors of the layers?TS N: Từ vị trí quan sát của bạn, bạn có thể nói cho tôi biết về những màu sắc khác nhau của những tầng?
S: I didn’t say the layers had any major color tones. They are all variations of white. It is lighter … brighter where I’m going, than where I have been. Around me now is a hazy whiteness which was much brighter than the tunnel. CT: Tôi không nói rằng những tầng có những gam màu chủ yếu nào. Tất cả chúng đều là những biến thể của màu trắng. Nơi mà tôi đang đi tới thì rực rỡ hơn là nơi mà tôi đã có mặt. Xung quanh tôi bây giờ là một màu trắng mơ hồ, sáng hơn nhiều so với cái đường hầm.
Dr. N: As you float through these spiritual layers, is your soul moving up or down?TS N: Trong khi bạn trôi bồng bềnh, xuyên qua những tầng này, thì linh hồn bạn đang di chuyển lên hay xuống?
S: Neither. I am moving across. CT: Không lên, không xuống. Tôi đang di chuyển theo chiều ngang.
Dr. N: Well, then, do you see the spirit world at this moment in linear dimensions of lines and angles as you move across?TS N: Vậy, bạn thấy thế giới linh hồn vào khoảnh khắc này trong những chiều [kích] tiếp tuyến của những đường vạch [lines] và những góc khi bạn di chuyển theo chiều ngang?
S: (pause) For me it is … mostly sweeping, non-material energy which is broken into layers by light and dark color variations. I think something is … pulling me into my proper level of travel and trying to relax me, too … CT: [im lặng một lát] Đối với tôi, nó chủ yếu là năng lượng phi vật chất, đang lao nhanh, bị vỡ thành những tầng bởi những biến thể về màu sắc và ánh sáng. Tôi nghĩ, một cái gì đó…đang kéo tôi sang mức di chuyển thích hợp của tôi, và đang cố làm cho tôi thư giãn, nữa…
Dr. N: In what way?TS N: Bằng cách nào?
S: I’m hearing sounds. CT: Tôi đang nghe những âm thanh.
Dr. N: What sounds?TS N: Những âm thanh gì vậy?
S: An … echo … of music … musical tingling … wind chimes … vibrating with my movements … so relaxing. CT: Một…vọng âm của âm nhạc…tiếng ù ù du dương… những hồi chuông gió…đang rung động hòa nhịp với những cử động của tôi…quá thư giãn.
Dr. N: Other people have defined these sounds as vibrational in nature, similar to riding on the resonance from the twang of a tuning fork. Do you agree or disagree with this description?TS N: Những người khác đã định nghĩa những âm thanh này như là sự rung động trong thiên nhiên, tương tự như dư âm từ một cái âm thoa.(42) Bạn đồng ý hay bất đồng với sự mô tả này?
S: (nods in assent) Yes, that’s what this is … and I have a memory of scent and taste, too. CT: [gật đầu đồng ý] Vâng, nó là như thế…và tôi có một ký ức về mùi và vị nữa.
Dr. N: Does this mean our physical senses stay with us after death?TS N: Có phải điều này có nghĩa là, những giác quan vật lý của chúng ta vẫn lưu lại với chúng ta sau cái chết?
S: Yes, the memory of them … the waves of musical notes here are so beautiful … bells … strings … such tranquility. CT: Vâng, ký ức về chúng…những làn sóng của những nốt nhạc du dương ở đây thì quá đẹp…những tiếng chuông… những dây đàn …thanh thản quá.
Many spirit world travelers report back to me about the relaxing sensations of musical vibrations.Nhiều kẻ du hành vào thế giới linh hồn tường thuật cho tôi những cảm giác thư giãn, tạo ra bởi những rung động đầy nhạc tính.
Noise sensations start quite early after death. Những cảm giác về tiếng động bắt đầu khá sớm, sau cái chết.
Some subjects tell me they hear humming or buzzing sounds right after leaving their physical bodies. Vài thân chủ kể rằng, họ nghe những tiếng vo vo và ù ù sau khi rời bỏ thân xác vật lý của họ.
