CHƯƠNG KẾT LUẬN

ConclusionCHƯƠNG KẾT LUẬN
THE information contained in this book about the existence of souls after physical death represents the most meaningful explanation I have found in my life as to why we are here.Thông tin chứa đựng trong cuốn sách này – về sự hiện hữu của linh hồn sau cái chết vật lý – đưa ra lời giải thích có ý nghĩa nhất mà tôi đã tìm thấy trong đời tôi, về việc tại sao chúng ta có mặt ở đây, ở Cõi Trần này.
All my years of searching to discover the purpose of life hardly prepared me for that moment when a subject in hypnosis finally opened the door to an eternal world. Tất cả những năm tìm kiếm của tôi, để khám phá mục đích của cuộc đời, hầu như không cho tôi sự chuẩn bị tâm lý cần thiết, để không bị bất ngờ, vào cái khoảnh khắc khi mà một chủ thể trong cơn thôi miên, sau cùng, mở [cho tôi] cánh cửa vào một thế giới vĩnh hằng.
My oldest friend is a Catholic priest today. Người bạn lâu năm nhất của tôi, hôm nay là một linh mục Công giáo.
As boys walking together in the hills and along the beaches of Los Angeles we had many philosophical discussions, but were miles apart in our spiritual beliefs. Khi còn bé, đi dạo cùng nhau trên những ngọn đồi và dọc theo những bãi biển của Los Angeles, chúng tôi đã có nhiều thảo luận triết học, song những niềm tin tâm linh của chúng tôi vẫn cách xa nghìn trùng.
He once told me, “I think it must take courage for you to be an atheist and believe in nothing beyond this life.” Một lần ông bảo tôi: “Tôi nghĩ, anh cần phải có lòng can đảm để là một kẻ vô thần, không tin bất cứ cái gì ở bên kia kiếp sống này.”
I didn’t see it that way at the time, nor for many years afterward.Vào thời điểm đó, tôi không thấy vấn đề theo cách đó, và nhiều năm về sau, cũng vậy.
Starting at age five, I had been sent by my parents to military-type boarding schools for long periods. Từ lúc 5 tuổi, bố mẹ tôi đã gửi tôi vào những trường nội trú có kỷ luật kiểu quân sự, trong những giai đoạn dài.
The feelings of abandonment and loneliness were so great I believed in no higher power than myself. Những cảm giác bị bỏ rơi và cô đơn là quá lớn, đến nỗi tôi không tin vào quyền lực nào cao hơn chính mình.
I now realize strength was given to me in subtle ways I was unable to see. Bây giờ, tôi nhận thức rằng, sức mạnh đã được ban cho tôi trong những cách thức tế nhị mà tôi không thể thấy.
My friend and I still have different approaches to spirituality, but we both have convictions today that order and purpose in the universe emanate from a higher consciousness.Bạn tôi và tôi vẫn có những cách tiếp cận khác nhau với thế giới tâm linh [spirituality], nhưng ngày nay, cả hai chúng tôi đều có những xác tín rằng, trật tự và mục đích trong vũ trụ phát xuất từ một “ý thức cao hơn.(170)
Looking back, I suppose it was no accident in my own life that people would eventually come to me for hypnosis—a medium of truth I could believe in—to tell me about guides, heavenly gateways, spiritual study groups, and creation itself in a world of souls.Nhìn lại đằng sau, tôi cho rằng, không phải ngẫu nhiên, mà sau cùng, trong đời tôi, người ta đến với tôi để trải qua phiên thôi miên – một phương tiện để phơi bày chân lý mà tôi có thể tin vào – để nói cho tôi về những vị hướng đạo, những cánh cổng thiên đường, những nhóm học tập tâm linh, và sự sáng tạo, chính nó, trong một thế giới của linh hồn.
Even now, I sometimes feel like an intruder in the minds of those who describe the spirit world and their place in it, but their knowledge has given me direction. Ngay cả bây giờ, đôi khi tôi cảm thấy mình là một “kẻ đột nhập” [intruder] vào trong tâm trí của những chủ thể – họ mô tả thế giới linh hồn và cái nơi chốn của họ trong đó – nhưng kiến thức của họ đã cho tôi hướng đi.
