13. ON HATE

HIỆN TẠI TOÀN BỘ AUDIO SẼ KO THỂ KHÔI PHỤC TỰ ĐỘNG. Mọi người hãy yêu cầu ở đây, ad sẽ ưu tiên xử lý trước.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.

13. ON HATE13. Về hận thù
Question: If I am perfectly honest, I have to admit that I resent, and at times hate, almost everybody.Câu hỏi: Nếu tôi hoàn toàn chân thật, tôi phải thú nhận rằng tôi bực bội, và đôi khi hận thù, hầu như với mọi người.
It makes my life very unhappy and painful. Nó làm cho sống của tôi rất bất hạnh và đau khổ.
I understand intellectually that I am this resentment, this hatred; but I cannot cope with it. Theo trí năng tôi hiểu rõ rằng tôi là bực bội này, hận thù này; nhưng tôi không thể giải quyết được nó.
Can you show me a way? Ông có thể chỉ cho tôi một phương cách hay không?
Krishnamurti: What do we mean by ‘intellectually’?Krishnamurti: Chúng ta có ý gì qua từ ngữ ‘theo trí năng’?
When we say that we understand something intellectually, what do we mean by that? Khi chúng ta nói rằng chúng ta hiểu rõ điều gì đó theo trí năng, chúng ta có ý gì qua câu đó?
Is there such a thing as intellectual understanding? Liệu có một sự việc như hiểu rõ theo trí năng?
Or is it that the mind merely understands the words, because that is our only way of communicating with each other? Hay chính là vì cái trí chỉ hiểu rõ những từ ngữ, bởi vì đó là cách duy nhất để truyền đạt lẫn nhau của chúng ta.
Can we, however, really understand anything merely verbally, mentally? Tuy nhiên, liệu chúng ta có thể thực sự hiểu rõ bất kỳ điều gì chỉ theo từ ngữ, theo trí năng?
That is the first thing we have to be clear about: whether so-called intellectual understanding is not an impediment to understanding. Đó là việc đầu tiên chúng ta phải rõ ràng: liệu hiểu rõ tạm gọi là trí năng là một cản trở cho hiểu rõ.
Surely understanding is integral, not divided, not partial? Chắc chắn hiểu rõ là hoà hợp, không bị phân chia, không từng phần?
Either I understand something or I don’t. Hoặc tôi hiểu rõ điều gì đó hoặc tôi không hiểu rõ.
To say to oneself, “I understand something intellectually”, is surely a barrier to understanding. Khi nói với chính mình, ‘Tôi hiểu rõ điều gì đó theo trí năng’, chắc chắn là một cản trở cho hiểu rõ.
It is a partial process and therefore no understanding at all. Nó là một qui trình từng phần và vì vậy không có hiểu rõ gì cả.
Now the question is this: “How am I, who am resentful, hateful, how am I to be free of, or cope with that problem?Bây giờ câu hỏi là như thế này: ‘Làm thế nào tôi, mà bực bội, căm hận, làm thế nào tôi được tự do khỏi, hay giải quyết được vấn đề đó?
” How do we cope with a problem?’ Chúng ta giải quyết một vấn đề như thế nào?
What is a problem? Một vấn đề là gì?
Surely, a problem is something which is disturbing. Chắc chắn, một vấn đề là cái gì đó đang gây bực bội.
I am resentful, I am hateful; I hate people and it causes pain.Tôi bực bội, tôi căm hận; tôi căm hận mọi người và điều đó gây ra đau khổ.
And I am aware of it. Và tôi nhận biết được nó.
What am I to do? Tôi sẽ phải làm gì đây?
It is a very disturbing factor in my life. Nó là một yếu tố gây xáo trộn trong sống của tôi.
What am I to do, how am I to be really free of it—not just momentarily slough it off but fundamentally be free of it? Tôi phải làm gì, làm thế nào tôi sẽ thực sự được tự do khỏi nó – không chỉ quên bẵng trong chốc lát, nhưng căn bản được tự do khỏi nó?
How am I to do it? Làm thế nào tôi thực hiện được việc đó?
It is a problem to me because it disturbs me.Nó là một vấn đề đối với tôi bởi vì nó gây bực bội cho tôi.
If it were not a disturbing thing, it would not be a problem to me, would it? Nếu nó không là một sự việc gây bực bội, nó sẽ không là một vấn đề đối với tôi, đúng chứ?
Because it causes pain, disturbance, anxiety, because I think it is ugly, I want to get rid of it. Bởi vì nó gây đau khổ, bực bội, lo âu, bởi vì tôi nghĩ điều đó là xấu xa, tôi muốn loại bỏ nó.
Therefore the thing that I am objecting to is the disturbance, isn’t it? Vì vậy cái sự việc mà tôi đang phản kháng là sự bực bội, phải không?
I give it different names at different times, in different moods; one day I call it this and another something else but the desire is, basically, not to be disturbed. Tôi cho nó những cái tên khác nhau vào những thời điểm khác nhau, trong những tâm trạng khác nhau; vào một ngày tôi gọi nó là thế này và vào một ngày khác là cái gì đó nhưng sự ham muốn là, theo cơ bản, không bị bực bội.