This is similar to the noise one hears standing near telephone wires and may vary in volume before souls pull away from what I believe to be the Earth’s astral plane. Cái này tương tự như tiếng ồn mà người ta nghe khi đứng gần đường dây điện thoại, và nó có thể thay đổi âm lượng trước khi những linh hồn trôi xa khỏi vùng trung giới của Cõi Trần.
People have said they hear these same sounds when under general anesthesia. Người ta nói rằng, họ nghe những âm thanh hệt như vậy, khi ở tình trạng được gây mê toàn phần.
These flat, ringing sounds become more musical when we leave the tunnel.Những âm thanh đều đều, ù ù này trở nên du dương khi chúng ta rời đường hầm.
This music has been appropriately called energy of the universe because it revitalizes the soul. Loại “âm nhạc” này đã được gọi một cách thích đáng là năng lượng của vũ trụ, bởi vì nó phục sinh [revitalize] linh hồn.
With subjects who speak about spiritual layering, I mention the possibility that they could be seeing astral planes.Với những chủ thể nói về các tầng tâm linh, tôi đưa ra khả tính rằng, có thể họ đang nhìn thấy những tầng của cõi trung giới.
In metaphysical writing, we read a lot about planes above the Earth. Những tác phẩm siêu hình học nói nhiều về những tầng phía bên trên Cõi Trần.
Beginning with ancient Indian scriptures called the Vedas, followed by later Eastern texts, astral planes have historically represented a series of rising dimensions above the physical or tangible world, which blend into the spiritual. Theo những kinh điển Ấn Độ cổ xưa, gọi là Kinh Vedas, theo sau bởi những kinh điển phương Đông về sau, thì những tầng trung giới bao gồm một loạt những chiều [không gian] ở bên trên thế giới vật lý hay thế giới hữu hình, vốn hòa lẫn vào thế giới linh hồn.
These invisible regions have been experienced by people over thousands of years through meditative, out-of-body observations of the mind. Suốt hàng ngàn năm, những vùng bất khả thị này đã được trải nghiệm bởi nhiều người, thông qua những quan sát của “tâm” trong thiền định, trong trạng thái xuất hồn.
Astral planes also have been described as being less dense as one moves farther away from the heavy influences of Earth. Những tầng trung giới cũng từng được mô tả như là ít dày đặc hơn, trong khi người ta di chuyển xa hơn khỏi những ảnh hưởng nặng nề của Cõi Trần.
Ca kế tiếp trình bày một linh hồn vẫn còn bị nhiễu loạn sau khi băng qua đường hầm tâm linh. Đây là một người ở tuổi 36, chết vì một cơn đau tim trên đường phố Chicago vào năm 1902. Anh ta bỏ lại một gia đình đông con – nhiều đứa con nhỏ và một người vợ mà anh ta yêu tha thiết. Họ rất nghèo.
- Case 5
- Ca 5
Dr. N: Can you see clearly yet as you travel beyond the tunnel?TS N: Anh có thấy rõ ràng khi anh du hành qua bên kia đường hầm?
S: I’m still passing through these … foamy clouds around me. CT: Tôi vẫn đang băng qua những…đám mây giống như bọt xung quanh tôi.
Dr. N: I want you to move all the way through this and tell me what you see now.TS N: Tôi muốn anh di chuyển suốt con đường băng qua cái này và nói cho tôi biết về những gì mà anh thấy bây giờ.
S: (pause) Oh … I’m out of it … my God, this place is big! It’s so bright and clean—it even smells good. I am looking at a beautiful ice palace. CT: [im lặng một lát] Ồ…Tôi đang ở ngoài nó… Chúa ơi, nơi này rất to lớn! Nó quá chói chang và sạch sẽ – thậm chí, nó còn có mùi thơm. Tôi đang nhìn vào một cung điện tráng lệ, xây bằng tuyết.
Dr. N: Tell me more.TS N: Hãy kể thêm.
