CHAPTER XXI. POWER AND REALIZATION

HIỆN TẠI TOÀN BỘ AUDIO SẼ KO THỂ KHÔI PHỤC TỰ ĐỘNG. Mọi người hãy yêu cầu ở đây, ad sẽ ưu tiên xử lý trước.
Nâng cấp VIP để xem các trang bị khóa.

CHAPTER XXI
Chương XXI
POWER AND REALIZATION
QUYỀN LỰC VÀ NHẬN BIẾT
WE SEE THAT A radical change is necessary in society, in ourselves, in our individual and group relationships; how is it to be brought about?Chúng ta thấy rằng một thay đổi cơ bản là cần thiết trong xã hội, trong chính chúng ta, trong những liên hệ giữa nhóm người và cá thể của chúng ta; làm thế nào điều này được tạo ra?
If change is through conformity to a pattern projected by the mind, through a reasonable, well studied plan, then it is still within the field of the mind; therefore whatever the mind calculates becomes the end, the vision for which we are willing to sacrifice ourselves and others. Nếu thay đổi qua sự tuân phục vào một khuôn mẫu được chiếu rọi bởi cái trí, qua một kế hoạch hợp lý được nghiên cứu kỹ càng, vậy thì nó vẫn còn trong lãnh vực của cái trí; vì vậy bất kỳ điều gì cái trí tính toán đều trở thành sự kết thúc, một tầm nhìn mà chúng ta sẵn sàng hy sinh chính chúng ta và những người khác.
If you maintain that, then it follows that we as human beings are merely the creation of the mind, which implies conformity, compulsion, brutality, dictatorships, concentration camps—the whole business. Nếu chúng ta duy trì điều đó, vậy thì điều tiếp theo là, chúng ta, như những con người chỉ là sự tạo tác của cái trí, mà hàm ý tuân phục, cưỡng bách, hung bạo, những độc tài, những trại tập trung – toàn công việc đó.
When we worship the mind, all that is implied, is it not? Khi chúng ta tôn sùng cái trí, tất cả điều đó được hàm ý, đúng chứ?
If I realize this, if I see the futility of discipline, of control, if I see that the various forms of suppression only strengthen the ‘me’ and the ‘mine’, then what am I to do? Nếu tôi nhận ra điều này, nếu tôi thấy sự vô lý của kỷ luật, của kiểm soát, nếu tôi thấy rằng những hình thức khác nhau của kiềm chế chỉ củng cố ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’, vậy thì tôi sẽ phải làm gì đây?
To consider this problem fully we must go into the question of what is consciousness.Muốn suy xét vấn đề này đầy đủ chúng ta phải tìm hiểu câu hỏi ý thức là gì.
I wonder if you have thought about it for yourself or have merely quoted what authorities have said about consciousness? Tôi không biết liệu bạn đã suy nghĩ về ý thức là gì cho chính bạn hay chỉ trích dẫn những uy quyền đã giải thích về nó?
I do not know how you have understood from your own experience, from your own study of yourself, what this consciousness implies—not only the consciousness of everyday activity and pursuits but the consciousness that is hidden, deeper, richer and much more difficult to get at. Tôi không biết liệu bạn đã hiểu rõ từ trải nghiệm riêng của bạn, từ sự tìm hiểu riêng của chính bạn, ý thức này hàm ý điều gì – không chỉ ý thức của những theo đuổi và mọi hoạt động hàng ngày nhưng còn cả ý thức che giấu, sâu thẳm hơn, phong phú hơn và nhiều khó khăn để nắm bắt hơn.
If we are to discuss this question of a fundamental change in ourselves and therefore in the world, and in this change to awaken a certain vision, an enthusiasm, a zeal, a faith, a hope, a certainty which will give us the necessary impetus for action—if we are to understand that, isn’t it necessary to go into this question of consciousness? Nếu chúng ta muốn bàn luận về vấn đề của một thay đổi cơ bản trong chính chúng ta và vì vậy trong thế giới, và trong thay đổi này đánh thức được một tầm nhìn nào đó, một nhiệt thành, một hăm hở, một trung thành, một hy vọng, một chắc chắn mà sẽ cho chúng ta động cơ cần thiết cho hành động – nếu chúng ta muốn hiểu rõ điều đó, liệu không cần thiết phải tìm hiểu câu hỏi của ý thức này hay sao?