Still, I wonder why I am the messenger for the spiritual knowledge contained in this book, when someone with less original cynicism and doubt would surely have been much better suited. Tuy nhiên, tôi tự hỏi, tại sao tôi là sứ giả cho kiến thức tâm linh chứa đựng trong cuốn sách này, khi mà lẽ ra, một ai đó [có niềm tin tôn giáo] – một kẻ mà trong bản chất, có ít sự ngờ vực và sự khinh bạc [cynicism] hơn – chắc hẳn sẽ phù hợp hơn rất nhiều.(171)
Actually, it is the people represented in these cases who are the real messengers of hope for the future, not the reporter.Thực ra, chính những người được trình bày trong những ca này, mới là những sứ giả đích thực của niềm hy vọng cho tương lai, chứ không phải là tôi.
Everything I have learned about who we are and where we come from, I owe to those who were drawn to me for help. Mọi sự mà tôi đã học được – về việc chúng ta là ai, và chúng ta đến từ đâu – tôi mang ơn những người mà do sức hút nào đó, đã đến với tôi xin trợ giúp.
They have taught me that a major aspect of our mission on Earth as souls is to mentally survive being cut off from our real home. Họ đã dạy tôi rằng, một khía cạnh chủ yếu trong sứ mệnh của chúng ta ở Cõi Trần, với tư cách là linh hồn, là vượt qua, về mặt tâm linh, tình trạng bị chia cắt khỏi ngôi nhà đích thực của chúng ta.
While in a human body, the soul is essentially alone.Trong khi ở trong một cơ thể người, thì trong yếu tính, linh hồn ta cô độc.
A soul’s relative isolation on Earth during a temporary physical life is made more difficult on a conscious level by thoughts that nothing exists beyond this life. Sự cô lập tương đối của một linh hồn ở Cõi Trần, trong một kiếp sống vật lý tạm bợ, tạo ra sự bất an. Cảm giác bất an trở nên càng khó chịu đựng hơn, trên một cấp độ hữu thức, do ý tưởng rằng, không có gì hiện hữu bên kia kiếp sống này.
Our doubts tempt us into finding attachments solely in a physical world we can see. Những ngờ vực của chúng ta khuyến dụ chúng ta chỉ tìm kiếm những mối gắn bó trong một thế giới vật lý mà chúng ta có thể thấy.
The scientific knowledge that Earth is only a grain of sand at the edge of a galactic shoreline within a vast sea in the universe adds to our feelings of insignificance.Kiến thức khoa học – rằng Trái Đất chỉ là một hạt cát, tại mép của một dải đất ven bờ của Ngân hà, bên trong một đại dương bao la trong vũ trụ – càng gia tăng những cảm giác của chúng ta về sự nhỏ bé, vô giá trị của hiện hữu mình.
Why is no other living thing on Earth concerned with life after death? Is this simply because our inflated egos hate to think of life as only temporary, or is it because our being is associated with a higher power? People argue that any thoughts of a hereafter are wishful thinking.Tại sao không có sinh vật nào khác ở Cõi Trần quan ngại về sự sống sau cái chết? Có phải chỉ vì cái tự ngã [ego] phình to của chúng ta không ưa nghĩ rằng cuộc sống chỉ là tạm bợ, hay phải chăng, bởi vì chúng ta được kết nối với một quyền lực cao hơn? Người ta biện luận rằng, bất cứ ý tưởng nào về một “thế giới linh hồn”, đều xuất phát từ một mong ước hão huyền.
I used to do so myself. Trước đây, tôi vẫn thường nghĩ thế.
However, there is logic to the concept we were not created by accident for mere survival, and that we do operate within a universal system which directs the physical transformation of Self for a reason. Tuy nhiên, có logic trong khái niệm rằng, chúng ta không được sáng tạo ra một cách ngẫu nhiên, chỉ để tồn tại, và rằng, chúng ta thực sự vận hành bên trong một hệ thống đại đồng, vốn chỉ đạo sự chuyển hóa vật lý của Bản Ngã, vì một lý do.
I believe it is the voice of our souls, which tell us we do have personhood that is not intended to die. Tôi tin rằng, chính giọng nói của linh hồn chúng ta nói cho chúng ta biết, chúng ta thực sự có “bản vị cá nhân” [personhood], vốn được tạo dựng nên vì một mục đích nào đó, chứ không phải chỉ để rồi chết đi.
All the accounts of life after death in my case files have no scientific foundation to prove the statements of these subjects.Tất cả những bản tường thuật về sự sống sau cái chết trong những hồ sơ của tôi, đều không có cơ sở khoa học để chứng minh những phát biểu của những chủ thể này.