S: (with amazement) It’s enormous … it looks like bright, sparkling crystal … colored stones shining all around me. CT: [kinh ngạc] Nó to lớn lạ thường…nó giống như thủy tinh rực rỡ, lấp lánh…những hòn đá có màu đang chiếu sáng xung quanh tôi.
Dr. N: When you say crystalline, I think of a clear color.TS N: Khi anh nói giống thủy tinh, tôi nghĩ đến một màu sắc trong suốt.
S: Well, there are mostly grays and white … but as I float along I do see other colors … mosaics … all glittery. CT: Vâng, chủ yếu là những màu xám và trắng… nhưng khi tôi trôi bồng bềnh về phía trước, tôi thực sự thấy những màu khác…khảm vào nhau …tất cả đều lóng lánh.
Dr. N: Look into the distance from within this ice palace—do you see any boundaries anywhere?TS N: Hãy nhìn ra xa, từ bên trong cái cung điện bằng tuyết này – anh có thấy ranh giới nào ở nơi đâu không?
S: No, this space is infinite … so majestic … and peaceful. CT: Không, không gian này thì vô hạn…quá uy nghiêm…và bình yên.
Dr. N: What are you feeling right now?TS N: Anh đang cảm thấy gì ngay bây giờ?
S: I … can’t fully enjoy it … I don’t want to go further … Maggie … (subject’s widow) CT: Tôi…không thể tận hưởng nó một cách trọn vẹn… Tôi không muốn đi xa hơn… Maggie… [người vợ góa của thân chủ].
Dr. N: I can see you are still disturbed about the Chicago life, but does this inhibit your progress into the spirit world?TS N: Tôi có thể thấy rằng, anh vẫn còn bị nhiễu loạn bởi cuộc sống tại Chicago, nhưng điều này có ngăn trở tiến độ của anh vào trong thế giới linh hồn?
S: (subject jerks upright in my office chair) Good! I see my guide coming towards me—she knows what I need. CT: [thân chủ giật nảy người lên trong ghế] Tốt! Tôi thấy vị hướng đạo(43) [guide] của tôi đang đi về phía tôi – bà ấy biết tôi cần cái gì.
Dr. N: Tell me what transpires between you and your guide.TS N: Hãy kể cho tôi về những gì diễn ra giữa anh và vị hướng đạo của anh.
S: I say to her I can’t go on … that I need to know Maggie and the children are going to be okay. CT: Tôi bảo bà ấy rằng, tôi không thể tiếp tục đi …rằng tôi cần biết, liệu Maggie và các con tôi có sẽ ổn không.
Dr. N: And how does your guide respond?TS N: Và vị hướng đạo của anh trả lời như thế nào?
S: She is comforting me—but I’m too loaded down. CT: Bà ấy đang an ủi tôi – nhưng tâm hồn tôi quá nặng trĩu ưu phiền.
Dr. N: What do you say to her?TS N: Anh nói gì với bà ấy?
S: (shouting) I tell her, “Why did you allow this to happen? How could you do this to me? You made me go through such pain and hardship with Maggie and now you cut off our life together.” CT: [quát to] Tôi nói với bà ấy: “Tại sao bà để cho việc này xảy ra? Tại sao bà xử tệ với con như vậy? Bà bắt con trải qua sự đau đớn và gian truân như thế với Maggie, và bây giờ, cắt đứt đời chúng con.”
Dr. N: What does your guide do?TS N: Vị hướng đạo của anh làm gì?
S: She is trying to soothe me. Telling me I did a good job and that I will see my life ran its intended course. CT: Bà ấy đang cố xoa dịu tôi. Bảo tôi rằng, tôi đã làm một công việc tốt và rằng, tôi sẽ thấy đời tôi đi theo cái cái lộ trình đã hoạch định của nó.
Dr. N: Do you accept what she says?TS N: Anh có chấp nhận những gì bà ấy nói không?