Isn’t that it? Đó không là như thế hay sao?
Because pleasure is not disturbing, I accept it. Bởi vì vui thú không gây bực bội, tôi chấp nhận nó.
I don’t want to be free from pleasure, because there is no disturbance—at least, not for the time being, but hate, resentment, are very disturbing factors in my life and I want to get rid of them. Tôi không muốn được tự do khỏi vui thú, bởi vì không có bực bội – ít ra, không phải vào lúc này, nhưng bực bội, hận thù là những nhân tố gây xáo trộn trong sống của tôi và tôi muốn loại bỏ chúng.
My concern is not to be disturbed and I am trying to find a way in which I shall never be disturbed.Quan tâm của tôi không phải là bị bực bội và tôi đang cố gắng tìm ra một cách mà trong đó tôi sẽ không bao giờ bị bực bội.
Why should I not be disturbed? Tại sao tôi không nên bị bực bội?
I must be disturbed, to find out, must I not? Tôi phải bị bực bội, để tìm ra, đúng chứ?
I must go through tremendous upheavals, turmoil, anxiety, to find out, must I not? Tôi phải trải qua những hỗn loạn, khổ sở, lo âu, để tìm ra, đúng chứ?
If I am not disturbed I shall remain asleep and perhaps that is what most of us do want—to be pacified, to be put to sleep, to get away from any disturbance, to find isolation, seclusion, security. Nếu tôi không bị bực bội tôi sẽ vẫn mê muội và có lẽ đó là điều gì hầu hết chúng ta đều muốn – để được thanh thản, để được ngủ quên, để lẩn tránh bất kỳ bực bội nào, để tìm sự tách rời, sự tách biệt, sự riêng tư, sự an toàn.
If I do not mind being disturbed—really, not just superficially, if I don’t mind being disturbed, because I want to find out—then my attitude towards hate, towards resentment, undergoes a change, doesn’t it? Nếu tôi không thèm lưu tâm đến sự bực bội – thực sự, không phải trên bề mặt, nếu tôi không thèm quan tâm đến bị bực bội, bởi vì tôi muốn tìm ra – vậy thì thái độ của tôi đối với hận thù, đối với xáo trộn, trải qua một thay đổi, đúng chứ?
If I do not mind being disturbed, then the name is not important, is it? Nếu tôi không quan tâm bị bực bội, vậy thì cái tên không quan trọng, phải không?
The word ‘hate’ is not important, is it? Từ ngữ ‘hận thù’ không quan trọng, phải không?
Or ‘resentment’ against people is not important, is it? Hay ‘sự bực bội’ với mọi người không quan trọng, phải không?
Because then I am directly experiencing the state which I call resentment without verbalizing that experience. Bởi vì lúc đó tôi đang trải nghiệm trực tiếp trạng thái mà tôi gọi là ‘bực bội’ mà không đặt tên trải nghiệm đó.
Anger is a very disturbing quality, as hate and resentment are; and very few of us experience anger directly without verbalizing it.Tức giận là một phẩm chất rất gây bực bội, giống như hận thù và oán hờn; và rất ít người chúng ta trải nghiệm trực tiếp sự tức giận mà không gọi nó thành từ ngữ.
If we do not verbalize it, if we do not call it anger, surely there is a different experience, is there not? Nếu chúng ta không gọi nó thành từ ngữ, nếu chúng ta không gọi nó là tức giận, chắc chắn phải có một trải nghiệm khác, đúng chứ?
Because we term it, we reduce a new experience or fix it in the terms of the old, whereas, if we do not name it, then there is an experience which is directly understood and this understanding brings about a transformation in that experiencing. Bởi vì chúng ta đặt tên nó, chúng ta làm suy giảm một trải nghiệm mới mẻ, hay cố định nó trong những từ ngữ của cũ kỹ, trái lại, nếu chúng ta không đặt tên nó, vậy thì có một trải nghiệm mà được hiểu rõ trực tiếp và hiểu rõ này tạo ra một thay đổi trong trải nghiệm đó.
Take, for example, meanness.Ví dụ, sự keo kiệt.
Most of us, if we are mean, are unaware of it—mean about money matters, mean about forgiving people, you know, just being mean. Hầu hết chúng ta, nếu chúng ta keo kiệt, đều không ý thức được nó – keo kiệt về những vấn đề tiền bạc, keo kiệt về việc tha thứ mọi người, bạn biết chứ, chỉ là keo kiệt.
I am sure we are familiar with that. Tôi chắc chắn chúng ta đều quen thuộc với điều đó.
Now, being aware of it, how are we going to be free from that quality? Bây giờ, khi tỉnh thức được nó, làm thế nào chúng ta sẽ được tự do khỏi phẩm chất đó?
—not to become generous, that is not the important point. – không phải để trở nên rộng lượng, đó không là điều quan trọng.