We can see what we mean by consciousness at the superficial level of the mind.Chúng ta có thể thấy rằng, chúng ta có ý gì qua từ ngữ ý thức tại mức độ hời hợt của cái trí.
Obviously it is the thinking process, thought. Rõ ràng nó là qui trình của suy nghĩ, tư tưởng.
Thought is the result of memory, verbalization; it is the naming, recording and storing up of certain experiences, so as to be able to communicate; at this level there are also various inhibitions, controls, sanctions, disciplines. Tư tưởng là kết quả của ký ức, được từ ngữ hóa; nó là sự đặt tên, ghi lại và lưu trữ những trải nghiệm nào đó, để có thể truyền đạt; tại mức độ này cũng có vô số những kiềm chế, những kiểm soát, những thưởng phạt, những kỷ luật.
With all this we are quite familiar. Chúng ta hoàn toàn quen thuộc tất cả điều này.
When we go a little deeper there are all the accumulations of the race, the hidden motives, the collective and personal ambitions, prejudices, which are the result of perception, contact and desire. Khi chúng ta tìm hiểu sâu xa hơn một chút, còn có tất cả những tích lũy của chủng tộc, những động cơ che giấu, những tham vọng, những thành kiến cá thể hay tập thể mà là kết quả của nhận biết, tiếp xúc và ham muốn.
This total consciousness, the hidden as well as the open, is centred round the idea of the ‘me’, the self. Toàn ý thức này, ý thức che giấu và ý thức hiển lộ, được tập trung quanh ý tưởng của ‘cái tôi’, cái ngã.
When we discuss how to bring about a change we generally mean a change at the superficial level, do we not?Khi chúng ta bàn luận làm thế nào để tạo ra một thay đổi chúng ta thông thường có ý một thay đổi tại mức độ hời hợt, đúng chứ?
Through determination, conclusions, beliefs, controls, inhibitions, we struggle to reach a superficial end which we want, which we crave for, and we hope to arrive at that with the help of the unconscious, of the deeper layers of the mind; therefore we think it is necessary to uncover the depths of oneself. Qua khẳng định, kết luận, những niềm tin, những kiểm soát, những kiềm chế, chúng ta đấu tranh để đạt được một kết thúc hời hợt mà chúng ta muốn, mà chúng ta khao khát, và chúng ta hy vọng đến được đó với sự trợ giúp của tầng ý thức bên trong, của những tầng sâu thẳm hơn của cái trí; vì vậy chúng ta nghĩ, cởi bỏ những chiều sâu của chính người ta là điều rất cần thiết.
But there is everlasting conflict between the superficial levels and the so-called deeper levels—all psychologists, all those who have pursued self-knowledge are fully aware of that. Nhưng có sự xung đột mãi mãi giữa những tầng ý thức bên ngoài và những tầng tạm gọi là sâu thẳm hơn – tất cả những người tâm lý học, tất cả những người đã theo đuổi sự hiểu rõ về chính mình hoàn toàn nhận biết được điều đó.
Will this inner conflict bring about a change?Liệu xung đột phía bên trong này sẽ tạo ra một thay đổi?
Is that not the most fundamental and important question in our daily life: how to bring about a radical change in ourselves? Đó không là câu hỏi quan trọng và căn bản nhất trong sống của chúng ta: làm thế nào để tạo ra một thay đổi cơ bản trong chính chúng ta?
Will mere alteration at the superficial level bring it about? Thuần túy thay đổi tại mức độ hời hợt sẽ tạo ra nó được không?