S: (pause) In my mind … information comes to me … of the future on Earth … that the family is getting on without me … accepting that I am gone … they are going to make it … and we will all see each other again. CT: [im lặng một lát] Trong tâm trí tôi…thông tin đến với tôi…về cái tương lai ở Cõi Trần…rằng gia đình tôi đang sống bình thường dù không có tôi…chấp nhận rằng, tôi đã ra đi…họ sắp thích nghi với tình huống mới…và chúng tôi, tất cả, sẽ gặp lại nhau.
Dr. N: And how does this make you feel?TS N: Và điều này khiến cho anh cảm thấy thế nào?
S: I feel … peace … (with a sigh) … I am ready to go on now. CT: Tôi cảm thấy…bình an [thở dài] … Bây giờ, tôi sẵn sàng tiếp tục đi.
Before touching on the significance of Case 5 meeting his guide here, I want to mention this man’s interpretation of the spirit world appearing as an ice palace.Trước khi nói đến ý nghĩa của việc [chủ thể] ca 5 gặp vị hướng đạo của anh ta ở đây, tôi muốn nói đến việc xuất hiện của một cung điện bằng tuyết [trong thế giới linh hồn].
Further into the spirit world, my subjects will talk about seeing buildings and being in furnished rooms. Đi xa hơn vào thế giới linh hồn, những thân chủ của tôi thường nói về việc thấy những tòa nhà và ở trong những căn phòng có đồ đạc.
The state of hypnosis by itself does not create these images. Trạng thái bị thôi miên, chỉ một mình nó, không tạo ra những hình ảnh này.
Logically, people should not be recalling such physical structures in a non-material world unless we consider these scenes of Earth’s natural environment are intended to aid in the soul’s transition and adjustment from a physical death. Một cách logic, trong một thế giới phi vật chất, người ta sẽ không hồi tưởng lại những cấu trúc vật lý như thế. Rất có thể, môi trường tự nhiên của Cõi Trần xuất hiện – do ý muốn của “ai đó” – nhằm trợ giúp sự chuyển tiếp và thích nghi của linh hồn sau một cái chết vật lý.
These sights have individual meaning for every soul communicating with me, all of whom are affected by their Earth experiences. Những cảnh này có ý nghĩa cá nhân đối với mọi linh hồn truyền thông với tôi – tất cả trong số chúng, đều bị tác động bởi những kinh nghiệm của chúng ở Cõi Trần.
When the soul sees images in the spirit world which relate to places they have lived or visited on Earth, there is a reason.Trong thế giới linh hồn, không phải ngẫu nhiên mà một linh hồn thấy những hình ảnh vốn có quan hệ với những nơi chốn mà nó đã sống và viếng thăm ở Cõi Trần.
An unforgotten home, school, garden, mountain, or seashore are seen by souls because a benevolent spiritual force allows for terrestrial mirages to comfort us by their familiarity. Những linh hồn có thể thấy một ngôi trường, khu vườn, núi, hay bờ biển, bởi vì một lực tâm linh nhân từ khiến cho những hình ảnh Cõi Trần hiện ra, để an ủi chúng ta bằng sự quen thuộc của chúng.(44)
Our planetary memories never die—they whisper forever into the soul-mind on the winds of mythical dreams just as images of the spirit world do so within the human mind. Những ký ức về địa cầu [Cõi Trần] của chúng ta không bao giờ chết – chúng thì thầm mãi mãi trong “linh hồn” (45) [soul-mind] của những thực thể trong thế giới linh hồn trên những ngọn gió của những giấc mơ huyền thoại, hệt như những hình ảnh của thế giới linh hồn vẫn thì thầm bên trong “tâm trí” con người [human mind] ở Cõi Trần.
I enjoy hearing from subjects about their first images of the spirit world.Tôi thích nghe những thân chủ nói về những hình ảnh đầu tiên mà họ thấy, khi mới bước vào thế giới linh hồn.