To those readers who find the material offered in this book too unprecedented to accept, I would hope for one thing. Đối với những bạn đọc nào nhận thấy rằng, cái tài liệu được trình bày trong cuốn sách này là quá lạ lẫm, chưa hề nghe nói đến – và do vậy, rất khó mà chấp nhận – thì tôi chỉ hy vọng một điều:
If you carry away nothing except the idea you may have a permanent identity worth finding, I will have accomplished a great deal.Sau khi đọc cuốn sách này, nếu bạn không thu nhận được cái gì, ngoại trừ ý tưởng rằng, bạn có thể có một “bản sắc” [identity] vĩnh hằng xứng đáng được tìm thấy lại, thì tôi đã thành tựu được rất nhiều.
One of the most troublesome concerns of all people who want to believe in something higher than themselves is the causality of so much negativity in the world.Một trong những mối băn khoăn lớn nhất của tất cả những người muốn tin vào một cái gì đó cao hơn chính họ, là tại sao có quá nhiều sự tiêu cực trên thế gian này.
Evil is given as the primary example. Sự ác được nêu ra như là thí dụ hàng đầu.
When I ask my subjects how a loving God could permit suffering, surprisingly there are few variations in their responses. Khi tôi hỏi những chủ thể của tôi, làm thế nào mà một vị Thượng đế nhân từ, có thể cho phép sự đau khổ, thì thật ngạc nhiên, những câu trả lời của họ không mấy khác nhau.
My cases report our souls are born of a creator which places a totally peaceful state deliberately out of reach so we will strive harder.Những chủ thể tường thuật rằng, linh hồn chúng ta được sinh ra từ một “kẻ tạo dựng,” [creator] và thực thể ấy cố ý đặt trạng thái bình yên ở ngoài tầm tay chúng ta, để cho chúng ta sẽ phấn đấu tích cực hơn.
We learn from wrongdoing. Chúng ta học hỏi từ hành vi sai lầm.
The absence of good traits exposes the ultimate flaws in our nature. Sự vắng mặt của những nét thiện lành trong mỗi cá nhân, phát lộ những khiếm khuyết nền tảng trong bản chất chúng ta.
That which is not good is testing us, otherwise we would have no motivation to better the world through ourselves, and no way to measure advancement. Những gì không tốt, là những cái đang trắc nghiệm chúng ta; bởi vì nếu không thế, thì chúng ta sẽ không có động lực để cải thiện thế giới thông qua chính mình, và không có cách nào để đo lường sự tiến bộ.
When I ask my subjects about the alternating merciful and wrathful qualities we perceive to be the self-expression of a teacher-oversoul, some of them say the creator only shows certain attributes to us for specific ends. Khi tôi hỏi những chủ thể về những tính chất nhân từ và sự giận dữ luân phiên nhau – mà chúng ta tri giác như là sự tự biểu hiện của một vị thầy-linh hồn tối cao [teacher-oversoul] – thì vài người trong số họ nói rằng, “kẻ tạo dựng” chỉ phô bày những thuộc tính nào đó cho chúng ta, vì những mục đích cụ thể nào đó.
For instance, if we equate evil with justice and mercy with goodness and if God allowed us only to know mercy, there would be no state of justice.Thí dụ, nếu chúng ta đánh đồng [equate] cái ác với sự công bằng, và lòng thương xót với sự thiện – và nếu Thượng đế cho phép chúng ta chỉ biết lòng thương xót – thì sẽ không có tình trạng công bằng.
This book presents a theme of order and wisdom rising from many spiritual energy levels.Cuốn sách này trình bày một chủ đề của trật tự và sự minh triết xuất phát từ nhiều mức độ năng lượng tâm linh khác nhau.
In a remarkable underlying message, particularly from advanced subjects, the possibility is held out that the God-oversoul of our universe is on a less-than-perfect level. Trong một thông điệp nền tảng, đáng chú ý – nhất là từ những chủ thể tiến hóa cao – thì có khả tính rằng, Thượng đế-linh hồn tối cao của vũ trụ chúng ta, ở một cấp độ chưa hoàn hảo.
Thus, complete infallibility is deferred to an even higher divine source. (172) Như thế, sự không thể sai lầm toàn triệt, chỉ có thể có ở một nguồn cội thiêng liêng cao hơn.
From my work I have come to believe that we live in an imperfect world by design.Từ công việc của tôi, tôi đã đi tới chỗ tin rằng, chúng ta sống trong một thế giới bất toàn, không phải là ngẫu nhiên, mà do thiết kế(173) [by design].