Will understanding the different layers of consciousness, of the ‘me’, uncovering the past, the various personal experiences from childhood up to now, examining in myself the collective experiences of my father, my mother, my ancestors, my race, the conditioning of the particular society in which I live—will the analysis of all that bring about a change which is not merely an adjustment? Hiểu rõ những tầng khác nhau của ý thức, của ‘cái tôi’, cởi bỏ quá khứ, những trải nghiệm cá thể từ thời niên thiếu đến nay, tìm hiểu trong chính tôi những trải nghiệm tập thể của người cha của tôi, người mẹ của tôi, tổ tiên của tôi, chủng tộc của tôi, tình trạng bị quy định của xã hội đặc biệt trong đó tôi sống – liệu sự phân tích về tất cả việc đó sẽ tạo ra một thay đổi mà không chỉ là một điều chỉnh?
I feel, and surely you also must feel, that a fundamental change in one’s life is essential—a change which is not a mere reaction, which is not the outcome of the stress and strain of environmental demands.Tôi cảm thấy, và chắc chắn bạn cũng phải cảm thấy, rằng một thay đổi cơ bản trong chính sống của người ta là cốt lõi – một thay đổi mà không chỉ là một phản ứng, mà không là kết quả của sự căng thẳng và áp lực của những đòi hỏi thuộc môi trường sống.
How is one to bring about such a change? Làm thế nào người ta sẽ tạo ra một thay đổi như thế?
My consciousness is the sum total of human experience, plus my particular contact with the present; can that bring about a change? Ý thức của tôi là ‘tổng thể những trải nghiệm của con người’, cộng thêm sự tiếp xúc đặc biệt của tôi với hiện tại; liệu ý thức đó có thể tạo ra một thay đổi?
Will the study of my own consciousness, of my activities, will the awareness of my thoughts and feelings, stilling the mind in order to observe without condemnation, will that process bring about a change? Liệu sự tìm hiểu về ý thức riêng của tôi, những hoạt động riêng của tôi, liệu nhận biết được những suy nghĩ và cảm thấy của tôi, đang làm yên lặng cái trí với mục đích quan sát mà không-phê bình, liệu qui trình đó sẽ tạo ra một thay đổi?
Can there be change through belief, through identification with a projected image called the ideal? Liệu có thể thay đổi qua niềm tin, qua đồng hóa với một hình ảnh chiếu rọi được gọi là lý tưởng?
Does not all this imply a certain conflict between what I am and what I should be? Tất cả việc này không hàm ý một xung đột nào đó giữa tôi là gì và tôi nên là gì?
Will conflict bring about fundamental change? Liệu xung đột sẽ tạo ra một thay đổi cơ bản?
I am in constant battle within myself and with society, am I not? Tôi liên tục đấu tranh bên trong chính tôi và xã hội, phải không?
There is a ceaseless conflict going on between what I am and what I want to be; will this conflict, this struggle bring about a change? Có một xung đột không ngừng nghỉ giữa tôi là gì và tôi muốn là gì; liệu xung đột này, đấu tranh này sẽ tạo ra một thay đổi?
I see a change is essential; can I bring it about by examining the whole process of my consciousness, by struggling, by disciplining, by practising various forms of repression? Tôi thấy một thay đổi là cốt lõi; liệu tôi có thể tạo ra nó bằng cách tìm hiểu toàn qui trình thuộc ý thức của tôi, bằng cách đấu tranh, bằng cách kỷ luật, bằng cách luyện tập nhiều hình thức khác nhau của kiềm chế?
I feel such a process cannot bring about a radical change. Tôi cảm thấy một qui trình như thế không thể tạo ra một thay đổi cơ bản.
Of that one must be completely sure. Người ta phải tuyệt đối chắc chắn về điều đó.
And if that process cannot bring about a fundamental transformation, a deep inward revolution, then what will? Và nếu qui trình đó không thể tạo ra một thay đổi cơ bản, một cách mạng sâu thẳm bên trong, vậy thì cái gì sẽ?
How are you to bring about true revolution?Làm thế nào bạn tạo ra được cách mạng thực sự?
What is the power, the creative energy that brings about that revolution and how is it to be released? Quyền lực, năng lượng sáng tạo mà sẽ tạo ra cách mạng đó là gì, và làm thế nào nó được giải thoát?