People may see fields of wildflowers, castle towers rising in the distance, or rainbows under an open sky when returning to this place of adoration after an absence. Người ta có thể thấy những cánh đồng hoa dại, những tòa tháp lâu đài hiện lên ở đằng xa, hay những cầu vồng dưới một bầu trời mở rộng khi trở lại nơi này, mà họ yêu mến, sau một thời gian vắng mặt.
These first ethereal Earth scenes of the spirit world don’t seem to change a great deal over a span of lives for the returning soul, although there is variety between client descriptions. Đối với một linh hồn “đang trở lại” [thế giới linh hồn], thì những cảnh đầu tiên giống với những cảnh Cõi Trần mà nó thấy, có vẻ như không thay đổi nhiều qua một giai đoạn ngắn [span] của những kiếp sống, mặc dù mỗi thân chủ đều mô tả một cách khác nhau.
I find that once a subject in trance continues further into the spirit world to describe the functional aspects of spiritual life, their comments become more uniform. Tôi phát hiện rằng, một khi thân chủ [trong trạng thái bị thôi miên] tiếp tục tiến xa hơn vào trong thế giới linh hồn – để mô tả những khía cạnh có tính chức năng của cuộc sống linh hồn – thì những bình luận của họ trở nên giống nhau hơn.
The case I have just reviewed could be described as a fairly unsettled spirit bonded closely to his soulmate, Maggie, who was left behind.Cái ca mà tôi vừa mới duyệt lại, có thể được mô tả như là một linh hồn khá bất ổn, gắn bó một cách thắm thiết với bạn linh hồn [soulmate] của anh ta, Maggie, bị bỏ lại đằng sau.
There is no question that some souls do carry the negative baggage of a difficult past life longer than others, despite the calming influences of the spirit world. Không nghi ngờ gì rằng, vài linh hồn thực sự mang hành lý tiêu cực của một kiếp quá khứ lâu hơn những linh hồn khác, mặc dù trong thế giới linh hồn, chúng được xoa dịu bởi nhiều nguồn trợ lực.
People tend to think all souls become omniscient at death. Người ta có khuynh hướng nghĩ rằng, khi thân xác vật lý chết đi, thì mọi linh hồn đều trở thành toàn trí [omniscent].
This is not completely true because adjustment periods vary. Điều này không hoàn toàn đúng, bởi vì những giai đoạn thích nghi đều khác nhau.
The time of soul adjustment depends upon the circumstances of death, attachments of each soul to the memories of the life just ended, and level of advancement. Thời gian thích nghi của linh hồn tùy thuộc vào hoàn cảnh chết, sự luyến chấp của linh hồn vào những ký ức của kiếp sống vừa kết thúc, và mức độ tiến hóa của nó.
I frequently hear anger during age-regression when a young life ends suddenly.Trong suốt quá trình [thân chủ] lùi về quá khứ, tôi thường xuyên chứng kiến sự giận dữ, khi đời một người trẻ chấm dứt một cách đột ngột.
Souls reentering the spirit world under these conditions are often bewildered and confused over leaving people they love without much warning. Những linh hồn bước trở lại vào trong thế giới linh hồn dưới những điều kiện này, thường bị ngỡ ngàng và bối rối vì phải rời bỏ những người họ yêu mến mà không báo trước.
They are unprepared for death and some feel sad and deprived right after leaving their bodies. Họ không được chuẩn bị cho cái chết, và một vài linh hồn cảm thấy buồn và mất mát ngay sau khi rời bỏ thể xác mình.
If a soul has been traumatized by unfinished business, usually the first entity it sees right after death is its guide.Nếu một linh hồn bị chấn thương tâm lý và chưa hoàn tất công việc của mình, thì thực thể mà nó thường thấy ngay sau cái chết, là vị hướng đạo của nó.
These highly developed spiritual teachers are prepared to take the initial brunt of a soul’s frustration following an untimely death. Những vị thầy tâm linh tiến hóa cao này chuẩn bị để loại bỏ cường độ phẫn chí ban đầu của một linh hồn, theo sau một cái chết không đúng lúc.