Earth is one of countless worlds with intelligent beings, each with its own set of imperfections to bring into harmony. Trái Đất chỉ là một trong vô số những thế giới với những hữu thể có trí thông minh [intelligent beings], mỗi thế giới có chuỗi bất toàn của chính nó, cần phải được đưa vào sự hòa điệu.
Extending this thought further, we might exist as one single dimensional universe out of many, each having its own creator governing at a different level of proficiency in levels similar to the progression of souls seen in this book. Khai triển ý tưởng này xa hơn, có thể chúng ta hiện hữu trong một vũ trụ có chiều kích,(174) trong số nhiều vũ trụ – mỗi vũ trụ có “kẻ tạo dựng” của riêng nó, cai quản ở một mức năng lực khác nhau, trong những cấp độ [phát triển] tương tự như sự phát triển của những linh hồn được nhìn thấy trong cuốn sách này.
Under this pantheon, the divine being of our particular house would be allowed to govern in His, Her, or Its own way. Dưới cái ngôi đền [pantheon] này, hữu thể thiêng liêng của ngôi nhà đặc thù của chúng ta, sẽ được phép cai quản trong cách riêng của “Ông ấy,” “Bà ấy,” hay “Nó.”(175)
If the souls who go to planets in our universe are the offspring of a parent oversoul who is made wiser by our struggle, then could we have a more divine grandparent who is the absolute God? The concept that our immediate God is still evolving as we are takes nothing away from an ultimate source of perfection who spawned our God.Nếu những linh hồn đến những hành tinh trong vũ trụ chúng ta – và được làm cho khôn ngoan hơn bởi sự tranh đấu của chúng ta – là những hậu duệ của của một đại hồn “bố/mẹ” [parent oversoul], thì, phải chăng chúng ta có thể có một ông/bà thiêng liêng [divine grandparent], vốn là vị Thượng đế tuyệt đối? (176) Khái niệm rằng, vị Thượng đế mà trực tiếp “tạo dựng” ra chúng ta, thì vẫn đang tiến hóa [evolving] như chúng ta đang tiến hóa(177) – khái niệm đó không lấy mất cái gì từ một nguồn cội tối hậu của sự hoàn hảo, vốn “đẻ ra” [spawned] Thượng đế của chúng ta.
To my mind, a supreme, perfect God would not lose omnipotence or total control over all creation by allowing for the maturation of less-than-perfect superior offspring.Theo ý tôi, một vị Thượng đế tối cao, hoàn thiện, sẽ không đánh mất sự toàn năng, hay sự kiểm soát toàn diện trên mọi sự tạo dựng, bằng cách cho phép sự trưởng thành [maturation] của những hậu duệ “bề trên” [superior] bất toàn.
These lesser gods could be allowed to create their own imperfect worlds as a final means of edification so they might join with the ultimate God. Những vị thần có đẳng cấp thấp hơn này có thể được phép sáng tạo ra những thế giới bất toàn của chính họ, như một phương tiện sau cùng của sự khai trí [edification], để họ có thể hợp nhất với vị Thượng đế tối cao.
The reflected aspects of divine intervention in this universe must remain as our ultimate reality.Sự can thiệp thiêng liêng trong vũ trụ này – được phản ánh trong nhiều biểu hiện khác nhau – vẫn khởi nguồn từ thực tại tối cao của chúng ta.
If our God is not the best there is because of the use of pain as a teaching tool, then we must accept this as the best we have and still take the reasons for our existence as a divine gift. Nếu Thượng đế của chúng ta không phải là vị Thượng đế tốt nhất – bởi vì vị ấy sử dụng sự đau đớn như là một dụng cụ giảng dạy – thì chúng ta phải chấp nhận vị này như là vị Thượng đế tốt nhất mà chúng ta có, và vẫn xem sự hiện hữu của chúng ta như là một món quà thiêng liêng.
Certainly this idea is not easy to convey to someone who is physically suffering, for example, from a terminal illness.Chắc chắn, không dễ truyền đạt ý kiến này tới một ai đó đang đau khổ về thể xác, chẳng hạn, vì một bệnh nan y.
Pain in life is especially insidious because it can block the healing power of our souls, especially if we have not accepted what is happening to us as a preordained trial. Sự đau đớn trong đời có tác hại ngầm, bởi vì nó có thể ngăn chặn cái sức mạnh chữa trị của linh hồn chúng ta – nhất là nếu chúng ta không chấp nhận những gì đang xảy ra cho mình như là một thử thách tiền định.