You have tried disciplines, you have tried the pursuit of ideals and various speculative theories: that you are God, and that if you can realize that Godhood or experience the Atman, the highest, or what you will, then that very realization will bring about a fundamental change. Bạn đã thử những kỷ luật, bạn đã thử theo đuổi những lý tưởng và vô số những lý thuyết phỏng đoán nào đó: rằng bạn là Thượng đế, và rằng nếu bạn có thể nhận ra chất lượng Thượng đế hay trải nghiệm Đại ngã, cái tối thượng, hay điều gì bạn muốn, vậy thì chính nhận ra đó tạo ra một thay đổi cơ bản.
Will it? Liệu đúng chứ?
First you postulate that there is a reality of which you are a part and build up round it various theories, speculations, beliefs, doctrines, assumptions, according to which you live; by thinking and acting according to that pattern you hope to bring about a fundamental change. Trước tiên bạn giả thuyết rằng có một sự thật mà bạn là một bộ phận và dựng lên quanh nó vô số những lý thuyết, những phỏng đoán, những niềm tin, những giáo điều, những giả thuyết, tùy theo đó bạn sống; bằng cách suy nghĩ và hành động tùy theo khuôn mẫu đó, bạn hy vọng tạo ra một thay đổi cơ bản.
Will you? Đúng chứ?
Suppose you assume, as most so-called religious people do, that there is in you, fundamentally, deeply, the essence of reality; and that if, through cultivating virtue, through various forms of discipline, control, suppression, denial, sacrifice, you can get into touch with that reality, then the required transformation will be brought about.Giả sử bạn phỏng đoán, giống như hầu hết những người tạm gọi là tôn giáo đều làm, rằng có trong bạn, sâu thẳm, bản thể của sự thật; và rằng nếu, qua sự vun đắp đạo đức, qua vô vàn hình thức của kỷ luật, kiểm soát, kiềm chế, chối từ, hi sinh, bạn có thể tiếp xúc với sự thật đó, vậy thì sự thay đổi cần thiết sẽ được tạo ra.
Is not this assumption still part of thought? Giả thuyết này vẫn là một phần của tư tưởng, đúng chứ?
Is it not the outcome of a conditioned mind, a mind that has been brought up to think in a particular way, according to certain patterns? Nó là kết quả của một cái trí bị quy định, một cái trí được nuôi dưỡng để suy nghĩ trong một phương cách đặc biệt, tùy theo những khuôn mẫu nào đó?
Having created the image, the idea, the theory, the belief, the hope, you then look to your creation to bring about this radical change. Bởi vì đã tạo ra hình ảnh, ý tưởng, lý thuyết, niềm tin, hy vọng, tiếp theo bạn nhờ cậy sự sáng tạo của bạn để tạo ra sự thay đổi cơ bản này.
One must first see the extraordinarily subtle activities of the ‘me’, of the mind, one must become aware of the ideas, beliefs, speculations and put them all aside, for they are really deceptions, are they not?Trước hết người ta phải thấy được hoạt động tinh vi lạ lùng của ‘cái tôi’, của cái trí, người ta phải trở nên nhận biết được những ý tưởng, những niềm tin, những phỏng đoán và gạt đi tất cả chúng, bởi vì chúng thực sự là những lừa dối, phải không?
Others may have experienced reality; but if you have not experienced it, what is the good of speculating about it or imagining that you are in essence something real, immortal, godly? Những người khác có lẽ đã trải nghiệm sự thật; nhưng nếu bạn không trải nghiệm nó, tốt lành gì khi giả thuyết về nó hay tưởng tượng rằng bạn ở trong bản thể của cái gì đó thực sự, vĩnh cửu, thiêng liêng?
That is still within the field of thought and anything that springs from thought is conditioned, is of time, of memory; therefore it is not real. Nó vẫn còn trong lãnh vực của tư tưởng và bất kỳ điều gì khởi nguồn từ tư tưởng đều bị quy định, thuộc thời gian, thuộc ký ức; vì vậy nó không-thực sự.