To be free from meanness implies generosity, you haven’t got to become generous. Được tự do khỏi keo kiệt hàm ý sự quảng đại, bạn không phải trở thành quảng đại.
Obviously, one must be aware of it. Rõ ràng người ta phải ý thức được nó.
You may be very generous in giving a large donation to your society, to your friends, but awfully mean about giving a bigger tip—you know what I mean by ‘mean’. Bạn có lẽ rất quảng đại khi trao một hiến dâng to tát cho xã hội của bạn, cho bạn bè của bạn, nhưng rất keo kiệt khi cho một món quà lớn hơn – bạn biết tôi có ý gì qua từ ngữ ‘keo kiệt’.
One is unconscious of it. Người ta không nhận biết được nó.
When one becomes aware of it, what happens? Khi người ta trở nên tỉnh thức được nó, điều gì xảy ra?
We exert our will to be generous; we try to overcome it; we discipline ourselves to be generous and so on and so on. Chúng ta sử dụng ý chí của chúng ta để quảng đại; chúng ta cố gắng khuất phục nó; chúng ta kỷ luật chính chúng ta để quảng đại và vân vân và vân vân.
But, after all, the exertion of will to be something is still part of meanness in a larger circle, so if we do not do any of those things but are merely aware of the implications of meanness, without giving it a term, then we will see that there takes place a radical transformation. Nhưng, rốt cuộc, nỗ lực của ý chí để là cái gì đó vẫn còn là bộ phận của sự keo kiệt trong một vòng tròn rộng lớn hơn, vì vậy nếu chúng ta không làm bất kỳ điều gì về những sự việc đó nhưng chỉ tỉnh thức được những hàm ý của keo kiệt, mà không cho nó một cái tên, vậy thì chúng ta sẽ thấy rằng, kia kìa, một thay đổi cơ bản xảy ra.
Please experiment with this.Làm ơn trải nghiệm điều này.
First, one must be disturbed, and it is obvious that most of us do not like to be disturbed. Trước hết, người ta phải bị bực bội, và rõ ràng là hầu hết chúng ta không muốn bị bực bội.
We think we have found a pattern of life—the Master, the belief, whatever it is—and there we settle down. Chúng ta nghĩ chúng ta đã tìm ra một khuôn mẫu của sống – vị Thầy, niềm tin, bất kỳ điều gì – và ở đó chúng ta bình tâm.
It is like having a good bureaucratic job and functioning there for the rest of one’s life. Nó giống như có một công việc văn phòng tốt và vận hành ở đó suốt cuộc đời người ta.
With that same mentality we approach various qualities of which we want to be rid. Với cùng chất lượng tinh thần đó chúng ta tiếp cận những chất lượng khác nhau mà chúng ta muốn loại bỏ.
We do not see the importance of being disturbed, of being inwardly insecure, of not being dependent. Chúng ta không thấy sự quan trọng của bị quấy rầy, của không-an toàn phía bên trong, của không-lệ thuộc.
Surely it is only in insecurity that you discover, that you see, that you understand? Chắc chắn chỉ trong không-an toàn bạn mới phát hiện, bạn mới nhìn thấy, bạn mới hiểu rõ, đúng chứ?
We want to be like a man with plenty of money, at ease; he will not be disturbed; he doesn’t want to be disturbed. Chúng ta muốn giống như con người có nhiều tiền bạc, thoải mái; anh ấy sẽ không bị bực bội; anh ấy không muốn bị bực bội.
Disturbance is essential for understanding and any attempt to find security is a hindrance to understanding.Bực bội là cần thiết cho sự hiểu rõ và bất kỳ gắng sức nào để tìm ra an toàn là một cản trở cho sự hiểu rõ.
When we want to get rid of something which is disturbing, it is surely a hindrance. Khi chúng ta muốn loại bỏ cái gì đó mà đang gây bực bội, nó chắc chắn là một cản trở.
If we can experience a feeling directly, without naming it, I think we shall find a great deal in it; then there is no longer a battle with it, because the experiencer and the thing experienced are one, and that is essential. Nếu chúng ta có thể trải nghiệm trực tiếp một cảm thấy, không đang đặt tên nó, tôi nghĩ chúng ta sẽ tìm được nhiều điều trong nó; vậy thì không còn một trận chiến với nó, bởi vì người trải nghiệm và vật được trải nghiệm là một, và đó là cốt lõi.
So long as the experiencer verbalizes the feeling, the experience, he separates himself from it and acts upon it; such action is an artificial, illusory action. Chừng nào người trải nghiệm còn đặt tên cảm thấy, vật được trải nghiệm, anh ấy tách rời chính anh ấy khỏi nó và hành động vào nó; hành động như thế là một hành động ảo tưởng, giả tạo.
But if there is no verbalization, then the experiencer and the thing experienced are one. Nhưng nếu không có đặt tên, vậy thì người trải nghiệm và vật được trải nghiệm là một.
That integration is necessary and has to be radically faced. Sự hòa hợp đó là cần thiết và phải được triệt để đối diện.