Yet, throughout life, our karma is designed so that each trial will not be too great for us to endure. Thế nhưng, suốt cuộc đời, nghiệp [karma] của chúng ta được thiết kế, sao cho mỗi thử thách sẽ không quá lớn so với sức chịu đựng của chúng ta.
At a wat temple in the mountains of Northern Thailand, a Buddhist teacher once reminded me of a simple truth. Tại một thiền thất trong vùng núi của miền Bắc Thái Lan, một vị thầy Phật giáo nhắc nhở tôi về một chân lý giản dị.
“Life,” he said, “is offered as a means of self-expression, only giving us what we seek when we listen to the heart.” Ông nói, “Cuộc đời được ban cho như là một phương tiện của sự tự biểu hiện. Và ta chỉ nhận được những gì mà ta tìm kiếm, khi ta lắng nghe trái tim mình.” 
The highest forms of this expression are acts of kindness.Những hình thức cao nhất của sự biểu hiện này, là những hành vi nhân ái.
Our soul may be traveling away from a permanent home, but we are not just tourists. Linh hồn chúng ta có thể đang du hành khỏi một ngôi nhà thường hằng, nhưng chúng ta không chỉ đơn giản là những du khách.
We bear responsibility in the evolution of a higher consciousness for ourselves and others in life. Trong cuộc tiến hóa của một “ý thức cao hơn,” chúng ta có trách nhiệm đối với chính mình và những người khác trong đời.
Thus, our journey is a collective one. Như thế, cuộc hành trình của chúng ta là một hành trình tập thể.
We are divine but imperfect beings who exist in two worlds, material and spiritual. Chúng ta là những hữu thể có thần-tính, nhưng bất toàn, hiện hữu trong 2 thế giới, vật chất và tâm linh.
It is our destiny to shuttle back and forth between these universes through space and time while we learn to master ourselves and acquire knowledge. Số phận của chúng ta là di chuyển như con thoi, lui tới giữa những vũ trụ này xuyên qua không gian và thời gian, trong khi chúng ta học cách làm chủ bản thân và thủ đắc kiến thức.
We must trust in this process with patience and determination. Chúng ta phải tin tưởng vào quá trình này với lòng kiên nhẫn và sự quyết tâm.
Our essence is not fully knowable in most physical hosts, but Self is never lost because we always remain connected to both worlds. Trong phần lớn những cơ thể chủ, thì cái yếu tính của chúng ta không thể được nhận biết một cách đầy đủ, nhưng “Bản Ngã” [Self](178) không bao giờ bị đánh mất, bởi vì chúng ta luôn được kết nối với cả 2 thế giới.
Perhaps the most gratifying feature of my work in uncovering the existence of a spirit world in the minds of my subjects is the effect this conscious knowledge has on them.Có lẽ, cái làm tôi thỏa mãn nhất trong công việc của mình – việc khám phá sự hiện hữu của một thế giới linh hồn trong tâm trí của những chủ thể của tôi – là cái tác dụng [effect] mà kiến thức hữu thức này mang đến cho họ.
The most significant benefit which comes from knowing we have a home of everlasting love waiting for us, is being receptive to the higher spiritual power within our minds. Cái lợi lạc có ý nghĩa nhất – đến từ việc biết rằng chúng ta có một ngôi nhà của tình yêu vĩnh hằng, đang đợi chúng ta – là khả năng thụ cảm nhạy bén hơn, để tiếp cận cái sức mạnh tâm linh cao hơn, bên trong tâm trí chúng ta.
The awareness that we do belong somewhere is reassuring and offers us peace, not merely as a haven from conflict, but to unify ourselves with a universal mind. Sự nhận biết rằng, chúng ta thực sự thuộc về một nơi nào đó, cung hiến cho chúng ta sự an tâm và sự bình an. Nó không chỉ là một bến đỗ tâm linh mỗi khi đời ta có sự xung đột, mà còn hợp nhất chúng ta với tâm thức đại đồng.
One day we are going to finish this long journey—all of us—and reach an ultimate state of enlightenment, where everything is possible. Một ngày kia, chúng ta sẽ hoàn tất cuộc hành trình dài này – tất cả chúng ta – và đạt tới một trạng thái tối hậu của sự chứng ngộ [enlightenment], nơi mà mọi sự đều có thể.