If one actually realizes that—not speculatively, not imaginatively or foolishly, but actually sees the truth that any activity of the mind in its speculative search, in its philosophical groping, any assumption, any imagination or hope is only self-deception—then what is the power, the creative energy that brings about this fundamental transformation? Nếu người ta thực sự nhận ra điều đó – không phải giả thuyết, không phải tưởng tượng hay khờ khạo, nhưng thực sự thấy rằng bất kỳ hoạt động nào của cái trí trong sự tìm kiếm giả thuyết của nó, trong sự tìm kiếm triết lý của nó, bất kỳ giả thuyết nào, bất kỳ sự tưởng tượng hay hy vọng nào chỉ là tự-lừa dối – vậy thì quyền lực, năng lượng sáng tạo mà tạo ra sự thay đổi cơ bản là gì?
Perhaps, in coming to this point, we have used the conscious mind; we have followed the argument, we have opposed or accepted it, we have seen it clearly or dimly.Có lẽ, trong đến được mấu chốt đó, chúng ta đã sử dụng cái trí có ý thức; chúng ta đã theo sát sự bàn luận, chúng ta đã phản đối hay chấp nhận nó, chúng ta đã thấy nó rõ ràng hay mờ mờ.
To go further and experience more deeply requires a mind that is quiet and alert to find out, does it not? Muốn thâm nhập và trải nghiệm sâu xa hơn nữa cần đến một cái trí yên lặng và tỉnh táo để tìm ra, phải không?
It is no longer pursuing ideas because, if you pursue an idea, there is the thinker following what is being said and so you immediately create duality. Nó không còn đang theo đuổi những ý tưởng bởi vì, nếu bạn theo đuổi một ý tưởng, có người suy nghĩ đang theo sát điều gì đang được nói, và thế là ngay lập tức bạn tạo tác sự phân hai.
If you want to go further into this matter of fundamental change, is it not necessary for the active mind to be quiet? Nếu bạn muốn tìm hiểu sâu xa hơn nữa vấn đề của thay đổi cơ bản này, liệu không cần thiết cho một cái trí năng động phải yên lặng hay sao?
Surely it is only when the mind is quiet that it can understand the enormous difficulty, the complex implications of the thinker and the thought as two separate processes, the experiencer and the experienced, the observer and the observed. Chắc chắn chỉ khi nào cái trí yên lặng nó mới có thể hiểu rõ sự khó khăn cực kỳ, những hàm ý phức tạp của người suy nghĩ và suy nghĩ như hai qui trình tách rời, người trải nghiệm và vật được trải nghiệm, người quan sát và vật được quan sát.
Revolution, this psychological, creative revolution in which the ‘me’ is not, comes only when the thinker and the thought are one, when there is no duality such as the thinker controlling thought; and I suggest it is this experience alone that releases the creative energy which in turn brings about a fundamental revolution, the breaking up of the psychological ‘me’. Cách mạng, cách mạng sáng tạo thuộc tâm lý này, trong đó ‘cái tôi’ không hiện diện, chỉ xảy ra khi người suy nghĩ và suy nghĩ là một, khi không có sự phân hai như người suy nghĩ đang kiểm soát suy nghĩ; và tôi gợi ý rằng chính trải nghiệm này, một mình nó, mới giải thoát năng lượng sáng tạo mà phản hồi bằng sáng tạo một cách mạng cơ bản, phá vỡ ‘cái tôi’ thuộc tâm lý.
We know the way of power—power through domination, power through discipline, power through compulsion.Chúng ta biết phương cách của quyền lực – quyền lực qua thống trị, quyền lực qua kỷ luật, quyền lực qua cưỡng bách.
Through political power we hope to change fundamentally; but such power only breeds further darkness, disintegration, evil, the strengthening of the ‘me’. Qua quyền lực chính trị chúng ta hy vọng thay đổi một cách cơ bản; nhưng quyền lực như thế chỉ nuôi dưỡng thêm tối tăm, phân rã, tội lỗi, củng cố ‘cái tôi’.
We are familiar with the various forms of acquisition, both individually and as groups, but we have never tried the way of love, and we don’t even know what it means. Chúng ta quen thuộc với vô số hình thức của kiếm được, cả cá thể lẫn những nhóm người, nhưng chúng ta đã không bao giờ cố gắng theo phương cách của tình yêu, và thậm chí chúng ta không biết nó có nghĩa gì.