Case 5 will eventually make a healthy adjustment to the spirit world by allowing his guide to assist him during the balance of his incoming trip. Sau cùng, chủ thể ca 5 sẽ làm một sự thích nghi lành mạnh với thế giới linh hồn, bằng cách cho phép vị hướng đạo trợ giúp anh ta tìm lại thế quân bình của chuyến đi vào trong thế giới linh hồn.
However, I have found our guides do not encourage the complete working out of thought disorders at the spiritual gateway.Tuy nhiên, tôi đã phát hiện rằng, tại cánh cổng của thế giới linh hồn, thì những vị hướng đạo không động viên việc giải quyết trọn vẹn mọi nhiễu loạn về tư tưởng.
There are more appropriate times and places for detailed reviews about karmic learning lessons involving life and death, which I will describe later. Có thêm nhiều thời gian và những nơi chốn thích hợp để [linh hồn] ôn lại một cách chi tiết những bài học về nghiệp báo – bao gồm sinh và tử, mà tôi sẽ mô tả sau này.
The guide in Case 5 offered a brief visualization of accelerated Earth time as a means of soothing this man about the future of his wife and children so he could continue on his journey with more acceptance. Vị hướng đạo trong ca 5 cho ta một hình dung ngắn gọn về thời gian tăng tốc của Cõi Trần như là một phương tiện để xoa dịu người đàn ông này về tương lai của vợ và các con anh ta, để anh ta có thể tiếp tục cuộc hành trình của mình với nhiều sự chấp nhận hơn.
Regardless of their state of mind right after death, my subjects are full of exclamations about rediscovered marvels of the spirit world.Bất luận trạng thái “tâm hồn” của họ ra sao ngay sau khi chết, thì những thân chủ của tôi đều xuýt xoa kinh ngạc về những cái kỳ diệu được thu hồi lại(46) của thế giới linh hồn.
Usually, this feeling is combined with euphoria that all their worldly cares have been left behind, especially physical pain. Thường khi, cảm nhận này được kết hợp với niềm hân hoan tột cùng – khi thấy rằng, tất cả những lo lắng trần thế của họ đã được bỏ lại đằng sau, nhất là sự đau đớn thể xác.
Above all else, the spirit world represents a place of supreme quiescence to the traveling soul. Trên mọi thứ khác, thế giới linh hồn đại diện cho một nơi chốn của sự yên tĩnh tối cao [supreme quiescence] đối với linh hồn đang du hành.
Although it may at first appear we are alone immediately following death, we are not isolated or unaided. Mặc dù, ban đầu có vẻ như chúng ta đơn độc ngay sau cái chết, nhưng chúng ta không bị cô lập hay hoàn toàn bơ vơ.
Unseen intelligent energy forces guide each of us through the gate. Những lực thông minh, ở dạng năng lượng, hướng dẫn chúng ta đi xuyên qua cánh cổng.
New arrivals in the spirit world have little time to float around wondering where they are or what is going to happen to them next.Những linh hồn mới đi vào trong thế giới linh hồn có ít thời gian để trôi bồng bềnh chỗ này chỗ kia, tự hỏi chúng đang ở đâu và cái gì sẽ xảy ra tiếp theo với chúng.
Our guides and a number of soulmates and friends wait for us close to the gateway to provide recognition, affection, and the assurance we are all right. Những vị hướng đạo của chúng ta và một số những “bạn linh hồn” [soul mate] và bạn hữu đợi chúng ta ở kề sát cổng vào để chào đón chúng ta, bày tỏ lòng cảm mến, và để trấn an rằng, mọi sự sẽ ổn, không sao cả.
Actually, we feel their presence from the moment of death because much of our initial readjustment depends upon the influence of these kindly entities toward our returning soul. Thực ra, chúng ta cảm thấy sự hiện diện của họ từ khoảnh khắc chết, bởi vì sự tái thích nghi của [linh hồn] chúng ta tùy thuộc nhiều vào cái ảnh hưởng của những thực thể từ ái này.