Love is not possible so long as there is the thinker, the centre of the ‘me’. Tình yêu không thể xảy ra được chừng nào còn có người suy nghĩ, trung tâm của ‘cái tôi’.
Realizing all this, what is one to do? Khi nhận ra tất cả việc này, người ta phải làm gì đây?
Surely the only thing which can bring about a fundamental change, a creative, psychological release, is everyday watchfulness, being aware from moment to moment of our motives, the conscious as well as the unconscious.Chắc chắn việc duy nhất có thể tạo ra sự thay đổi cơ bản, một giải thoát thuộc tâm lý, sáng tạo, là sự cảnh giác mỗi ngày, tỉnh thức từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc những động cơ của chúng ta, cả tầng ý thức bên ngoài lẫn tầng ý thức bên trong.
When we realize that disciplines, beliefs, ideals only strengthen the ‘me’ and are therefore utterly futile—when we are aware of that from day to day, see the truth of it, do we not come to the central point when the thinker is constantly separating himself from his thought, from his observations, from his experiences? Khi chúng ta nhận ra rằng những kỷ luật, những niềm tin, những ý tưởng chỉ củng cố thêm ‘cái tôi’ và vì vậy hoàn toàn vô ích – khi chúng ta tỉnh thức được điều đó từ ngày sang ngày, thấy sự thật của nó, chúng ta không đến được mấu chốt khi người suy nghĩ đang liên tục tách rời chính anh ấy khỏi suy nghĩ của anh ấy, khỏi những quan sát của anh ấy, khỏi những trải nghiệm của anh ấy, hay sao?
So long as the thinker exists apart from his thought, which he is trying to dominate, there can be no fundamental transformation. Chừng nào người suy nghĩ còn hiện diện tách rời khỏi suy nghĩ của anh ấy, mà anh ấy đang cố gắng thống trị, không thể có thay đổi cơ bản.
So long as the ‘me’ is the observer, the one who gathers experience, strengthens himself through experience, there can be no radical change, no creative release. Chừng nào ‘cái tôi’ còn là người quan sát, người thâu lượm trải nghiệm, còn tự-củng cố chính anh ấy qua trải nghiệm, không có thay đổi cơ bản, không có giải thoát sáng tạo.
That creative release comes only when the thinker is the thought—but the gap cannot be bridged by any effort. Giải thoát sáng tạo đó hiện diện chỉ khi nào người suy nghĩ là suy nghĩ – nhưng khoảng cách đó không thể được kết nối bởi bất kỳ nỗ lực nào.
When the mind realizes that any speculation, any verbalization, any form of thought only gives strength to the ‘me’, when it sees that as long as the thinker exists apart from thought there must be limitation, the conflict of duality—when the mind realizes that, then it is watchful, everlastingly aware of how it is separating itself from experience, asserting itself, seeking power. Khi cái trí nhận ra rằng, bất kỳ phỏng đoán nào, bất kỳ từ ngữ hóa nào, bất kỳ hình thức nào của suy nghĩ chỉ tạo nên sức mạnh cho ‘cái tôi’, khi nó thấy rằng chừng nào người suy nghĩ còn tồn tại tách rời khỏi suy nghĩ, phải có sự giới hạn, xung đột của sự phân hai – khi cái trí nhận ra điều đó, vậy thì nó tỉnh táo, luôn luôn nhận biết được rằng nó đang tách rời chính nó khỏi trải nghiệm, đang khẳng định chính nó, đang tìm kiếm quyền hành như thế nào.
In that awareness, if the mind pursues it ever more deeply and extensively without seeking an end, a goal, there comes a state in which the thinker and the thought are one. Trong nhận biết đó, nếu cái trí luôn luôn theo đuổi nó sâu thẳm hơn và tổng thể hơn mà không tìm kiếm một kết thúc, một mục đích, kia kìa có một trạng thái mà trong đó người suy nghĩ và suy nghĩ là một.
In that state there is no effort, there is no becoming, there is no desire to change; in that state the ‘me’ is not, for there is a transformation which is not of the mind. Trong trạng thái đó không có nỗ lực, không có đang trở thành, không có ham muốn để thay đổi; trong trạng thái đó ‘cái tôi’ không còn, bởi vì có một thay đổi mà không thuộc cái trí.
It is only when the mind is empty that there is a possibility of creation; but I do not mean this superficial emptiness which most of us have.Chỉ khi nào cái trí trống không mới có thể có sáng tạo; nhưng tôi không có ý nói sự trống không hời hợt này mà hầu hết chúng ta đều có.
Most of us are superficially empty, and it shows itself through the desire for distraction. Hầu hết chúng ta đều trống không hời hợt, và nó bộc lộ chính nó qua sự ham muốn để xao nhãng.
We want to be amused, so we turn to books, to the radio, we run to lectures, to authorities; the mind is everlastingly filling itself. Chúng ta muốn được vui chơi, vì vậy chúng ta dựa vào những quyển sách, vào máy thâu thanh, chúng ta tìm đến những người giảng thuyết, những uy quyền; cái trí luôn luôn đang tự-lấp đầy chính nó.
I am not talking of that emptiness which is thoughtlessness. Tôi không đang nói về trống không đó mà là trạng thái không suy nghĩ.
On the contrary, I am talking of the emptiness which comes through extraordinary thoughtfulness, when the mind sees its own power of creating illusion and goes beyond. Trái lại, tôi đang nói về trống không mà đến qua trạng thái suy nghĩ lạ thường, khi cái trí thấy khả năng tạo tác ảo tưởng riêng của nó và vượt khỏi.
Creative emptiness is not possible so long as there is the thinker who is waiting, watching, observing in order to gather experience, in order to strengthen himself.Trống không sáng tạo không thể hiện diện chừng nào còn có người suy nghĩ mà đang chờ đợi, đang nhìn ngắm, đang quan sát với mục đích để kiếm được trải nghiệm, với mục đích để củng cố chính anh ấy.
Can the mind ever be empty of all symbols, of all words with their sensations, so that there is no experiencer who is accumulating? Liệu cái trí có khi nào được trống không khỏi tất cả những biểu tượng, tất cả những từ ngữ cùng những cảm giác của nó, để cho không còn người trải nghiệm đang tích lũy?
Is it possible for the mind to put aside completely all the reasonings, the experiences, the impositions, authorities, so that it is in a state of emptiness? Liệu cái trí có thể gạt đi tuyệt đối tất cả những lý luận, những trải nghiệm, những áp đặt, những uy quyền, để cho nó trong một trạng thái trống không?
You will not be able to answer this question, naturally; it is an impossible question for you to answer, because you do not know, you have never tried. Bạn sẽ không thể trả lời được câu hỏi này, một cách tự nhiên; nó là một nghi vấn không có đáp án cho bạn, bởi vì bạn không biết, bạn đã không bao giờ cố gắng.
But, if I may suggest, listen to it, let the question be put to you, let the seed be sown; and it will bear fruit if you reallylisten to it, if you do not resist it. Nhưng, nếu tôi được phép đề nghị, hãy lắng nghe nó, hãy để cho câu hỏi được thả vào trong bạn, hãy để cho hạt giống được gieo; và nó sẽ ra quả nếu bạn thực sự lắng nghe nó, nếu bạn không kháng cự nó.
It is only the new that can transform, not the old.Chính cái mới mẻ mới có thể thay đổi, không phải cái cũ kỹ.
If you pursue the pattern of the old, any change is a modified continuity of the old; there is nothing new in that, there is nothing creative. Nếu bạn theo đuổi khuôn mẫu của cái cũ kỹ, bất kỳ sự thay đổi nào là một tiếp tục được bổ sung của cái cũ kỹ; trong đó không có gì mới mẻ, không có gì sáng tạo.
The creative can come into being only when the mind itself is new; and the mind can renew itself only when it is capable of seeing all its own activities, not only at the superficial level, but deep down. Sáng tạo chỉ có thể hiện diện khi chính cái trí là mới mẻ; và cái trí có thể tự-làm mới mẻ lại cho chính nó chỉ khi nào nó có thể thấy được tất cả những hoạt động riêng của nó, không chỉ ở tầng hời hợt, nhưng sâu thẳm.
When the mind sees its own activities, is aware of its own desires, demands, urges, pursuits, the creation of its own authorities, fears; when it sees in itself the resistance created by discipline, by control, and the hope which projects beliefs, ideals—when the mind sees through, is aware of this whole process, can it put aside all these things and be new, creatively empty? Khi cái trí thấy được những hoạt động riêng của nó, tỉnh thức được những ham muốn, những đòi hỏi, những thôi thúc, những theo đuổi riêng của nó, sự tạo tác của những uy quyền, những sợ hãi riêng của nó; khi nó thấy trong chính nó sự kháng cự được tạo ra bởi kỷ luật, bởi kiểm soát, và sự hy vọng mà chiếu rọi những niềm tin, những lý tưởng – khi cái trí thấy thấu suốt, nhận biết được toàn qui trình này, liệu nó có thể gạt đi tất cả những sự việc này và hoàn toàn mới mẻ, trống không một cách sáng tạo?
You will find out whether it can or cannot only if you experiment without having an opinion about it, without wanting to experience that creative state. Bạn sẽ tìm ra liệu nó có thể hay không thể chỉ khi nào bạn thử nghiệm mà không có bất kỳ ý kiến nào về nó, không có bất kỳ mong muốn để trải nghiệm trạng thái sáng tạo đó.
If you want to experience it, you will; but what you experience is not creative emptiness, it is only a projection of desire. Nếu bạn mong muốn trải nghiệm nó, bạn sẽ nhận được; nhưng điều gì bạn trải nghiệm không là trống không sáng tạo, nó chỉ là một chiếu rọi của ham muốn.
If you desire to experience the new, you are merely indulging in illusion; but if you begin to observe, to be aware of your own activities from day to day, from moment to moment, watching the whole process of yourself as in a mirror, then, as you go deeper and deeper, you will come to the ultimate question of this emptiness in which alone there can be the new. Nếu bạn ham muốn để trải nghiệm cái mới mẻ, bạn chỉ đang buông thả trong ảo tưởng; nhưng nếu bạn bắt đầu quan sát, nhận biết được những hoạt động riêng của bạn từ ngày sang ngày, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, nhìn ngắm toàn qui trình của chính bạn như trong một cái gương, vậy thì, bởi vì bạn thâm nhập sâu thẳm hơn và sâu thẳm hơn, bạn sẽ đến được nghi vấn tối hậu của trống không này mà, một mình nó, có thể có cái mới mẻ.
Truth, God or what you will, is not something to be experienced, for the experiencer is the result of time, the result of memory, of the past, and so long as there is the experiencer there cannot be reality.Sự thật, Thượng đế hay bất kỳ điều gì bạn muốn, không là cái gì đó để được trải nghiệm, vì người trải nghiệm là kết quả của thời gian, kết quả của ký ức, của quá khứ, và chừng nào còn có người trải nghiệm, không thể có sự thật.
There is reality only when the mind is completely free from the analyser, from the experiencer and the experienced. Có sự thật chỉ khi nào cái trí hoàn toàn được tự do khỏi người phân tích, khỏi người trải nghiệm và vật được trải nghiệm.
Then you will find the answer, then you will see that the change comes without your asking, that the state of creative emptiness is not a thing to be cultivated—it is there, it comes darkly, without any invitation; only in that state is there a possibility of renewal, newness, revolution. Lúc đó bạn sẽ tìm được đáp án, lúc đó bạn sẽ thấy rằng sự thay đổi hiện diện không cần sự mời mọc của bạn, rằng trống không sáng tạo đó không là một sự việc để được vun đắp – nó hiện diện ở đó, nó đến một cách lặng lẽ, không cần bất kỳ sự mời mọc nào; chỉ trong trạng thái đó mới có thể có mới mẻ lại, trạng thái mới mẻ, cách mạng.